• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Tìm hiểu giáo lý Phật giáo
  3. Trang 23

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 22
  • 23
  • 24
  • More pages
  • 67
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 22
  • 23
  • 24
  • More pages
  • 67
  • Sau

2Hoặc

Trong Câu xá luận thì từ đồng nghĩa với “hoặc” gồm có phiền não, triền, kiết. Phiền não còn gọi là “tùy miên” (nhưng theo Duy thức tông, phiền não và tùy miên là không giống nhau). Tùy miên có thể phân thành sáu loại là tham, sân, mạn, vô minh, kiến, nghi. Nếu đem “kiến” trong đó phân nhỏ thành năm phần và xếp theo thứ tự trước sau sinh khởi thì ta được mười tùy miên như sau: vô minh, nghi, tà kiến, hữu thân kiến, biên chấp kiến, giới cấm thủ, kiến thủ, tham, mạn, sân. Trong đó vô minh là chỉ cho sự không hiểu rõ đối với chân lý, đặc biệt là chỉ cho sự không rõ ràng về Tứ thánh đế. Ví dụ, Khổ đế là “vô thường, khổ, không, vô ngã”, nhưng chúng sinh luôn cho rằng đó là “thường, lạc, tịnh, ngã”, cách nhìn điên đảo này chính là một loại vô minh. Do vô minh, không hiểu biết chân lý nên sinh ra hoài nghi. Sau khi hoài nghi thì sinh ra tà kiến. Ví dụ, không tin nhân quả, cho rằng không có Tứ thánh đế. Đây là do thường không được nghe thấy được kiến giải chính xác (tà kiến), hoặc do tư duy sai lầm (tà tư), do đó mà đưa đến kết luận sai lầm (tà quyết định: quyết định tà vạy).

Có tà kiến rồi thì sai lầm cho rằng tinh thần là “ngã”, hoặc thể xác là ngã, hoặc toàn thể thân tâm này là một cái ngã chân thật, điều này đã sản sinh ra hữu thân kiến. Ví dụ câu “Tôi tư duy nên tôi tồn tại” của Descartes cũng tương tự như lấy “tư” làm ngã. Bởi vì có thân kiến nên rơi vào “đoạn biên” hoặc “thường biên” của “biên chấp kiến”. Hơn thế nữa, nếu cho rằng một loại khổ hạnh hoặc giới luật nào đó mới là cứu cánh, thì đây chính là giới cấm thủ. Càng tự cho rằng quan điểm của chính mình mới là hay nhất, như vậy sẽ sinh ra kiến thủ. Tiến thêm bước nữa, đối với kiến giải của chính mình sinh ra yêu đắm, vì vậy sinh ra tham; đồng thời, xem thường quan điểm của người khác nên sinh ra mạn; sau đó không thể tiếp thu những kiến giải bất đồng của người khác để rồi tức giận, từ đó sinh ra sân.

Từ vô minh, nhất định sẽ sinh ra tham, sân. Vô minh không được đoạn trừ thì sẽ trôi nổi trong sinh tử luân hồi mà không dừng nghỉ. Phật học xem trọng việc nghiên cứu về chân lý, duy chỉ có trí tuệ thâm nhập vào Tứ thánh đế mới có thể phá trừ vô minh, mới có thể trừ được tận gốc nhận thức sai lầm về chân lý, nếu không thì dù là niềm tin có kiền thành thế nào đi nữa cũng không thể giải quyết được vấn đề một cách thực sự. Muốn trừ được tận gốc kiến giải “hữu ngã” sai lầm thì phải luôn luôn tư duy về đạo lý “vô ngã”. Điều này trước tiên phải thông qua sự chọn lựa có trí tuệ, không thể chỉ đơn thuần dùng niềm tin theo cảm tính mà có thể đạt thành.

Do vậy Câu xá luận quyển 1 viết: “Nếu như xa rời trí tuệ của trạch pháp thì quyết không thể diệt trừ được các loại phiền não”.