“Tin tức mới nhất về bác sĩ là gì?” Jack Nielson hỏi.
“Vẫn vậy. Ông ấy vẫn đang hôn mê,” Robert nói.
Jack không muốn ngồi xuống. Anh ta lúng túng đứng giữa phòng khách của Robert, vẫn mặc nguyên áo mưa, hai tay khoanh trước ngực. Robert chậm rãi đi quanh phòng, vòng qua mấy cái vali và thùng giấy. Trong một thùng các-tông, chậu cây của mẹ chồng của Jenny nhô lên quá mép thùng hai lăm phân. Bây giờ là mười giờ hai lăm phút sáng thứ Bảy. Cứ năm phút Robert lại kiểm tra đồng hồ một lần. Anh định gọi lại cho bệnh viện lúc mười một giờ.
“Có chắc là anh không muốn uống cà phê không?”
Robert hỏi. Trước đây anh chưa từng thấy Jack từ chối uống cà phê bao giờ.
Jack lắc đầu. “Không. Bob, tôi ghé qua chỉ để nói... Betty và tôi không quá nhất trí về vấn đề này. Cô ấy có phần sợ sệt. Tôi đoán là quá sợ sệt để mời anh ở lại với chúng tôi. Anh biết là tôi đã từng đề nghị anh tới nhà mà.”
“Không cần đâu, Jack. Tôi đã cảm ơn anh rồi.” Robert vẫn chậm rãi đi lại, mắt nhìn xuống sàn.
“Tôi nghĩ là cô ấy lấn cấn về chuyện nhìn trộm hơn bất kỳ chuyện gì khác. Qua cách anh kể, tôi có thể hiểu được sự việc. Tôi cũng bảo với cô ấy là nếu nghe câu chuyện từ phía anh thì cô ấy cũng có thể thông cảm được. Nhưng anh biết phụ nữ thế nào rồi đấy, rồi còn các phát súng nữa.”
Cuộc đối thoại này làm Robert thấy khó chịu. “Tôi rất hiểu và tôi cũng chẳng dám mơ ở trong nhà ai nữa, tôi đúng là thằng ngốc khi đã đi cùng bác sĩ. Ông ấy đã mong mỏi tôi về nhà cùng. Ông ấy là bác sĩ còn tôi thì có một lỗ đạn trong cánh tay.” Robert quẳng điếu thuốc của mình vào lò sưởi. Nó cháy khét lên ở đó, xấu xí và lạc quẻ trên nền đá được quét dọn sạch bóng. “Bác sĩ đó có thể sẽ chết và đó là lỗi của tôi,” Robert nói.
Jack không nói gì. Như thể anh ta đang giữ im lặng một cách lịch sự dành cho người đã khuất.
Anh liếc nhìn anh ta.
“Thôi tôi đi đây, Bob.”
Sau khi anh ta đi mất, Robert nhận ra là Jack không hề hỏi xem anh định ở đâu qua đêm nay hay đi đến đó thế nào, cũng không nói sẽ chống lại mong muốn của vợ mình để giấu anh ở tầng gác mái hay tầng hầm qua đêm nay. Jack sẽ răm rắp nghe lời vợ, không sớm thì muộn, Robert nghĩ. Mà chuyện đó cũng chẳng quan trọng. Nha sĩ sẽ đến vào trưa hôm nay, như Lippenholtz đã báo với anh tối qua. Vậy nên chắc chỉ ngay chiều hoặc tối nay thôi là mọi việc sẽ rõ ràng. Anh tới chỗ điện thoại và gọi tới bệnh viện Rittersville.
“Tình trạng của bác sĩ Knott vẫn vậy,” y tá nói. “Cảm ơn cô.” Anh còn mong đợi điều gì chứ? Anh mới rời khỏi bệnh viện cách đây có hai tiếng.
Robert đổ cốc cà phê nguội ngắt của mình xuống bồn. Anh cầm bức thư mới bắt đầu viết mà anh định gửi bố mẹ Jenny lên. Anh đã gỡ nó ra khỏi máy đánh chữ khi về đến nhà tối qua, gấp nó lại và đặt lên bàn làm việc của mình. Giờ anh dán thư lại và vứt vào một cái túi giấy đựng rác trong bếp. Anh vẫn nhớ địa chỉ của họ đăng trên báo là số 4751 đại lộ Franklin, Scranton. Robert tắm rửa và cạo râu.
Anh tới Scranton trước một giờ. Trong khi lái xe anh đã đấu tranh xem nên gọi điện trước hay chỉ rung chuông, và đến tận bây giờ anh vẫn chưa đưa ra được quyết định cuối cùng. Nhưng anh dừng lại ở một tiệm dược phẩm và đi tới bốt điện thoại. Anh gọi điện tới sở cảnh sát Rittersville. Thám tử Lippenholtz không có mặt nhưng sĩ quan nghe máy có câu trả lời cho câu hỏi của Robert.
“Bác sĩ McQueen vừa mang theo bản phim X quang tới đây. Ông ấy chỉ có một bản chụp hàm dưới và nói rằng mình chưa bao giờ động tới hàm trên của Wyncoop nên không dám chắc… Không, ông ấy không thể nhận diện được.”
“Tôi hiểu rồi… tôi hiểu rồi.” Robert cảm ơn anh ta và dập máy. Anh nhìn xung quanh, sững sờ, choáng váng trước sự lộn xộn bên trong tiệm dược phẩm.
“Tôi có thể giúp gì cho anh không?” Một cô gái tóc vàng mặc áo khoác trắng nói.
Robert lắc đầu. “Không, cảm ơn.”
Anh đi ra xe. Anh hỏi cảnh sát giao thông xem đại lộ Franklin nằm ở đâu, dù được chỉ đường, nhưng anh vẫn phải hỏi lại ở một trạm đổ xăng mới tìm được. Con đường nằm trong một khu dân cư rộng lớn đầy những ngôi nhà hai tầng có bãi cỏ, cây được trồng ven đường và không có vỉa hè. Số 4751 là một căn nhà gạch đỏ, cửa và bục cửa sổ đều màu trắng. Trên cửa không có vòng hoa trang trí. Jenny chưa một lần tả lại ngôi nhà cho anh, nhưng anh cảm thấy đau đớn như thể đã rất quen thuộc với nó, như thể đã từng cùng cô tới đây. Anh đỗ lại gần đường lái xe vào nhà, ở rìa đường cái, và ra khỏi xe, đi lên con đường mòn lát đá thẳng tắp. Anh nghe tiếng trẻ con cười đùa, do dự một phần nghìn giây, rồi tiến tới. Anh đập cửa bằng vòng gõ sắt đen sì.
Một người phụ nữ tươi cười có một đứa trẻ bám chặt lấy đầu gối đi ra cửa. “Vâng?”
“Chị... Đây có phải là nhà Thierolf không?”
Nụ cười của bà ta tắt ngóm. “À không, đó là căn nhà kế bên,” bà ta nói, chỉ đường. “Số bốn bảy năm ba.”
“À. Cảm ơn chị. Xin lỗi.” Anh quay đi dưới ánh mắt chòng chọc của bà ta và lại đi xuống đường. Rõ ràng báo đã in nhầm.
Ngôi nhà bên cạnh làm hoàn toàn từ gạch, màu đỏ nhạt hơn, to hơn, và cũng giản dị hơn ngôi nhà mà lúc nãy anh đến. Và hình ảnh ngôi nhà này không gây ra một tác động nào đến anh cả. Nhưng anh cảm thấy yếu ớt hơn và đã có lúc nghĩ rằng mình không thể đi đến cùng được. Rồi anh vẫn ép mình tiến tới.
Một người đàn ông ra mở cửa, ông ta cao ráo, có mái tóc muối tiêu và bọng mắt trên đôi má xệ.
“Chào buổi sáng. Chào buổi chiều,” Robert hấp tấp chữa lời. “Tên cháu là... tên cháu là Robert Forester.” Anh nhìn thấy vẻ sững sờ trong đôi mắt của ông ta.
“À. Thì...”
“Cháu tới đây để gặp cô chú... cháu muốn gặp cô chú, vì cháu...”
“Ai thế, Walter?” Giọng một người phụ nữ xen vào. Vẫn không rời mắt khỏi Robert, ông ta bước tránh sang một bên cho vợ nhìn. “Người này... Đây chính là Robert Forester.”
Miệng bà ta há ra ngạc nhiên. Khuôn mặt trái xoan dài của bà ta giống như Jenny, và cả đôi môi mỏng cũng y hệt. Tóc bà ta nửa xám nửa vàng, được búi gọn sau đầu.
“Chào buổi chiều, cô Thierolf,” Robert nói. “Cháu hy vọng cô chú sẽ thứ lỗi cho cháu khi đột ngột tới đây như thế này. Cháu muốn gặp cô chú.”
“À...” Người phụ nữ nói, trông xấu hổ và đau khổ y như những gì Robert đang cảm thấy. Đôi mắt của bà buồn bã, mệt mỏi, nhưng hoàn toàn không mang vẻ thù hận. “Jenny chắc chắn... chắc chắn là con bé đã kể rất nhiều về cậu.” Mắt bà ầng ậng nước.
“Vào nhà đi, em yêu,” người đàn ông gật đầu với vợ. “Anh sẽ nói chuyện với cậu ta.”
“Không.” Bà nhìn Robert, giờ đã lấy lại tự chủ. “Tôi thấy... trông cậu không giống với những gì chúng tôi đã hình dung.”
Robert đứng bất động, căng thẳng. “Cháu muốn nói chuyện riêng với cô chú – nói về sự hối hận của cháu về...”
Người mẹ thở dài nặng nề. “Cậu có muốn vào trong không?” Bà gượng hỏi.
“Không cần đâu, cảm ơn cô.” Robert nhìn khuôn mặt vẫn còn cau có của bố Jenny. Mắt ông trùng màu với mắt của Jenny. “Cháu không biết nói gì để...”
“Vào nhà đi,” bà nói.
Robert đi theo người phụ nữ vào một căn phòng khách gọn gàng với họa tiết hoa lá đầy trên thảm và vải bọc đồ nội thất. Tim anh đập thình thịch khi thấy trên lò sưởi một thứ mà anh nghĩ là ảnh Jenny, nhưng đó lại là ảnh của một chàng trai. Không nghi ngờ gì là ảnh em trai cô khi đang học đại học.
“Cậu có muốn ngồi xuống không?”
Robert cảm ơn bà nhưng vẫn đứng nguyên. Ông Thierolf đang đứng chắn giữa Robert và cửa phòng khách. Mẹ Jenny ngồi xuống chiếc xô-pha nhỏ.
“Chúng tôi vẫn chưa dám tin. Tôi biết là sự đã rồi,” bà nói, chạm vội vào mắt. Nhưng bà không hề khóc.
Bà ngẩng đầu lên và nhìn Robert. “Con bé có nói gì với cậu không? Cho cậu bất kỳ gợi ý nào về lý do... lý do nó làm vậy?”
Robert lắc đầu. “Không có gì ạ. Tối thứ Hai vừa rồi cháu đã gặp cô ấy. Cô ấy còn bảo không muốn gặp lại cháu nữa. Cháu có hỏi vì sao nhưng cô ấy không chịu nói. Cháu tưởng... Theo lẽ tự nhiên cháu đã nghĩ là vì cô ấy nghĩ rằng cháu... cháu gây ra cái chết của Greg. Một điều không hề đúng sự thật. Nhưng cháu cho là thế. Cháu chưa bao giờ nghĩ là cô ấy muốn tự tử, hay thậm chí là cô ấy có tính đến việc đó... Ý cháu là, thật sự làm vậy.” Anh nhìn bố của Jenny, người đang cau mày lắng nghe. “Mặc dù...”
“Sao cơ?” Ông Thierolf nói.
Robert liếm môi. “Cô ấy hay nói về cái chết và việc rời khỏi thế gian. Có thể hai cô chú đã biết điều đó rồi.”
“À, chúng tôi biết, biết chứ,” bà Thierolf nói bằng giọng mất sạch hy vọng. “Thỏ con của chúng tôi... hay nói về cái chết.”
“Cháu không nói là điều đó lý giải mọi chuyện. Không hề. Nhưng cô ấy nói về cái chết như một thứ mà cô ấy háo hức muốn được biết. Cháu cũng không biết phải diễn tả thế nào.”
Đầu bà Thierolf gục xuống. Chồng bà liền bước tới bên bà.
“Cháu xin lỗi,” Robert nói với cả hai người. “Cháu đã nói đủ rồi. Cháu nên đi thôi.”
Bố Jenny nhìn anh. Ông vẫn đang khom người an ủi vợ, tay đặt trên vai bà. “Tôi nghe nói hôm nay họ sẽ nhận dạng cái xác mà họ tìm thấy dưới sông đúng không?” Giọng ông có vẻ cộc cằn của dân Tây Âu, dù không có phương ngữ.
“Cháu cũng vừa nhận được tin,” Robert nói. “Ông nha sĩ ấy, bác sĩ McQueen ở Humbert Corners, cũng không dám chắc. Ông ấy chỉ mới xử lý hàm dưới của Greg và... À, việc nhận diện vô hiệu rồi. Không có cách nào cả.”
Ông Thierolf gật đầu và không nói gì.
“Chú Thierolf, giờ cháu cũng muốn nói luôn, là cháu không hề đẩy Greg xuống sông. Cháu dám chắc là cậu ta còn sống. Jenny nói là hai cô chú đều rất quý mến cậu ta.”
“À, tôi không quá quý cậu ta,” ông Thierolf nói. “Cậu ta không...” Ông nhún vai ngừng nói, như thể chủ đề ấy hiện giờ không còn quan trọng nữa.
“Chúng tôi đã mất hai đứa con,” bà Thierolf nói, ngẩng lên nhìn Robert, “ông trời chỉ để lại một đứa, Don của chúng tôi.” Bà gật đầu về phía bức ảnh trên bệ lò sưởi, nụ cười thoáng nở trên môi. “Tháng sau là nó sẽ tốt nghiệp. Ngồi xuống đi.”
Robert ngồi xuống như thể giọng nói nhẹ nhàng của bà đầy tính ra lệnh. Anh ở lại thêm tầm mười phút. Ông Thierolf cuối cùng cũng ngồi xuống ghế xô-pha cạnh vợ. Họ hỏi thăm Robert về bản thân anh, liệu anh có định ở lại Langley hay không. Anh kể cho họ ý định tới thăm mẹ anh ở New Mexico. Bà Thierolf, với tính cách thẳng thắn và đơn giản gợi Robert nhớ tới Jenny, kể cho anh là khoảng mười ngày trước khi Jenny mất, cô đã nghi ngờ anh giết Greg vào buổi tối ẩu đả. Bạn bè cô đã trò chuyện với cô. Nhà Thierolf nói rằng họ không biết phải tin vào điều gì nữa. Sự sai trái ấy khiến Robert thấy xấu hổ, như thể họ đang hé lộ một nét tính cách ngớ ngẩn ở Jenny. Nó khiến anh cảm thấy kỳ cục, muốn biện hộ cho cô, thấy hổ thẹn về chính mình. Họ thậm chí còn không dò hỏi cảm xúc của anh dành cho Jenny, có vẻ họ biết rằng cô quan tâm tới anh nhiều hơn tình cảm anh dành cho cô. Khi anh đứng dậy ra về, bà Thierolf đề nghị pha chút trà cho anh “tỉnh táo quay về,” lúc đầu Robert thấy cảm động nhưng sau lại bực bội một cách lạ lùng. Anh lịch sự từ chối. Anh cảm thấy họ đã nói chuyện với nhau nhưng lại chẳng giao tiếp được gì. Thái độ của ông Thierolf thân thiện hơn hẳn khi Robert ra về. Còn thái độ của vợ ông chỉ đơn giản là của một phụ nữ tốt bụng bình thường, phải gánh chịu nỗi đau quá lớn, chẳng còn chỗ cho sự căm ghét, chẳng còn năng lượng để thù địch. Và anh cảm thấy có vẻ bà Thierolf đang khoan dung với anh, tạm hoãn phán xét anh vì bà biết Jenny đã rất quý mến – thậm chí là yêu anh.
Một lúc lâu sau khi rời khỏi nhà họ, Robert lái xe một cách chậm chạp, tâm trí vẫn bị trói buộc vào cuộc đối thoại ban nãy, vào cảm xúc không thỏa mãn kì lạ mà anh đã cảm thấy khi ở nhà họ, khiến anh hoang mang. Anh không hối hận vì đã tới gặp họ. Nhưng cho dù anh không đi thì liệu có sự khác biệt nào với bất kỳ ai không? Anh chỉ nhận thấy duy nhất một điểm là việc không đến thăm họ sẽ khiến anh trở nên thô lỗ và hèn nhát hơn, nhưng anh đã kỳ vọng nhiều về cuộc gặp đó hơn chỉ là sự thỏa mãn khi làm được một việc đúng đắn. Anh quyết định là cái cảm xúc khó hiểu của mình đối với chuyến viếng thăm là do việc gia đình Thierolf không hiểu tính cách của anh và cũng không hiểu thấu chính con gái của họ, và hẳn cũng không thể biết rõ kết quả khi hai tính cách ấy gặp nhau.
Khi anh về đến nhà đã là năm giờ hơn, bước vào căn nhà trống trơn, thấy những cái vali và thùng giấy xấu xí dường như đã túm tụm lại trên sàn nhà mấy tuần nay rồi. Anh gọi tới bệnh viện. Một lần nữa lại nhận được thông tin “không có gì thay đổi,” và khi Robert xin được nói chuyện với bác sĩ Purcell, người chữa trị cho bác sĩ Knott, thì ông ta lại không có mặt. Sáng sớm hôm nay khi tới bệnh viện, anh đã nói chuyện với bác sĩ Purcell. Robert cảm thấy là vị bác sĩ này biết bác sĩ Knott sẽ không qua nổi, chỉ là không nói ra. Bác sĩ Knott không hề có tiến triển gì, đó là sự thật. Mắt ông nhìn anh vẫn hệt như cái lúc Robert chạy xuống cầu thang và thấy ông đang nằm trên sàn.
Anh tự pha cho mình một ly Scotch với nước, uống nửa cốc rồi ngủ gục trên chiếc tràng kỷ đỏ. Khi anh tỉnh giấc, trời tối om, vài con châu chấu hồng đang ngân nga. Hơi sớm để loài này xuất hiện, Robert nghĩ, hứa hẹn một mùa hè hanh khô. Anh bật đèn rồi mở cửa trước và đi ra ngoài. Kẽo kẹt… kẽo kẹt… kẽo kẹt… kẽo kẹt… Anh hình dung ra cả trăm con mắt côn trùng đang tròn xoe ở xung quanh mình, tất cả đều trợn tròn hướng về phía anh. Anh bước xuống cái hiên nhỏ. Mặt trăng một phần tư treo lơ lửng trên bầu trời đen kịt bên phía tay phải của anh. Chân anh va vào một khúc gỗ, và anh nhặt nó lên, vô thức cầm như cầm gậy. Anh di chuyển về phía bụi cây tú cầu đen ngòm, chậm rãi đi vòng quanh nó. Không có gì cả, tất nhiên rồi. Sao anh lại bận tâm tìm kiếm? Sẽ chẳng có gì đến nếu anh chủ động tìm kiếm. Không có gì dành cho anh cả. Một chiếc xe ô-tô chậm chạp đi tới và rẽ vào đường lái xe vào nhà Kolbe, cách đó khoảng chín mươi mét. Có độc một ô cửa sổ sáng đèn trong nhà Kolbe, và sau một phút, một cửa sổ dưới nhà cũng sáng lên, rồi đến một cửa sổ trên gác. Kolbe là gã cao to đã vào nhà Robert đầu tiên đêm có năm phát súng nổ, đêm thứ Năm. Đó cũng chính là kẻ đã cung cấp thông tin cho cả một phòng nhung nhúc người là “cô gái trẻ đã tự tử” hay qua đêm ở nhà Robert. Anh lẽ ra nên chịu khó kết bạn với Kolbe tư cách đây vài tuần thì biết đâu ông ta sẽ không thù địch như thế. Nhưng anh lại không làm, thế đấy. Nhưng Robert nhớ ra là không lâu sau khi anh chuyển vào căn nhà này hồi tháng Hai, anh đã hai lần giúp Kolbe xúc tuyết khỏi hòm thư của ông ta. Nếu xe đưa thư không tiếp cận được hòm thư thì chủ nhà sẽ không được giao thư, vì nhân viên đưa thư không cần phải ra khỏi xe của họ khi nhét thư vào hòm thư của mọi người. Nhưng Kolbe có lẽ đã quên sự giúp đỡ nhỏ nhoi đó, hẳn là vậy rồi.
Rồi Robert nghe như có tiếng giày lê trên mặt đường sỏi. Anh bước nép vào sau bụi cây tú cầu. Vài giây sau đó không còn thấy hay nghe được gì, rồi có tiếng bước chân chậm rãi, rõ mồn một vang lên giữa tiếng ngân nga của lũ châu chấu hồng. Cảnh sát bảo vệ à? Cuối cùng cũng chịu tới? Ít có khả năng đó, Robert nghĩ. Anh không chắc là cảnh sát biết anh ở nhà tối nay. Robert khom người xuống, căng thẳng, nắm chặt khúc gỗ của mình.
Giờ anh nhìn thấy bóng người cao lớn, đen xì đứng ngay rìa đất của anh, ngay cạnh đường lái xe vào nhà. Đó là Greg. Hắn đang tiến về phía ngôi nhà, nhìn ngang ngó dọc rồi lại dồn sự chú ý vào ngôi nhà với cửa sổ bên cánh quay ra đường cái, một hình chữ nhật đen kịt do rèm được kéo xuống chỉ để lọt một dải ánh sáng lờ mờ. Greg kiễng chân đi về phía cửa nhà. Hai lần trước hắn ta đã bắn qua chính ô cửa sổ nằm bên trái cửa.
Robert ước lượng khoảng cách giữa họ vào khoảng năm đến sáu mét. Để tới được chỗ cửa sổ Greg sẽ phải đi thêm sáu mét nữa và khi hắn đã tới đó thì sẽ khuất khỏi tầm mắt của Robert, vòng qua sau nhà. Giờ, khi anh muốn có tiếng động thì châu chấu hồng lại im bặt, như thể chính chúng cũng đang hào hứng quan sát xem chuyện gì đang xảy ra.
Giờ anh đã nhìn thấy rõ mặt nghiêng của Greg. Hắn rất chăm chú, khẩu súng kẹp chặt giữa hai tay, và đang cố gắng nhấc cửa sổ lên bằng hai ngón tay cái. Robert thấy cửa sổ hơi nâng lên một chút, nhưng tấm rèm vẫn rủ xuống quá khung cửa. Greg nhấc súng lên. Sau đó Robert chạy hết tốc lực thu hẹp khoảng cách sáu mét giữa họ và đúng lúc hắn quay lại nhìn, anh đập khúc gỗ xuống.
Khẩu súng văng đi.
Greg nằm trên mặt đất, rên rỉ, cố gắng gượng dậy. Robert đã thả khúc gỗ xuống. Anh dợm dùng tay nện Greg rồi kiềm chế lại. Hắn không thể đứng lên.
Robert nhặt khẩu súng đen ngòm gần đầu gối của Greg.
Hắn chửi thề, nhìn xuống đất. Anh nghe thấy tiếng chạy trên đường, từ phía nhà Kolbe sang.
“Xin chào! Ông Kolbe đấy à?” Robert gọi.
Kolbe mang khẩu súng săn. “Có chuyện gì thế?” Greg loạng choạng gượng dậy, ngã vào tường như một gã say. “Đồ khốn,” hắn lầm bầm, thở dốc. “Mày là đồ khốn...”
“Đây là Wyncoop,” Robert nói.
“Anh đang làm gì với khẩu súng đó?” Kolbe vội vã hỏi, nhìn khẩu súng trong tay phải của anh.
“Lấy nó ra khỏi tay Wyncoop,” Robert nói. “Ông có thể trông chừng hắn cho tới lúc tôi tìm được thứ gì đó để trói hắn lại không?” Anh bỏ Kolbe lại đó, vẫn còn chết sững vì ngạc nhiên, rồi đi vào nhà.
Dây phơi quần áo bằng nhựa mà Robert cần tìm không có trong mấy chiếc thùng giấy. Cuối cùng anh cũng thấy nó trong chiếc thùng đựng ủng và phần lớn giày dép. Anh gỡ sợi dây hồng ra khi đi ra cửa. Kolbe đang đứng trong ánh sáng gần hiên trước, mắt nhìn anh trừng trừng, tay ôm khẩu súng ngang người, sẵn sàng nâng lên. Greg đứng cách đó vài mét.
“Súng của anh ta đâu, anh Forester?” Kolbe hỏi.
“Trong nhà,” Robert nói, hất đầu.
“Anh mang nó ra cho anh ta được chứ?” Kolbe nói.
Robert phải mất một giây mới hiểu được điều ông ta muốn nói. “Còn lâu mới có chuyện tôi lấy súng cho hắn ta,” anh nói và cầm sợi dây phơi quần áo tiến về phía Greg, hắn lập tức lùi lại một bước. Cánh tay của Greg giần giật, sẵn sàng đánh nhau. Robert cũng nắm chặt nắm tay phải, và đúng lúc anh chuẩn bị tấn công Greg thì giọng ông Kolbe vang lên, “Đứng yên tại chỗ đi, Forester!”
Robert quay về phía Kolbe, đứng lùi lại để có thể nhìn rõ cả ông ta lẫn Greg. “Có thể ông chưa hiểu rồi, ông Kolbe. Đây chính là Greg Wyncoop, người đã nổ súng tấn công tôi. Tóc anh ta được cắt kiểu đầu đinh, nhưng ông có thể thấy...”
“Thế à?” Kolbe nói. “Dù có phải hay không thì anh là ai mà dám trói người lại?” Hàng lông mày xám rậm rạp của ông ta nhíu lại. “Anh mau vào trong lấy súng cho anh ta đi. Không thì tôi sẽ chĩa khẩu súng này vào anh đấy.”
Robert chỉ biết thở dốc, không thể nói gì hơn. Kolbe hất khẩu súng săn về phía anh, vẫn đang ôm ngang nó. “Sao ông không để tôi gọi cảnh sát nhỉ?” Anh nói. “Cứ để họ quyết định. Được chứ?”
Kolbe nhếch mép cười. Mắt ông ta nhìn Robert nao núng như mắt của một kẻ nói dối. “Lấy súng đi, Forester. Anh ta nói rằng mình không phải là Wyncoop. Vì sao tôi lại phải tin lời anh chứ?” Rồi cơ thể nặng nề của Kolbe hơi xoay đi khi ông ta tiến về phía ngôi nhà, vẫn chĩa súng về phía Robert. “Đi nào.”
Anh bước lên thềm, vào nhà. Khẩu súng đang nằm trên bàn làm việc.
“Tôi đang quan sát anh đấy. Cầm vào nòng thôi,” Kolbe gầm ghè nói.
Robert mỉm cười lo âu. Anh cầm bằng báng súng thì sao nào, sẽ chĩa nó vào Kolbe à? Ông ta sẽ bắn vỡ sọ anh, anh sẽ bắn thủng bụng ông ta, rồi như thế thì có gì tốt? Robert cầm nòng súng để nhấc nó lên.
“Giờ thì đi ra khỏi cánh cửa đó và đưa cho anh ta đi.” Robert làm theo. Greg đang đứng nguyên chỗ cũ, hoặc có thể là xa ngôi nhà hơn vài bước. Đến giữa đường, anh dừng lại.
“Đi tiếp đi,” Kolbe nói.
Greg tiến lên lấy khẩu súng, như thể thấy sợ Robert. Cái miệng rộng của hắn hé ra. “Quân sát nhân,” hắn nói khi tay nắm lấy súng.
Bàn tay trống trơn của Robert buông thõng xuống.
Anh quan sát Greg đút khẩu súng vào túi áo mưa đen ngòm của hắn. Rồi Greg quay phắt đi và tiến ra đường cái, rảo bước thật nhanh, dù hơi lảo đảo. Chưa đầy năm giây, hắn đã khuất dạng trong đêm đen. Robert quay về phía Kolbe, liếc nhìn khẩu súng săn của ông ta, rồi đi ngang qua chỗ ông ta về phía thềm nhà. Kolbe hầm hầm đi bên cạnh anh, dẫm chân lên thềm trước.
Robert dừng lại. “Có phản đối nếu tôi gọi điện cho cảnh sát không? Hay ông cũng chê trách cảnh sát luôn?”
“Không, tôi không chê trách gì cảnh sát hết,” Kolbe trâng tráo nói.
“Tốt.” Nhưng sau tất cả, Robert nghĩ thầm, sao lại không thể chê trách cảnh sát cơ chứ? Họ đã làm được gì tốt đâu?
Kolbe không vào nhà. Ông ta đứng trên hiên, quan sát Robet qua cánh cửa mở toang.
Có lẽ ông ta định đợi để nghe xem cảnh sát có đến hay không, Robert nghĩ. Và chắc giờ ông ta đang cân nhắc xem nên khai gì với họ, chẳng hạn như, “Tôi không thấy anh ta trông giống Wyncoop và anh ta cũng bảo là không phải… Forester đang giữ súng khi tôi đến.”
Điện thoại reo ngay trước khi Robert kịp chạm tay vào. Anh nhấc ống nghe lên.
“Đây là bệnh viện Rittersville,” giọng một người phụ nữ cất lên. “Có phải anh Forester đấy không?”
“Vâng, là tôi đây.”
“Chúng tôi rất tiếc phải báo tin là tình trạng của bác sĩ Knott đã xấu đi trong một giờ đồng hồ vừa qua. Nhịp tim của ông ấy đã yếu đi nhiều. Ông ấy đang được cho dùng lồng ô-xi, nhưng bác sĩ nói rằng ông ấy chưa có đến năm mươi phần trăm cơ hội…” Giọng nói đều đều vang lên.
Robert nhắm mắt lại, nói, “Được rồi… Được rồi, cảm ơn cô.” Anh dập máy và nhìn Kolbe, người đang đứng ngay cửa phòng, khung người cao mét tám sừng sững, khuôn mặt nông dân đỏ quạch, gồ ghề, đôi mắt trông còn ngu xuẩn hơn mắt con chó bị bắn tối qua.
“Chuyện gì thế?” Kolbe hỏi, ám chỉ cuộc điện thoại vừa xong.
“Không có gì,” Robert nói và nhấc điện thoại lên để gọi cho cảnh sát Rittersville. Anh đổi ý và gọi tới cảnh sát Langley. “Đây là Robert Forester, đường Gursetter. Không cần ghi lại đâu. Greogory Wyncoop vừa mới tới đây và có thể hắn đang... hắn vẫn còn ở Langley trong mấy phút tới, đang tìm xe buýt hoặc taxi để trốn thoát. Hắn mặc một chiếc áo mưa màu đen và để kiểu đầu đinh. Và hắn ta cũng mang theo súng.” Robert dập máy và lại nhìn Kolbe. Ông ta không hề nhúc nhích và vẫn đang nhìn Robert như thể sợ anh sẽ lao ra khỏi cửa hoặc có hành động bạo lực với mình. “Ông có muốn ngồi xuống không, ông Kolbe?”
“Không. Cảm ơn.”
Robert lại nhìn điện thoại, cảm thấy vô ích nhưng vẫn nhấc ống nghe lên, gọi cho tổng đài báo số của sở cảnh sát Rittersville mà anh mới nhớ ra. Anh xin gặp Lippenholtz nhưng anh ta không có ở đấy.
“Có rắc rối gì thế, anh Forester?” Giọng nam hỏi. “Gregory Wyncoop vừa đến và mới rời đi,” Robert nói. “Tôi đã gọi cho cảnh sát Langley cách đây vài phút vì có thể hắn đi về phía đó.”
“Anh chắc đấy là Wyncoop chứ? Anh có nhìn kỹ mặt cậu ta không?”
“Nhìn rất kỹ.”
“Chuyện này xảy ra cách đây bao lâu?”
“Hai đến ba phút gì đấy.”
“Xem nào. Được rồi, chúng tôi sẽ phát tín hiệu cảnh báo. Chúng tôi cũng sẽ cử người tới nói chuyện với anh,” anh ta nói thêm.
Robert dập máy. Anh tự hỏi bao giờ thì họ mới cử người qua. Ngay lập tức? Hay trong một tiếng nữa? “Cảnh sát đang tới,” anh nói với Kolbe. “Từ Rittersville.”
“Được rồi,” ông ta nói.
Robert đã hy vọng là Kolbe có thể buông lỏng trạng thái cảnh giác vì cảnh sát sắp đến, nhưng ông ta vẫn đứng đó như một dân quân tự vệ đô con sẵn sàng giương súng. “Uống rượu không?” Robert hỏi, cầm cốc rượu dở đã tan hết đá lên.
“Đừng có chạm vào nó,” Kolbe nói.
Robert kéo cái ghế lưng thẳng ra, ngồi xuống và châm một điếu thuốc.
“Neddie à? Anh có ở đó không, Neddie?” Giọng một người phụ nữ gọi.
“Anh ở trong này, Louise!” Kolbe nói với qua vai. Robert nghe tiếng chân người phụ nữ bước lên hiên. Bà ta mở to mắt đứng ở cửa, một người phụ nữ vai rộng, người rắn rỏi, tầm năm mươi tuổi, mặt như một cái chảo bột, tay đút trong túi áo khoác len cũ mềm. “Chuyện gì đã xảy ra thế, Neddie?”
“Anh chàng này đang cầm một khẩu súng khi anh qua đây,” Kolbe nói. “Bảo rằng một cậu khác ở đây lúc đó chính là Wyncoop mà mọi người đang tìm kiếm.”
“Trời đất ơi,” người phụ nữ lầm bầm, nhìn Robert chằm chằm như thể chưa từng thấy anh bao giờ, dù bà ta và anh vẫn gật đầu chào hỏi nhau cả chục lần gì đó từ khi Robert chuyển đến sống trong căn nhà này.
Anh tiếp tục hút thuốc trong im lặng.
“Thêm vào đó còn là bợm rượu,” Kolbe nói.