M
ặc dù cậu Faggus thông minh, hào phóng, danh tiếng lẫy lừng, thật lòng tôi không biết liệu chúng tôi thấy hãnh diện hay lấy làm xấu hổ khi có một thành viên gia đình là cậu. Tôi nghĩ cán cân nghiêng bên này hay bên kia cũng tùy trường hợp. Chẳng hạn, tôi cực kỳ tự hào khi khoe cậu Tom với bọn con trai ở Brendon - vì chẳng có ngôi làng nào ở Oare. Tuy nhiên, chúng tôi rất ngượng khi tuyên bố có người bà con là một kẻ cướp lừng danh tên Tom Faggus với những mục sư giàu có trong vùng, hoặc những quan tòa (họ thỉnh thoảng vẫn cưỡi ngựa đi dạo và dừng chân tại nhà chúng tôi), ngay cả với những chủ cửa hàng ngoài chợ Porlock, nói tóm lại, với bất kỳ người giàu có nào sống trong nỗi nơm nớp sợ mất của.
Tôi vừa thương lại vừa trách cậu dù lối sống của chúng tôi trong cuộc đời này quá khác biệt. Tôi biết rõ câu chuyện đời cậu. Tôi nghĩ hãy cứ để Chúa làm công việc của mình - trừng trị và phán xét, còn chúng ta cứ thể hiện đặc quyền của mình - thương hại. Chẳng phải vì tôi có thể bào chữa cho sự bất lương rành rành của cậu Tom (tước đi lòng tin từ bà con họ hàng rõ ràng là một sự đáng hổ thẹn đối với cậu). Chỉ là vì trong mọi chuyện, cậu không hề có ý làm hại ai, cũng không nghĩ việc mình làm là sai, dần dà cậu mới nhận ra điều đó. Còn bây giờ, để tránh phiền phức và để làm vừa lòng những người xem thường cậu (không tính đến thời gian hay những thử thách cậu đã kinh qua), tôi xin hầu quý vị câu chuyện về đời cậu, một cách vô tư, không thiên vị, như thể cậu chẳng phải là cậu họ của tôi, và hy vọng được lưu tâm. Tôi không quan tâm nếu có ai đó cho rằng chuyện này sai sự thật hoặc do gia đình tôi tô vẽ nên. Cậu bắt buộc phải nhẫn tâm với người đời, tuy vậy ai cũng đều thừa nhận cậu rất vui vẻ, dễ thương, khi họ đưa tiền cho cậu. Cậu rất hay trả chi phí đi lại cho chiếc xe đuổi theo mình, vì cậu đã dốc sạch ví của họ, không muốn rước thêm phiền phức. Cậu vốn là một thợ rèn, ngụ tại thị trấn Northmolton, Devonshire, một chốn khỉ ho cò gáy của Exmoor. Nhiều người tỏ vẻ không hiểu sao một người như vậy lại sinh ra và lớn lên ở một nơi như thế. Cậu không những biết đọc, biết viết mà còn có của ăn của để. Cụ thể là một mảnh đất có giá trị một trăm bảng, đàn cừu hai trăm con và hai mươi lăm gia súc khác. Vì mồ côi cha mẹ, cậu ra đời từ rất sớm, làm móng ngựa giỏi đến mức đẩy cánh thợ đóng móng của Barum vào nguy cơ mất nhiều mối khách hàng. Thực tế cậu đã thắng một đồng Jacobus1 vàng vì về nhất trong cuộc thi đóng móng ngựa toàn miền Nam Devon, một số người cho rằng chính điều đó đã khiến đời cậu khốn đốn về sau.
1. Một đồng vàng, dưới thời cai trị của vua James đệ nhất, trị giá 25 si linh.
Tôi không biết gì thêm về chuyện đó, ngoài việc người ta thường mang trong mình sự đố kỵ. Dù có thế hay không thì đúng là tai họa đã ập xuống đời cậu trong vòng một tháng sau chiến thắng đầy vinh quang đó, lúc việc làm ăn của cậu đang hồi phát đạt và cậu chuẩn bị cưới vợ. Cậu yêu một cô gái ở Southmolton (hình như con một thợ da, tên là Betsy Paramore), và cha cô ta đã đồng ý. Tom Faggus (vì muốn mình trông bảnh nhất, tinh tươm nhất) đã thuê về nhà hẳn một thợ may riêng mãi tận Exeter. Mọi thứ dành cho Besty cũng đã sẵn sàng (đó chính là cái cớ để sau này họ buộc tội cậu). Đang yên đang lành thì bỗng đâu như sét đánh ngang tai, cậu có trát đòi từ tòa án.
Vụ kiện tụng liên quan đến ngài Robert Bampfylde (một quý tộc trong vùng) khởi đầu từ đây. Ông ta cố trục xuất cậu ra khỏi đất công của mình, đuổi gia súc của cậu và quấy nhiễu chúng. Vụ kiện đó khiến cậu Tom đáng thương nhà tôi bị tán gia bại sản vì ngài Robert quá mạnh về quyền lực và tiền bạc. Thế là tất cả hàng hóa, nông trại bị bán đổ bán tháo, cả lò rèn cũng nối gót ra đi. Nhưng trước khi bị bắt, cậu đã kịp thắng yên ngựa, phi thẳng đến Southmolton, trông như một kẻ điên loạn hơn là một thợ đóng móng ngựa lương thiện, có người trông thấy cậu đã bảo thế. Khi cậu đến nơi, thay vì tìm được nguồn an ủi thì chỉ có cánh cửa đóng im ỉm đón chào cậu. Tin tức về sự lụn bại của cậu đã đến nơi trước cậu. Ông Paramore vốn là người khôn ngoan, cẩn trọng, lại còn là một thành viên cao cấp của hội đồng thành phố. Nghe nói họ thậm chí còn buộc cậu phải trả chi phí cho đồ cưới của Betty, bởi vì giờ đây cậu quá nghèo để cưới cô ta. Điều này có thể sai, và kỳ thực tôi không hề tin. Nhưng trước hết, bởi vì Southmolton là một nơi đông đúc, không tiện nói chuyện, và thứ hai, tôi không nghĩ hành động ấy đúng luật, nhất là vì cô kia đã không mất gì mà lại dùng tất cả chỗ đồ cưới đó cho đám cưới của mình ngay tháng sau với Dick Vellacott, đến từ Mockham.
Tom đau đớn cùng cực, phẫn uất đến mức tuyên bố (tôi nghĩ nếu một người nào đó tốt hơn cậu nhưng trong lúc quẫn trí, bị đẩy đến đường cùng, chỉ còn lại hai bàn tay trắng cũng có thể tuyên bố như vậy): “Thế giới này đã săn đuổi ta hệt như một con sói. Giờ Chúa sẽ giúp ta săn đuổi lại thế giới.”
Suốt một thời gian dài, có vẻ như Thượng đế đứng về phía cậu thật. Cậu thu phí mãi lộ khách đi đường, chẳng mấy chốc nổi danh khắp mọi miền Bristowe. Cậu chăm chỉ làm ăn suốt cả đêm lẫn ngày với ba con ngựa cả thảy cho đến khi làm nên tên tuổi. Rồi cậu quyết định “rửa tay gác kiếm”, trích ra kha khá tiền để làm việc thiện. Nhân tiện tôi cũng phải nói tốt cho tầng lớp thượng lưu một chút. Cậu thực sự quý mến những người thuộc tầng lớp thượng lưu, thết đãi địa chủ và quý tộc (những người có ảnh hưởng nhiều đến công việc làm ăn của cậu) các món ngon nhất trong quán. Họ kể rằng một lần, trong lúc đi kinh lý, những vị đại pháp quan của nhà vua có nhận lời mời của cậu, vui vẻ tuyên bố rằng nếu thực sự không tìm thấy đơn kiện nào chống lại cậu thì chủ quán nên được phép thảo ra một cái. Các chủ quán trọ cũng vậy, cậu luôn trả cho họ hậu hĩnh, cốt để họ tử tế với cậu, và họ tranh giành để cậu đến chỗ mình. Ở bất kỳ thành phố nào, hễ có tin ngài Faggus đang nghỉ tại một quán trọ nào đó thì ngay lập tức cánh đàn ông sẽ lũ lượt kéo đến để uống mừng sức khỏe cậu miễn phí, cánh phụ nữ sẽ bày tỏ niềm ngưỡng mộ đối với cậu, còn bọn trẻ con “đứng chốt” tại các ngã tư để kịp thời chạy về báo tin nếu thấy bóng dáng nhà chức trách. Một trong những cuộc chạm trán sớm nhất của cậu là với ngài Robert Bampfylde, lúc đấy đang cưỡi ngựa dọc theo Barum cùng một người hầu. Tom Faggus gí súng vào đầu ông ta. Thời ấy cậu buộc phải dùng vũ lực vì mong nổi danh sớm. Người hầu vờ như không biết, định rẽ vào khúc cua. Ngài tòng nam tước run lẩy bẩy rút ví ra. Tom lấy ví, nhẫn, đồng hồ, rồi trả lại tất cả kèm theo một cái cúi đầu thật thấp, bảo rằng mình không có thói quen cướp của kẻ cướp. Rồi cậu chuyển sang tên hầu bất trung, mắng hắn về cái tội hèn nhát, tước mọi của nả trên người hắn.
Bây giờ Faggus chỉ giữ một con ngựa, vì sợ các nhà chức trách lại trấn mất, con ngựa đó chính là Winnie. Cậu không bao giờ chịu hé răng nửa lời về chuyện làm sao cậu có được nó, nhưng tôi nghĩ nó là quà tặng từ một viên đại tá nào đấy, một người yêu thể thao, rất am tường về ngựa, và là người được Tom cứu thoát khỏi bọn cờ bạc có ý định sát hại ông ta. Tôi muốn nói thêm rằng Faggus chưa từng phạm tội sát nhân. Chỉ cần ánh mắt của cậu, tiếng lách cách của khẩu súng (trước đây), và tiếng tăm lẫy lừng (bây giờ) là đủ khiến cho mọi người phải phục tùng. Cậu cũng chưa bao giờ cướp của người nghèo, chưa từng xúc phạm một phụ nữ, rất ngoan đạo, yêu nước, hài hước và vui tính.
Tất cả những gì tôi kể về cậu bên trên hoàn toàn vô tư, cốt để chứng minh tại sao cậu được nhiều người biết đến như vậy. Ai ai cũng chửi rủa gia tộc Doone vì sống lạnh lùng, xa cách, lại còn xem thường người khác. Nhưng tất cả đều yêu mến Faggus - khi cậu không cướp tài sản của họ - và nhiều người già yếu chúc cậu lấy được tiền người khác. Tất thảy những người trông coi chuồng ngựa ở quán trọ, mấy cậu bé chăm sóc ngựa và những người phụ việc tại các cửa hàng đều kính trọng cậu.
Nãy giờ tôi hơi dài dòng nhỉ, có lẽ quý vị cũng thấy chán rồi. Nhưng mong quý vị hiểu cho rằng tôi kể lể dông dài cũng vì không muốn bất kỳ ai hiểu lầm, xem thường cậu, trong khi cậu là cậu họ xa của tôi, và là người yêu của… Thôi, khoan đã. Đây là một chuyện không lấy gì làm vui.
Ba tháng sau, cậu lại đến. Đó là một ngày đầu xuân. Cậu mang cho tôi khẩu các bin mới toanh vì biết tôi thích bắn súng, và khao khát lớn lao của tôi là bách phát bách trúng. Nhưng mẹ không cho tôi nhận khẩu súng đó, cho đến khi cậu thề danh dự là đã mua nó đường đường chính chính. Chắc chắn là cậu mua nó đàng hoàng, nếu như có thể gọi việc mua gì đó bằng tiền cướp được là đàng hoàng. Lúc bấy giờ, nơi tập bắn mới của tôi là ở đồi Quarry. Rồi cậu dạy tôi cưỡi con Winnie. Nàng lớn hơn một chút so với lần trước đến đây, nhưng vẫn còn nhớ tôi đôi chút. Sau khi dành nhiều sự quan tâm cho Annie (con bé quý mến cậu một cách kỳ lạ, cậu bảo cậu là cha đỡ đầu của em, nhưng chỉ có Chúa mới biết làm thế nào cậu có thể, trừ phi chúng tôi làm điều này từ khi Annie mới chào đời), cậu lại đi, hai bên hông con Winnie ánh lên như quả anh đào dưới ánh nến.
Giờ đây tôi cảm nhận được rằng những ngày ấu thơ ấy, tôi hầu như chẳng có gì mấy để kể, bởi lẽ gần như mọi chuyện trôi qua yên ả. Tôi bắt đầu dồn toàn tâm toàn ý vào những công việc ở nông trại, cố đỡ đần mẹ. Còn Lorna Doone, mỗi khi nghĩ về em, tôi có cảm tưởng đó là một giấc mơ mà tôi gần như chỉ còn nhớ mang máng. Ai muốn biết chúng tôi đã trồng bao nhiêu giạ lúa mì, hoặc có bao nhiêu gia súc được nuôi để vắt sữa cho đến khi chúng bị đem ra giết thịt, hoặc đã bao mùa trôi qua? Nhưng dạ tôi thì vẫn tối như hồi nào vì thường xuyên phải trông coi lũ cừu, và luôn thèm ăn. Mỗi năm, tôi cao thêm bốn phân, to thêm hai phân cho đến khi khắp Exmoor không tìm ra một ai có khổ người bằng tôi. Thôi bỏ qua chi tiết này đi. Tôi có cao to thế nào thì cũng để làm gì đâu chứ! Nông trại Plover's Barrows làm gì có lối cửa nào bằng của gia tộc Doone, nếu có chăng nữa, tôi cũng không cách nào đi qua lọt. Mọi người vẫn hay trêu chọc, cười cợt (từ trước khi tôi lớn hết cỡ kia) đến mức tôi phát ngượng, không cả dám soi gương. Nhưng mẹ tôi lại rất hãnh diện, bảo rằng có thế nào tôi vẫn là thằng con trai mẹ yêu thương nhất.
Điều khiến tôi xấu hổ hơn cả là tôi cao lớn dềnh dàng, lưng cứ cứng đơ hệt một trụ cổng, đến khom người cũng khó, thế nhưng em Eliza bé nhỏ của chúng tôi lại không phát triển được như người bình thường, mặc dù em uống rượu vang thánh vào lễ Phục sinh và ngày lễ Các Thánh. Em nhỏ bé, gầy guộc, lại còn ngoa ngoắt, ranh mãnh, cong cớn. Không phải là thân người em không thẳng (có lẽ vì quá bé), mà là lúc nào em cũng nói kiểu cạnh khóe, xách mé, kỳ dị, khiến người khác khó chịu. Quý vị không bao giờ đoán được em sẽ nói gì kế tiếp, mà tôi thì chả thích kiểu phụ nữ như vậy. Xin Chúa tha thứ cho tôi vì nói như thế về con gái của cha mình khi ông không còn trên đời để bênh vực em. Hồi mang thai em, mẹ tôi bị ngã khá nặng trên một đường trượt tuyết gần cửa phòng chứa táo, chú John Fry đã tạo ra nó rồi phủ rơm lấy từ chuồng ngựa lên đó để che đậy sự biếng nhác của mình. Cha tôi đã đánh John ngã đập mũi xuống nền băng, nhưng vẫn giữ chú lại. Nhưng với Eliza thì đã quá muộn. Em ra đời ngay ngày hôm sau - yếu ớt và dặt dẹo.
Còn Annie, đứa em gái kế tôi, giờ đã thành một cô gái xinh xắn, ưa nhìn. Tôi có thể ngắm em bên lò sưởi suốt một giờ liên tục khi chưa thấy buồn ngủ, nghĩ về người cha yêu quý. Em cũng làm điều tương tự bên cạnh tôi trong ánh sáng chập chờn hắt ra từ lò sưởi. Tóc em được cột lại đằng sau, nhưng có vài sợi rơi xuống hai vai. Chưa thấy ai có khuôn mặt sáng sủa, đầy biểu cảm như Annie. Ngắm nhìn em, quý vị có thể lầm tưởng rằng em không để ý đến bất kỳ điều gì. Thực ra, em biết có người đang nhìn mình, ánh mắt ấy sẽ nói lên tất cả. Thề có Chúa, tôi luôn sống giản dị, mộc mạc, làm theo những điều Người răn, không bi quan về con người. Tuy vậy, tôi thường bị chọc quê, hay đáp trả bằng những lời lẽ không hay. Mỗi khi như thế mà bắt gặp tia nhìn mềm mại, tinh khôi của Annie, tôi những muốn cắn lưỡi vì đã thả rông tính khí nhỏ nhen mặc sức tung hoành.
Về phần gia tộc Doone, họ vẫn thịnh vượng, phát đạt. Không một ai dám đứng lên chống lại họ, đa phần chỉ giỏi võ mồm, thứ mà bọn họ chẳng mảy may quan tâm. Những kêu ca và oán trách liên tục dấy lên ở mọi tầng lớp, đôi khi đến tận người đứng đầu thiên hạ, tức là Đức vua. Thế nhưng Đức vua lấy chuyện đó ra đùa cợt (tôi không nghĩ là để cho vui), sau đó hài lòng đến mức sẵn sàng tha thứ cho hành động bất lương ấy. Hơn nữa, những nhà chức trách ở rất xa, ngài quan chưởng ấn lại chẳng có gia súc ở Exmoor. Còn ngài chánh thẩm phán tòa án tối cao thì bị cướp mấy cái muỗng bạc, thề rằng sẽ không treo cổ bất kỳ kẻ nào cho đến khi treo cổ được chính tên đểu đó. Do vậy gia tộc Doone cứ tiếp tục lộng hành, ai cũng nghĩ mình không nên dây vào chúng, không khéo lại rước họa. Nếu có người nào dám đấu tay đôi với chúng thì chỉ có Tom Faggus. Mà cậu cũng là kẻ sống ngoài vòng pháp luật. Hơn nữa, cậu đã chuyển địa bàn làm ăn về vùng Wantage, thuộc hạt Berks, nơi có khí hậu khô ráo hơn, cừu béo tốt, đất công mênh mông cho ngựa phi nước đại, các tiểu điền chủ giàu có hơn, những con đường cũng thuận lợi hơn cho việc cướp bóc.
Vài người chỉ biết chăm lo cho bản thân bảo tôi (giờ đây đã cao lớn, phổng phao, có thể bắn khá cừ) nên làm gì đó chống lại gia tộc Doone và chứng tỏ khả năng của mình. Nhưng có một thời gian, tôi rất nhút nhát, run bắn lên khi bỗng nghe ai đó gọi đến tên, đỏ bừng mặt mày hệt một cô gái mới lớn. Vì tôi chưa ý thức được sức vóc của mình, có lẽ thể xác tôi phát triển nhanh hơn trí óc. Với lại, dù yêu thương cha thật, tôi không biết liệu cha có vui lòng khi tôi làm hại đến những kẻ đã đoạt mạng ông. Vài giống người mang trong mình lòng thù hận, luôn đeo đuổi điều sai quấy, dùng mọi cách để thỏa mãn dục vọng kinh tởm của mình trong chốc lát. Nhưng tôi nghĩ chỉ giống loài máu đen, lầm đường lạc lối, chưa từng được thanh tẩy mới làm như vậy. Tôi tin đàn ông Anh chính cống kiên cường hơn, dù vài phụ nữ có thể cũng như thế, nếu họ bị dồn vào đường cùng.
Thôi bỏ qua chuyện đó đi - tôi không dám lạm bàn những điều nằm ngoài khả năng. Tôi chỉ biết một điều rằng nếu tôi mà gặp được kẻ giết cha mình, tôi sẽ cho hắn một trận thừa sống thiếu chết, ấy là ví như tôi có khả năng, nhưng sẽ không bao giờ bắn hắn, trừ phi hắn định bắn tôi, tấn công người nhà tôi, hoặc dùng vũ lực với phụ nữ. Để công bằng với họ, mẹ tôi và em Annie đều tử tế, hiền lành, nhưng Eliza sẽ nổi cơn đùng đùng, mặt trắng bệch đầy khinh miệt.
Mùa đông năm tôi hai mươi mốt tuổi, một chuyện lạ lùng xảy ra. Ai nấy đều khiếp sợ, còn tôi thì thấy bất an. Chẳng phải là có điều gì gây nguy hại, mà là bởi không biết phải giải thích thế nào, chỉ biết đổ cho ma quỷ. Lạ một điều là thời tiết rất ôn hòa, không sương giá, gần như chẳng có tuyết rơi, ngay cả ở nơi cao nhất của Exmoor. Nhưng đêm thì tối một cách lạ lùng, như thể chẳng có ngôi sao nào chiếu sáng, suốt ngày dài sương mù cuộn khắp các ngọn đồi, như thể toàn bộ vùng đất biến thành một tiệm giặt khổng lồ. Khắp nơi đầy chim dẽ giun và két, chim mỏ nhác thì bay loạn xạ, kêu váng trời, bầy chim te te vỗ cánh phành phạch, còn lũ quạ dập dờn bên trên những xác cừu chết, nhưng không thấy chim chân đỏ hay choi choi, ngay cả choi choi lông vàng cũng không (trong khi đây vốn là loài chim phổ biến ở xứ này), chủ yếu chỉ có những con chim lớn đơn độc, kêu ầm ĩ vào ban đêm, đập cánh liên hồi làm lay động cả bầu không khí. Tuy nhiên chưa một ai từng trông thấy chúng. Thật đáng sợ cũng như nguy hiểm đối với bất kỳ người nào đi bắn hay bẫy chim (điều mà gần đây tôi rất thích, nhất là vào mùa đông) bởi vì sương mù sẽ sà xuống dày đến mức ổ nạp thuốc súng bốc mùi khó chịu, không thể nhìn thấy chim chóc gì sau màn khói thuốc súng bốc lên nghi ngút, tệ hơn nữa là súng tịt luôn khiến người thợ săn hoảng lên vì chẳng còn gì phòng thân, vội ngoái nhìn đằng sau. Thế vẫn còn ít nguy hiểm hơn rất nhiều so với việc lạc đường, rơi vào những bãi lầy hoặc ngã khỏi rìa một vách đá.
Thế nhưng tôi cần phải ra ngoài vì tôi đang lúc trai trẻ, dại khờ và sợ sự sợ hãi - nỗi sợ mà một người khôn ngoan đã thoát khỏi từ lâu, vì biết được quanh chúng ta luôn có muôn vàn nguy hiểm bủa vây. Bên cạnh sự điên rồ, cuồng nhiệt của tuổi trẻ, còn có niềm vui mà ta tìm thấy trong nỗi hoài nghi. Vì sợ tôi không chịu về nhà (dù kỳ thực thời ấy tôi có thể ngửi được mùi thức ăn chiều từ khoảng cách một trăm mét chìm trong sương mù và tự động vác xác về), người mẹ yêu quý của tôi - người luôn nghĩ cho tôi gấp mười lần nghĩ cho bản thân, ban ngày cho người rung quả chuông gọi cừu lớn treo trên chuồng chim bồ câu, cứ mười phút một lần. Âm thanh đó xuyên qua những lớp sương mù, hệt những chữ cái trong một cuốn sách, khiến tôi phát cáu và liên tưởng đến tiếng chuông của trường Blundell cùng sự khổ sở khi đi học trở lại.
Nhưng trong suốt hai tháng có sương mù (vì mùa đông là lúc sương mù giăng kín), điều buồn bã, nặng nề nhất là đứng bên bờ biển một mình, trông theo những ngọn sóng ùa vào bờ. Dẫu biết rằng đó là những cơn sóng dài, ta chỉ thấy một mẩu của chúng, nghe chúng cuộn tròn, trườn lên những tảng đá phủ đầy rêu trơn trượt, bắn tóe vào những hốc sâu, nhưng muôn đời vẫn mềm mại, đẹp và u buồn, cho đến khi tiếng ầm ĩ biến mất.
Có một cụ già sống ở Lynmouth đã chu du hơn phân nửa thế giới nhưng không muốn nói về điều đó. Khăn gói về lại nơi chôn nhau cắt rốn vì muốn được chôn cất tại đây, cụ Will Watcombe (ngụ bên bờ biển) nói rằng mùa đông lạ lùng của chúng tôi khởi phát bởi một thứ gọi là “dòng chảy Gulf stream” đột ngột xuất hiện ở eo biển Manche. Cụ bảo đấy là dòng nước mạnh, ấm, gần như vừa vặn để cạo râu. Nó đẩy dạt nước lạnh đi, gây tổn hại cho cá đang vào mùa đẻ trứng, kéo theo nó là một mùa xuân lạnh giá. Tôi thích đến Lynmouth vào Chủ nhật để nghe cụ nói chuyện, vì vài khi cụ thảo luận việc này, việc kia với tôi, trong khi không ai có thể khiến cụ nhúc nhích lấy một tẹo. Cụ bảo ở phía tây, mười năm, có khi năm mươi năm mới có lụt lớn một lần, và chỉ Chúa mới biết khi nào nó đến. Khi đến, nó sẽ mang theo sự ấm áp, những đám mây, sương mù, hơi ẩm, quả hạch, trái cây, thậm chí vỏ sò, và tất cả những cơn thủy triều. Nói đến quả hạch, cụ chớp mắt một lúc, nhai một chút thuốc lá sợi khiến tôi không hiểu ra làm sao. Sau đó, tôi nghe nói “quả hạch nhân lỏng“ đến theo cùng “dòng chảy Gulf stream”, vì từ trước đến giờ chưa một ai từng chứng kiến rượu ngoại cập vào bờ biển chúng tôi với số lượng nhiều đến vậy. Chúng nổi lềnh bềnh, dạt vào bờ một cách tình cờ trong sương mù, chẳng biết của ai để mà đánh thuế.
Những kẻ nhiều chuyện bảo rằng cụ Will Watcombe biết nhiều hơn hết thảy về dòng chảy Gulf stream, những địa điểm trên bờ biển và những cái hang nó sẽ ập vào. Nhưng ngài thẩm phán De Whichehalse xác nhận rằng chẳng có chứng cứ gì để khẳng định là có hoạt động buôn lậu. Quả thật cũng chẳng có nguyên cớ chính đáng nào để nghi ngờ điều đó. Chúng tôi biết rằng có vài công nhân mỏ đá suốt nhiều đêm liền đào một hầm rượu mới tại trang viên Ley Manor để cất giữ những thứ được tìm thấy trong những cái hang đầy rong rêu, song họ không được nói ra điều đó. Thôi quên chuyện này đi. Tôi chẳng việc gì phải đi nói về nhà chức trách, nhưng dân đen chúng tôi vẫn nói đùa với nhau về “Gulp1 stream” - cái tên chúng tôi đặt cho dòng nước ấm.
1. Có nghĩa là uống ừng ực.
Điều khiến chúng tôi hoang mang, sợ hãi không phải là sự đổ bộ của số rượu ngoại, cũng chẳng phải cái bóng to lù lù của một con thuyền trong ánh chiều tà mùa đông sầu thảm, khi vầng trăng vừa mới nhú. Điều khiến chúng tôi ngồi co ro bên bếp lửa hay trùm kín chăn từ đầu đến chân, cố không nghĩ đến là một âm thanh bí hiểm lạ lùng.
Lúc chạng vạng, mặt trời vừa khuất núi, đằng tây không còn ráng đỏ, chưa ngôi sao nào mọc, đột nhiên một tiếng khóc than cất lên vang vọng khắp các thung lũng, hệt như tiếng chân người đang chạy. Bất kể đứng ở ngoài truông, núp đằng sau những tảng đá hay náu mình trong đám lau sậy mọc dày thì vẫn nghe rõ mồn một âm thanh quái quỷ đó. Lúc ngoi lên từ sâu tít trong lòng đất, lúc từ trên cao ụp xuống. Thế rồi có thứ gì đó ràn rạt đi qua cùng tiếng cười u uất, rợn tóc gáy, hồn xiêu phách lạc.
Chúa nhân từ biết rằng dù tôi có ngốc nghếch, chậm chạp đến đâu cũng không tin được Người sẽ để quỷ dữ làm hại đến con chiên của mình. Nhưng khi chính tai tôi nghe thấy âm thanh đó ba lần trong cái ảm đạm, thê lương của một đêm sương mù giăng kín cùng cái lạnh lấp đầy không khí, tôi đâm ghét ra ngoài vào ban đêm, cho dù chỉ đến khu vực chuồng ngựa. Tôi chỉ thích ánh nến sáng, bếp lửa cháy bập bùng trong bầu không khí gia đình đầm ấm.
Đương nhiên nhiều câu chuyện về nó lan khắp vùng đất này. Những ai từng nghe thấy thường tuyên bố rằng chắc đó là tiếng than khóc của một phụ nữ, tiếng sột soạt của xống áo quết trên đất và những kẻ độc ác đuổi theo chị ta trong sương mù. Tuy nhiên tôi mặc kệ nó khi có người bên cạnh vì chúng tôi dồn sát vào nhau, đóng kín cửa nẻo khi ngày tàn.