Vài tháng sau, Dunford đang ngồi trên salon uống trà với Belle. Cô vừa ghé qua tán gẫu khiến anh rất vui vì chuyến viếng thăm không hẹn trước này, đã khá lâu họ không gặp nhau kể từ khi cô lấy chồng.
“Cậu có chắc là John sẽ không xông vào đây với một khẩu súng rồi gọi mình ra ngoài chứ?”, Dunford hỏi đùa.
“Anh ấy không thừa thời gian cho việc vớ vẩn đấy đâu”, cô vừa cười vừa nói.
“Không có thời gian để thể hiện tính sở hữu à? Lạ làm sao!”
Belle nhún vai. “Anh ấy tin tưởng cậu, mà quan trọng hơn, anh ấy tin tớ.”
“Đúng là một người đàn ông mẫu mực”, Dunford lạnh lùng nói, tự nhủ mình không ghen chút nào với hạnh phúc của bạn.
“Và…”
Chợt có tiếng gõ cửa. Họ nhìn lên và thấy Whatmough, người quản gia lạnh lùng của Dunford, đứng ở ngưỡng cửa.
“Luật sư đã đến thưa ngài.”
Dunford nhướng mày. “Ông bảo là luật sư sao? Tôi không đoán được là tại sao đấy.”
“Ông ta cứ khăng khăng đòi gặp, thưa ngài.”
“Để ông ta vào xem sao.” Dunford quay lại phía Belle và nhún vai tỏ ý không hiểu.
Cô mỉm cười tinh nghịch: “Hấp dẫn thật”. “Xem nào!”
Whatmough dẫn ông luật sư vào. Một người đàn ông tầm vóc trung bình mặc áo xám. Ông ta tỏ ra khá kích động khi gặp Dunford. “Ngài là ngài Dunford?”
Dunford gật đầu.
“Tôi không biết nói thế nào để ngài hiểu tôi thật vui mừng khi cuối cùng cũng gặp được ngài.” Viên luật sư phấn khởi nói, rồi nhìn Belle vẻ nghi ngờ. “Và đây là Dunford phu nhân? Thế mà tôi cứ đinh ninh ngài chưa cưới vợ cơ đấy. Ôi nó thật kỳ quặc. Quá là kỳ quặc.”
“Tôi chưa cưới vợ. Đây là Phu nhân Blackwood. Một người bạn. Thế ông là…?”
“Ôi, tôi xin lỗi, rất rất xin lỗi.” Viên luật sư rút khăn tay và khẽ lau trán. “Tôi là Percival Leverett, đến từ văn phòng luật Cragmont, Hopkins, Topkins, và Leverett.” Viên luật sư nghiêng người về phía trước, nhấn giọng khi nói tên riêng của mình. “Tôi có chuyện quan trọng cần nói với ngài. Một tin quan trọng nhất.”
Dunford vẫy tay. “Ồ! Vậy thì nghe tin đó nào.”
Leverett liếc nhìn Belle rồi quay lại phía Dunford. “Tôi có thể nói riêng với ngài được không? Cô ấy không liên quan đến tin này.”
“Tất nhiên rồi.” Dunford quay lại phía Belle, “Cậu không phiền chứ?”.
“Ồ không sao”, Belle mỉm cười, trả lời với cả ngàn câu hỏi trong đầu, “Tôi sẽ đợi ở đây”.
Dunford tiến về phía cửa dẫn tới phòng làm việc. “Mời ngài theo lối này, ngài Leverett.”
Họ rời khỏi phòng, và Belle vui sướng nhận ra cửa chỉ khép hờ. Cô lập tức đứng dậy và chuyển đến chiếc ghế gần cánh cửa, rồi vươn người căng tai hết cỡ.
Tiếng rì rầm vang lên.
Nhiều tiếng xì xào hơn nữa.
Rồi tiếng Dunford, “Chú tôi. Ai cơ?”. Xì xầm, xì xầm.
“Ở đâu?”
Xì xầm, xì xầm, tiếng gì đó như là Cornwall. “Qua mấy đời rồi?”
Không, không thể là “tám” như cô nghe thấy.
“Và ông ấy để lại cho tôi... cái gì?”
Belle vỗ tay. Thú vị thật! Dunford vừa có một khoản thừa kế bất ngờ. Cô hy vọng nó cũng khá. Một người bạn của cô vừa mới được thừa kế tới ba mươi bảy con mèo.
Phần còn lại của đoạn hội thoại không thể đoán được. Sau vài phút, hai người đàn ông xuất hiện và bắt tay nhau. Leverett nhét vài thứ giấy tờ vào cặp và nói, “Tôi sẽ gửi số giấy tờ còn lại sớm nhất có thể. Chúng tôi cũng cần chữ ký của ngài nữa”.
“Tất nhiên rồi.”
Leverett gật đầu và rời khỏi phòng. “Thế nào?”, Belle gặng hỏi.
Dunford lờ đi vài phút, dường như anh vẫn chưa thực sự tin vào những gì mình vừa được nghe. “Có vẻ như tôi vừa được thừa kế tước vị nam tước.”
“Nam tước! Lạy chúa, tôi không phải gọi cậu là Ngài Dunford bây giờ đấy chứ?”
Anh nhướng mày. “Lần cuối tôi gọi cậu là Phu nhân Blackwood là bao giờ ấy nhỉ?”
“Mười phút trước”, cô nói giễu, “Khi cậu giới thiệu mình với ông Leverett”.
“Hay lắm, Belle.” Anh đã an vị trên sofa, còn không cần đợi cô ngồi xuống trước. “Tôi nghĩ cậu có thể gọi tôi là Nam tước Stannage.”
“Thưa Nam tước Stannage”, cô lẩm bẩm, “Nghe mới cao quý làm sao. William Dunford, Nam tước Stannage”. Cô cười ranh mãnh. “Là William đúng không nhỉ?”
Dunford khịt mũi. Hiếm khi anh được gọi bằng tên, lâu đến mức họ đã từng đùa rằng Belle không thể nhớ nổi nó nữa.
“Tôi đã hỏi mẹ rồi”, anh trả lời. “Bà nói bà nghĩ rằng nó là William.”
“Thế ai đã chết vậy?”, Belle hỏi thẳng.
“Thật hết sức khéo léo và tinh tế, cô Arabella yêu quý ạ.” “Ồ, rõ là cậu không quá đau buồn vì sự mất mát người họ hàng xa này, bởi vì cậu còn không biết đến sự tồn tại của ông ấy cho đến vừa rồi.”
“Một người anh họ. Chính xác là anh họ đời thứ tám.” “Thế họ không tìm được ai có họ gần hơn à?”, cô hỏi một cách nghi ngờ. “Tất nhiên không phải tôi ghen tỵ với may mắn của cậu nhưng họ hàng xa quá.”
“Chúng tôi là một gia đình gắn bó mà.”
“Hay thật đấy!”, Belle lẩm bẩm một cách mỉa mai.
“Thôi bỏ đi”, anh nói, lờ đi sự chế giễu của cô, “giờ tôi sở hữu tước hiệu và một mảnh đất nhỏ ở Cornwall”.
Vậy là cô đã nghe đúng. “Cậu đã bao giờ đến Cornwall chưa?”
“Chưa. Thế còn cậu?”
Cô lắc đầu. “Tôi nghe nói nó khá đẹp. Những vách đá ầm ầm sóng vỗ và mọi thứ. Rất hoang sơ.”
“Nó có thể hoang sơ thế nào hả Belle? Dù sao thì đây cũng là nước Anh.”
Cô nhún vai, “Vậy cậu có dự định đến thăm nơi đó không?”.
“Tôi nghĩ là mình phải đi.” Anh gõ nhịp ngón tay vào đùi. “Cậu nói hoang sơ phải không? Có khi tôi sẽ thích điều đó đấy.”
***
“Tôi hy vọng ngài ấy ghét nó”, Henrietta Barrett nói, cắn miếng táo một cách bực bội. “Tôi hy vọng ngài ấy thực sự ghét nó.”
“Nào, nào, Henry”, bà Simpson, quản gia ở Stannage Park, nói. “Cô có phải người như thế đâu.”
“Tôi chẳng muốn tỏ ra rộng lượng vào lúc này đâu. Tôi đã làm bao nhiêu việc ở điền trang Stannage.” Mắt Henry ánh lên buồn bã. Cô đã sống ở Cornwall từ khi lên tám, sau khi bố mẹ qua đời trong một tai nạn giao thông tại quê nhà ở Manchester, bỏ lại cô mồ côi không một xu dính túi. Viola, bà vợ cuối cùng của ngài nam tước, là em họ của bà ngoại Henry đã đồng ý thu nhận cô.
Henry đã yêu Stannage ngay lập tức, yêu từ những viên đá nhạt của tòa nhà tới những cánh cửa sổ và cả những người thuê nhà tới sống ở đó. Những người phục vụ thậm chí còn thấy cô đánh bóng đồ bạc mỗi ngày. “Tôi muốn mọi thứ đều sáng bóng lấp lánh”, cô nói. “Mọi thứ đều phải hoàn hảo, cho một chỗ hoàn hảo thế này.”
Và Cornwall đã trở thành nhà của cô, còn thân thuộc hơn cả Manchester. Viola rất cưng chiều cô, và Carlyle, chồng của bà, gần như là cha của cô vậy. Ông không dành nhiều thời gian cho cô, nhưng luôn xoa nhẹ đầu cô mỗi khi cô đi ngang qua. Khi cô mười bốn, Viola qua đời, và Carlyle đã rất cô đơn. Ông đã thu mình và bỏ mặc điền trang. Và Henry đã giúp mọi thứ hoạt động trở lại. Cô yêu điền trang Stannage hơn bất cứ ai và biết rõ phải làm gì cho nó. Trong sáu năm gần đây, cô không chỉ là một quý cô của điền ấp mà còn là chủ nhân của nó, được mọi người coi như người phụ trách. Và cô thấy cuộc sống rất tốt.
Nhưng rồi Carlyle qua đời, toàn bộ đất đai và tước hiệu được giao lại cho một người họ hàng xa ở London, có thể là một chàng công tử bột bảnh chọe nào đó. Người này chưa từng tới Cornwall trước đây, cô nghe nói vậy, và cô quên mất chính mình cũng chưa từng ở đây cho tới mười hai năm trước.
“Tên ngài ấy là gì ấy nhỉ?”, bà Simpson hỏi lại lần nữa, tay vẫn đang nhào bột bánh mì.
“Dunford, gì đó Dunford”, Henry chán nản trả lời. “Họ thấy không cần phải nói cho tôi biết tên thật của ngài ấy, mặc dù tôi thấy nó cũng chẳng quan trọng gì. Giờ ngài ấy là ‘Chủ nhân của Stannage’ rồi. Ngài ấy có thể muốn chúng ta gọi cả tước hiệu của ngài ấy nữa. Những quý tộc mới hay làm vậy lắm.”
“Cô nói cứ như mình là một trong số họ vậy, Henry. Đừng nhúng mũi vào chuyện của các quý ông nữa.”
Henry thở dài và cắn miếng táo nữa. “Có khi ngài ấy sẽ gọi tôi là Henrietta.”
“Cũng có thể đấy. Cô đã quá lớn với cái tên Henry rồi.” “Bác vẫn gọi tôi là Henry đấy thôi.”
“Vì tôi đã quá già để thay đổi thói quen rồi. Nhưng cô thì chưa. Cũng đến lúc cô bỏ cái tính lanh chanh và tìm lấy một ông chồng rồi đấy.”
“Và làm gì nữa ạ? Rời đến nước Anh chăng? Tôi không muốn đi khỏi Cornwall.”
Bà Simpson mỉm cười và chỉ ra rằng Cornwall thực ra là một phần của nước Anh. Henry đã quá tận tâm với vùng đất này đến mức cô không nghĩ rằng nó thuộc về một thứ lớn hơn. “Có nhiều quý ông ở Cornwall, cô biết mà”, bà nói, “Một số ở ngay mấy làng bên. Cô có thể cưới một trong số họ.”
Henry giễu cợt, “Bác biết là chẳng có ai trong số họ xứng đáng cả mà bác Simpy. Hơn nữa, chẳng có ai hợp với tôi. Giờ tôi chẳng có một xu dính túi, còn điền trang Stannage thì sắp giao cho một kẻ lạ mặt, và họ đều nghĩ tôi giống như một quái vật”.
“Tất nhiên họ không xứng rồi”, bà Simpy trả lời vội, “Mọi người đều trông vào cô”.
“Tôi biết điều đó”, Henry đáp lời, ngước đôi mắt xám bạc lên, “Họ tìm đến tôi như tìm một người đàn ông, và nếu là đàn ông thì tôi đúng là tuyệt. Nhưng đàn ông họ chẳng cưới một người đàn ông làm gì, bác biết mà”.
“Nếu cô mặc váy thì....”
Henry nhìn xuống cái quần mình đang mặc, “Tôi sẽ mặc váy. Khi nào thích hợp”.
“Tôi không tưởng tượng nổi cô mặc váy sẽ thế nào đấy”, bà Simpy khịt mũi, “Tôi chưa thấy cô mặc bao giờ, kể cả ở nhà thờ. May cho tôi, mục sư là người đàn ông rất cởi mở. May cho cô là ông ấy quá yêu thích những chai rượu Pháp cô gửi cho ông ấy hàng tháng.”
Henry vờ như không nghe thấy. “Tôi đã mặc váy trong đám tang của Carlyle, nếu bà vẫn nhớ. Tới cả văn phòng quận năm ngoái. Và tôi vẫn mặc mỗi khi chúng ta có khách. Tôi có phải đến năm cái trong tủ, cám ơn nhiều. Ồ, và tôi cũng mặc váy xuống thị trấn nữa.”
“Làm gì có chuyện đó.”
“Ờ thì có thể tôi không mặc váy khi vào làng, nhưng khi đến những thị trấn khác thì tôi vẫn mặc đấy chứ. Nhưng ai mà chả thấy thật là bất tiện khi mặc váy để ra ngoài giám sát đất đai.” Henry nhăn nhó nghĩ thầm rằng cô mặc váy trông xấu tệ.
“Thôi, tốt nhất là cô nên mặc váy khi ngài Dunford tới.” “Tôi có ngớ ngẩn đâu bác Simpy.” Henry ném lõi quả táo vào thùng rác ở phía bên kia bếp. Nó rơi đúng giữa thùng khiến cô thốt lên sung sướng, “Không trượt lần nào, mấy tháng rồi”. Bà Simpson lắc đầu. “Giá có ai dạy cô cách làm một quý cô thì tốt biết mấy.”
“Viola đã cố thử đấy”, Henry đốp lại ngay, “và biết đâu bà ấy sẽ thành công nếu sống lâu hơn. Nhưng nói thật, tôi thích thế này hơn”. Ít nhất là gần như lúc nào cũng thích thế, cô nghĩ tiếp. Thỉnh thoảng cô bắt gặp vài quý bà trong những bộ váy lộng lẫy. Những người này cứ như không có chân, Henry nghĩ thế. Họ lướt đi và ở bất cứ nơi nào họ qua cũng có cả tá đàn ông bám theo sau. Henry buồn bã nhìn đoàn tùy tùng ấy và tưởng tượng họ đang theo mình. Rồi cô cười lớn. Giấc mơ đó chẳng thể thành hiện thực, và hơn nữa, chẳng phải cô thích cuộc sống hiện tại sao?
“Henry?”, bà Simpson giật giọng. “Henry, tôi đang nói chuyện với cô đấy.”
“Gì vậy ạ?”, Henry bừng tỉnh. “Ôi! Tôi xin lỗi, tại tôi đang nghĩ đến lũ bò cái”, cô nói dối, “Tôi sợ không đủ chuồng cho chúng”.
“Cô nên nghĩ xem nên làm gì khi ngài Dunford tới mới phải. Ngài ấy nhắn là chiều nay sẽ tới phải không?” “Vâng. Ngài ấy đúng là đồ trời đánh.” “Henry!”, bà Simpson quở trách.
Henry lắc đầu và kết luận, ”Nếu muốn chửi rủa gì thì phải nói ngay lúc này, bà Simpy ạ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ngài ấy thích điền trang Stannage? Hoặc tệ hơn, ngài ấy muốn điều hành nó?”.
“Nếu ngài Dunford thích thì đó là quyền của ngài ấy. Cô biết thừa là ngài ấy sở hữu nơi này mà.”
“Tôi biết, tôi biết. Tiếc là thế.”
Bà Simpson nặn bột thành hình bánh và đặt sang một bên. Vừa lau tay bà vừa nói, “Có khi ngài ấy sẽ bán nó. Nếu ngài ấy bán cho một người địa phương thì cô chẳng có gì phải lo nữa. Ở đây ai chả biết cô là người quản lý Stannage tốt nhất”.
Henry nhảy khỏi quầy, tay chống hông và bước nhanh qua bếp. “Ngài ấy không thể bán được. Nó là tài sản thừa kế. Nếu không thì tôi dám chắc Carlyle đã để lại cho tôi.”
“Ồ vâng. Giờ thì cô chỉ còn việc cố gắng hết sức để làm việc với ngài Dunford.”
“Giờ là Nam tước Stannage chứ”, Henry rên rỉ, “Nam tước Stannage, chủ nhân ngôi nhà của tôi và là người quyết định tương lai của tôi”.
“Thế là có ý gì?”
“Tức là ngài ấy là người giám hộ của tôi.” “Gì cơ?”, bà Simpson ngừng lăn bột.
“Tôi là người được ngài ấy giám hộ.”
“Nhưng... điều đó… không thể được. Cô còn không biết người đàn ông đó.”
Henry nhún vai. “Đời là thế đấy bác Simpy. Phụ nữ không có não mà. Nên họ cần người giám hộ để hướng dẫn mọi việc.”
“Không thể tin được là cô đã không nói với tôi việc này.” “Bác biết là tôi không nói mọi thứ mà.”
“Chỉ là…”, bà Simpson khịt mũi.
Henry cười ngại ngùng. Đúng là cô và bà quản gia rất thân thiết với nhau. Cô lơ đãng cuốn một lọn tóc nâu dài vào ngón tay. Mái tóc là một trong những thứ ít ỏi được cô quan tâm chăm sóc. Sẽ tiện hơn nếu cô cắt ngắn nó đi, nhưng nó quá dày và mềm mại, Henry không thể chịu nổi nếu phải từ bỏ nó. Hơn nữa, cô có thói quen cuộn tóc vào ngón tay khi đang tập trung suy nghĩ, giống như cô đang làm lúc này.
“Đợi chút !”, cô kêu lên. “Gì thế?”
“Ngài Dunford không thể bán chỗ này, nhưng thế không có nghĩa là ngài ấy phải sống ở đây.”
Bà Simpson nheo mắt. “Tôi không chắc mình hiểu ý cô đâu, Henry.”
“Chúng ta chỉ cần khiến ngài ấy hoàn toàn, tuyệt đối không muốn sống ở đây. Có lẽ cũng không khó lắm đâu. Có khi ngài ấy lại là một người London yếu đuối. Chắc cũng không sao nếu làm ngài ấy thấy, ờ, không thoải mái một chút.”
“Cô đang nghĩ cái quái gì thế, Henrietta Barrett? Cho đá vào đệm của người đàn ông tội nghiệp đó à?”
“Không có gì quá đáng đâu, tôi hứa đấy”, Henry chế giễu. “Chúng ta sẽ bày tỏ lòng mến khách. Chúng ta sẽ hết sức lịch sự, nhưng sẽ cố gắng để ngài ấy thấy mình không hợp với cuộc sống nông thôn. Ngài ấy cần học cách yêu thích vai trò của người chủ nhà thường xuyên vắng mặt. Nhất là khi tôi gửi tiền lợi tức cho ngài ấy mỗi quý.”
“Tôi nghĩ cô đầu tư trở lại cho điền trang cơ.”
“Tôi sẽ làm thế, nhưng tôi chỉ phải chia đôi thôi. Tôi sẽ gửi một nửa cho tân Nam tước Stannage, còn một nửa để tái đầu tư ở đây. Tôi chả thích điều này đâu, nhưng như thế còn hơn ngài ấy ở lại đây.”
Bà Simpson lắc đầu. “Thế chính xác là cô định làm gì ngài ấy?”
Henry xoắn lọn tóc vào ngón tay rồi trả lời, “Tôi cũng không chắc. Tôi cần suy nghĩ thêm đã”.
Bà Simpson nhìn đồng hồ. “Cô nên nghĩ nhanh lên, vì chỉ một giờ nữa là ngài ấy có mặt ở đây rồi.”
Henry đi ra phía cửa. “Tôi đi tắm đã.”
“Nếu cô không muốn gặp ngài ấy mà người toàn mùi trang trại”, Bà Simpson nói với theo. “Mà không phải hương hoa hay mật ong đâu, cô hiểu ý tôi chứ?”
Henry lườm bà quản gia. “Thế có ai chuẩn bị bồn tắm cho tôi không?” Thấy bà quản gia gật đầu, cô quay trở lại phía cầu thang. Bà Simpsom nói đúng: Cô không được thơm tho cho lắm. Nhưng sau một buổi sáng giám sát việc xây chuồng lợn thì còn có thể hy vọng gì hơn chứ. Đó là một công việc bẩn thỉu nhưng Henry thích làm, hay đúng hơn, cô giám sát nó. Lội sâu trong bùn không phải việc của cô.
Henry đột ngột dừng lại trên cầu thang, hai mắt sáng lên. Đó không phải việc của cô, nhưng đó là điều dành cho ngài tân Nam tước Stannage. Thậm chí cô còn có thể tạo ra nhiều hoạt động cho âm mưu này hơn, nếu nó có thể thuyết phục ngài Dunford rằng đó là công việc của các chủ điền trang.
Cảm thấy đầy phấn khích, cô nhảy lên những bậc thang cuối dẫn tới phòng ngủ. Cũng phải mất vài phút bồn tắm mới đầy, thế nên cô cầm lược và đi về phía cửa sổ, nhìn ra ngoài. Tóc cô buộc túm đuôi ngựa, nhưng gió đã làm nó rối tung. Cô tháo dây buộc, như thế sẽ dễ gỡ rối hơn.
Henry vừa chải tóc vừa mải miết nhìn những cánh đồng xanh bao quanh ngôi nhà. Mặt trời mới bắt đầu lặn, nhuộm hồng cả bầu trời. Tình yêu của cô. Không sức mạnh nào có thể chia cắt cô với mảnh đất này.
Đúng lúc ấy, có cái gì đó lóe lên ở đường chân trời đã phá hỏng khoảnh khắc đẹp này. Ôi lạy Chúa, có lẽ nào…! Đó là kính, kính từ cửa sổ xe. Chết tiệt! Ngài ấy đến sớm. “Đồ ngốc”, cô lẩm bẩm. “Đúng là hành động thiếu suy nghĩ.” Cô liếc nhìn qua vai. Bồn tắm vẫn chưa xong.
Đến gần cửa sổ hơn, cô nhìn xuống chiếc xe ngựa đang lăn bánh trên đường. Chiếc xe khá đẹp. Ngài Dunford chắc hẳn cũng giàu có, từ trước khi được thừa kế điền trang Stannage.
Cũng có thể ngài ấy mượn được xe của một người bạn giàu có nào đó. Henry nhìn chằm chằm cảnh đó mà không hề nao núng, cô chải nhanh mái tóc. Hai người hầu chạy ra giúp dỡ bỏ hành lý. Cô mỉm cười tự hào. Cô đã giúp ngôi nhà này hoạt động chính xác như một chiếc đồng hồ vậy.
Cửa xe ngựa bật mở. Như vô thức, cô tiến lại phía cửa sổ gần hơn nữa. Một cái chân xuất hiện. Một chiếc giày đẹp và nam tính, Henry quan sát kỹ, và cô biết về những đôi giày của mình. Sau đôi giày là đôi chân đang đi nó, đôi chân cũng nam tính không kém đôi giày. “Ôi trời ơi!”, cô lẩm bẩm. Ngài ấy không phải là một kẻ yếu đuối. Rồi cô nhìn thấy toàn thân người chủ mới.
Cô đánh rơi chiếc lược trong tay.
“Ôi lạy Chúa!”, cô thở gấp. Ngài ấy mới đẹp làm sao. Ồ không, không phải là đẹp, đẹp nghe ẻo lả quá, mà người đàn ông này thì chả có vẻ gì như vậy cả. Ngài ấy cao, cơ thể rắn chắc với bờ vai rộng. Tóc dày, màu nâu, hơi dài. Còn khuôn mặt... Henry nhìn Dunford từ độ cao hơn bốn mét so với mặt đất, nhưng cô vẫn có thể thấy một khuôn mặt hoàn hảo. Gò má cao, mũi thẳng và mạnh mẽ, cái miệng như được đúc với nét châm biếm nhẹ. Cô không nhìn rõ màu mắt, nhưng cô đoán trông nó hẳn rất thông minh, sắc sảo.
Và ngài ấy trẻ hơn rất rất nhiều so với suy nghĩ của cô. Cô cứ nghĩ ông chủ mới phải tầm năm mươi rồi. Còn người đàn ông dưới kia chắc chưa tới ba mươi.
Henry rên lên. Thế này sẽ khó khăn hơn cô tưởng rất nhiều. Cô sẽ phải rất xảo quyệt mới đánh lừa được người này. Cô thở dài cúi xuống nhặt chiếc lược và quay vào phòng tắm.
***
Khi Dunford dạo một lượt phía trước ngôi nhà mới của mình, có cái gì đó chuyển động ở cửa sổ trên gác đập vào mắt anh. Mặt trời chiếu vào kính làm chói mắt, nhưng hình như đó là một cô gái với mái tóc nâu dài. Khi anh nhìn lại kỹ hơn thì cô gái đó đã biến mất. Kỳ lạ thật. Làm gì có người hầu nào lại đứng yên bên cửa sổ như vậy vào giờ này, nhất là tóc lại thả ra như thế. Anh tự hỏi không biết cô gái đó là ai, nhưng ý nghĩ này chỉ thoáng qua. Anh không có nhiều thời gian để tìm hiểu về cô ta, giờ anh có nhiều thứ quan trọng hơn phải xem xét.
Toàn bộ người làm của điền trang Stannage đã tập trung ở trước nhà. Có khoảng hai chục người tất cả, con số khá khiêm tốn, nhưng điền trang Stannage cũng khá nhỏ so với các điền trang khác trong vương quốc. Quản gia, một người đàn ông gầy gò tên Yates, đã cố gắng hết sức để việc tiếp đón diễn ra đúng chuẩn mực. Dunford cố gắng làm vừa lòng ông ta bằng việc tỏ ra khá nghiêm túc, có vẻ như đó là thứ mà những người làm công mong chờ ở người chủ mới. Tuy nhiên, thật khó để nhịn cười khi thấy từng người giúp việc lần lượt cúi chào anh. Anh chưa từng mong chờ tước hiệu, cũng như mảnh đất này và những người sống trên đó. Cha anh là con thứ của con thứ; Chúa mới biết có bao nhiêu người nhà Dunford phải chết thì mới đến lượt anh thừa kế.
Khi người hầu cuối cùng cúi chào xong, Dunford quay lại nói với người quản gia. “Ông đã quản lý rất tốt, ông Yates, màn giới thiệu này là một minh chứng.”
Yates, người không có khuôn mặt lạnh lùng giống những quản gia ở London, đỏ mặt trả lời, “Cám ơn ông chủ. Chúng tôi chỉ làm những gì có thể thôi, và chúng tôi phải cám ơn Henry”.
Dunford khẽ nhướng mày. “Henry?”
Yates nuốt nước bọt. Lẽ ra ông phải nói là Cô Barrett. Ông chủ mới của Stannage hẳn sẽ muốn ông nói thế, ngài ấy đến từ London cơ mà. Và ngài ấy lại còn là người giám hộ của
Henry nữa. Bà Simpson đã kéo ông ra một góc và thì thầm điều bí mật đấy mươi phút trước.
“À! À! Henry là...”, giọng ông nhỏ dần. Thật khó để diễn đạt cho ngài ấy hiểu vị trí của Henry. “Ý tôi là…”
Nhưng Dunford đang hướng sự chú ý tới bà Simpson, người vừa đảm bảo rằng đã ở điền trang Stannage hơn hai mươi năm và biết mọi thứ ở đây, ờ, ít nhất là biết mọi thứ về ngôi nhà, nếu anh cần hỏi.
Dunford chớp mắt khi cố tập trung lắng nghe bà quản gia. Anh cảm thấy hình như bà ấy đang lo lắng chuyện gì. Nếu không bà ấy đã không làm ồn như... như một cái gì đó. Chính xác là cái gì thì anh không biết, và bà ấy đã nói gì nhỉ? Một cái bóng lướt qua chuồng ngựa, đập vào mắt Dunford khiến anh phải hướng ánh nhìn về phía đó. Anh đợi một lúc.
Ồ, phải tự tưởng tượng thôi. Anh quay lại phía bà quản gia. Bà ấy đang nói điều gì đó về Henry. Ai là Henry nhỉ? Câu hỏi đã sắp bật ra khỏi miệng anh, nếu không có một con lợn to tướng đột ngột hất tung cửa chuồng lao ra. “Thánh thần ma quỷ ơi...”, Dunford nghẹn giọng không nói được thành lời. Anh như bị thôi miên bởi tình huống nực cười này. Con vật lao vút qua bãi cỏ và chạy nhanh hơn bất kỳ con lợn nào. Nó đúng là một con quái vật khổng lồ chứ không phải một con lợn bình thường, đó là điều duy nhất có thể mô tả nó. Dunford không nghi ngờ việc nó phải nặng đến nửa tấn nếu mang ra cửa hàng thịt.
Con lợn hướng về phía những người làm công khiến họ la hét ầm ĩ và bỏ chạy tán loạn. Giật mình bởi những chuyển động đột ngột, con lợn dừng lại, nghếch mõm lên và phát ra những tiếng kêu như từ địa ngục, liên tục, liên tục…
“Mày có câm đi không!”, Dunford quát lên.
Con lợn, như cảm thấy uy lực từ giọng nói, không chỉ ngừng kêu mà còn nằm xuống. Henry vô cùng ngạc nhiên và ấn tượng. Cô đang lao xuống cầu thang đúng lúc con lợn sổng chuồng và đi đến trước cỗ xe khi ngài tân Nam tước Stannage đang cố gắng thể hiện quyền lực đối với con vật. Cô chạy ra phía trước mà quên mất mình cần phải tắm và vẫn đang mặc trang phục đàn ông. Trang phục còn rất bẩn nữa.
“Rất xin lỗi thưa ngài”, cô nói khẽ, mím môi cười trước khi cúi xuống túm lấy cổ con lợn. Lẽ ra cô không nên can thiệp vào việc này, đáng lẽ cứ mặc kệ con lợn ngồi dưới đất, đáng lẽ phải cười khi nó lao về phía trước và đáng lẽ phải làm những điều tồi tệ với đôi ủng của ngài tân nam tước. Nhưng cô đã quá tự hào về điền trang Stannage nên không thể đứng nhìn thảm họa xảy ra.
Không gì trên thế gian này có ý nghĩa với Henry hơn sự vận hành trơn tru của mảnh đất này, và cô không thể chịu được khi có ai đó nghĩ rằng lợn chạy lung tung là điều thường thấy, kể cả người đó là ông chủ đáng ghét đến từ London.
Một người chăn lợn chạy đến, túm lấy con vật từ tay cô và dắt nó trở về chuồng. Henry đứng thẳng lên, bất chợt, cô nhận ra mọi người đang nhìn mình trân trối, rồi lau tay vào ống quần. Cô liếc nhanh người đàn ông mặc đồ đen đang đứng kế bên. “Xin chào ngài, Nam tước Stannage!”, cô nói, khẽ nhếch môi lên thành nụ cười chào đón. Suy cho cùng, không cần để ngài ấy biết cô đang muốn đuổi ngài ấy đi.
“Xin chào cô, ờ...” Henry nhìn xuống. Ngài ấy không biết cô là ai? Cũng dễ hiểu nếu ngài ấy nghĩ người mình phải giám hộ là một đứa trẻ, một cô gái trẻ được nuông chiều và ương bướng, chưa từng ra khỏi cửa chứ đừng nói là điều hành cả trang trại.
“Cô Henrietta Barrett”, cô nhấn mạnh vào tên mình. “Nhưng ngài cứ gọi tôi là Henry. Mọi người đều gọi như thế.”