Nghĩa của chữ “Phật” là “giác giả”, ở đây có hai ý nghĩa, một là “từ trong mê mộng mà giác tỉnh”, biểu thị từ trong phiền não vô minh mà giác tỉnh; hai là “như hoa sen nở”, biểu thị trí tuệ (Như sở hữu trí và Tận sở hữu trí) đều khai triển toàn diện. Dựa vào quan điểm của Đại thừa, Phật có pháp thân, báo thân và hóa thân, lại có thể triển khai như sau:

Tự tính thân là chỉ cho tính không của Phật tâm, thuộc pháp vô vi. Trí tuệ pháp thân chính là Phật trí, Nhất thiết tướng trí, cũng là cứu cánh Bát nhã Ba la mật đa, có thể cùng lúc hiện quán Thắng nghĩa đế và Thế tục đế. Báo thân Phật đầy đủ 32 tướng, chỉ sống nơi cõi thuần tịnh, đối tượng được độ hóa là Bồ tát Đăng địa1 trở lên, hơn nữa chỉ khai thị Phật pháp Đại thừa. Tối thắng hóa thân Phật (như Phật Thích Ca Mâu Ni) cũng đầy đủ 32 tướng, chúng sinh được hóa độ phàm thánh đều có cả, còn tùy theo căn cơ không giống nhau mà khai thị ba thừa Phật pháp. Hóa thân khác thì không đầy đủ 32 tướng, là tùy từng loài mà thị hiện để cứu độ hữu tình.
1 Tiếng Phạn là Bhūmyākramaṇa, chỉ cho Bồ tát từ Sơ địa trở lên.
Phật nghiệp của Tối thắng hóa thân Phật chính là tám tướng thành đạo hoặc 12 tướng thành đạo. Theo Thập địa kinh luận quyển 3 và Đại thừa khởi tín luận thì tám tướng là: giáng trần, nhập thai, trụ thai, xuất thai, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân và nhập Niết bàn. Theo Cứu cánh Nhất thừa bảo tính luận quyển 4 thì 12 tướng là: từ trời Đâu suất giáng trần, nhập thai, sinh ra, học các tài nghệ, hưởng thụ dục lạc, xuất gia, khổ hạnh, đến đạo tràng, hàng ma, thành đạo, chuyển pháp luân và nhập Niết bàn.
Trong Du hành kinh của Trường A hàm quyển 4, Đức Phật chỉ nhấn mạnh đến bốn loại trong tám tướng hoặc 12 tướng là: nhớ nơi Phật đản sinh; nhớ nơi Phật mới đắc đạo; nhớ nơi Phật chuyển pháp luân; nhớ nơi Phật nhập Niết bàn.
Chuyển pháp luân chỗ này là chỉ cho Đức Phật lần đầu tiên giảng pháp cho năm vị Tỳ kheo về pháp luân Tứ đế, thời kỳ sau trong Giải thâm mật kinh quyển 2 đã đem chuyển pháp luân tăng thêm thành ba loại là: dùng tướng Tứ đế để chuyển chính pháp luân (Tứ đế pháp luân); dùng tướng Ẩn mật để chuyển chính pháp luân (Vô tướng pháp luân); dùng tướng Hiển hiện để chuyển chính pháp luân (Phân biệt pháp luân).