H
ôm sau, ông trẻ Huckaback, với vẻ bí mật, đòi mẹ tôi cử một người dẫn ông đến “một nơi nguy hiểm”, bảo là liên quan đến việc làm ăn. Mẹ gợi ý ông đưa chú John Fry theo. Nghe thế, nhà buôn vải cả cười, bảo John này chẳng làm nên tích sự gì ngoài việc to xác, nhưng John kia thì được, không chỉ bởi sức vóc hơn người, mà còn bởi nếu nó mà bị bắt đi thì thể nào mọi tảng đá ở Exmoor cũng sẽ bị lật tung hết cả lên, cho đến khi tìm được nó về mới thôi. Nghe thế, mẹ tôi tái xanh mặt mày, tìm năm mươi lý do để cho tôi khỏi đi, lý do nào cũng có sức thuyết phục hơn lý do thực, như Eliza (con bé ganh tỵ với tôi) tìm cách rỉ tai Annie. Trái lại, tôi muốn chứng kiến ông trẻ Reuben xoay xở như thế nào. Đồng thời, tôi cảm thấy hãnh diện vì được tháp tùng một người giàu có như ông. Vậy nên tôi vội ôm đầu mẹ, thuyết phục bà tin vào Chúa, để tôi đi. Thế nhưng, tôi bực mình ghê gớm khi biết rằng công việc nguy hiểm đó chẳng qua là một chuyến đi đến chỗ Nam tước De Whichehalse để trình báo vụ việc, đòi lệnh bắt gia tộc Doone, yêu cầu một đội vũ trang để thi hành lệnh.
Tôi vốn ngu ngốc, sự thật này chẳng bao giờ thay đổi. Lẽ ra tôi nên bảo ông trẻ Reuben rằng chuyến đi của ông chẳng sáng suốt hơn mấy so với chuyến đi của dân Gotham1; ông sẽ không bao giờ nhận được từ Hugh de Whichehalse một cái trát chống lại bọn Doone; vả lại, nếu mà có lấy được đi chăng nữa thì bộ tóc giả của ông cũng bị tổn hại theo nó. Nhưng vì những lý do lý trấu linh tinh, tôi ngậm miệng, tìm hai chữ bình yên, phần vì trẻ dạ, bản tính nhút nhát, phần vì muốn được chứng kiến bất kỳ điều gì Chúa cho tôi thấy, và phần vì những lý do khác nữa.
1. Một ngôi làng ở Anh, nổi tiếng vì dân dại dột và xuẩn ngốc.
Chúng tôi đi ngựa theo đường lộ trong thị trấn Brendon, Illford Bridge và Babbrook, để tránh ngọn đồi cao bên trên Lynmouth. Trời đẹp và quang đãng, tôi đưa tay lên che miệng cười thầm ông trẻ Reuben lẩm cẩm vì quá lo xa. Khi đến đồn Ley Manor, chúng tôi được chỉ dẫn vào sảnh, làm tỉnh người bằng chút rượu ngon với bánh pút đinh Giáng sinh. Tôi chưa bao giờ ngồi bên dưới một trần nhà đẹp đẽ nhường ấy (ngoại trừ nhà thờ), hài lòng tợn vì được đối đãi lịch sự bởi những người có xuất thân danh giá. Nhưng ông trẻ Reuben lại có chút bực dọc vì bị xếp ngồi bên cạnh một kẻ buôn bán nhỏ lẻ, cũng đến đây vì việc làm ăn gì đó, lại còn tự tiện uống cả rượu của ông sau khi hết phần rượu của mình.
“Này!” Ông trẻ Ben nói, nhìn ông ta. “Sức khỏe của tôi sẽ khá hơn nhiều nếu ông trả cho tôi ba bảng và mười hai si linh, số tiền mà ông nợ tôi năm năm trước. Hôm nay, chúng ta gặp nhau ở đây, tại chốn công đường, đúng là cơ hội ngàn năm có một.”
Sau đó, chúng tôi được gọi vào phòng quan tòa, nơi vị Nam tước đang ngồi với Đại tá Harding, một đại pháp quan khác của Đức vua, phụ việc cho ông. Tôi từng trông thấy Nam tước De Whichehalse, và chẳng sợ ông chút nào, ông biết tôi học cùng trường với con trai mình nên rất tử tế với tôi. Kỳ thực, ông tử tế với tất thảy mọi người, dân chúng cũng nói tốt về ông; và còn nhiều hơn thế nữa bởi lẽ chúng tôi biết gia đình ông đang trong tình trạng sa sút. Nam tước De Whichehalse thứ nhất vốn là một quý tộc danh giá người Hà Lan. Chừng năm mươi năm trước, bị ngược đãi vì tôn giáo của mình, khi thế lực Tây Ban Nha thống lĩnh, ông bỏ chạy đến Anh với tất cả của cải dành dụm được, mua những điền trang lớn ở Devonshire. Kể từ đó, hậu duệ của ông kết hôn với những người thuộc những dòng tộc cổ khác trong vùng, Cottwell, Marwood, Walrond, Welse xứ Pylton và Chichesters xứ Hall; nhiều phụ nữ giúp cho tài sản của họ tăng lên đáng kể. Như vậy, khoảng năm mươi năm trước thời gian tôi viết câu chuyện này, ở miền Tây nước Anh gần như không có cái tên nào được nhắc đến ngoài cái tên De Whichehalse. Nhưng giờ đây họ mất đi rất nhiều đất đai và cả những thứ đi cùng đất đai, trong đó đương nhiên phải kể đến sự nổi tiếng - ý tôi là danh tiếng lớn. Tại sao họ đánh mất nó, không ai biết được. Chỉ biết một điều là vì những hậu duệ đầu tiên đã cố công tích cóp của cải, nên những thế hệ sau mặc nhiên tiêu xài, tiền bạc cứ thế tứ tán. Điều này có đúng hay không thì nằm ngoài phạm vi hiểu biết và khả năng tìm hiểu của tôi. Bất luận thế nào, tất cả mọi người đều yêu quý dòng dõi cuối cùng của De Whichehalse hơn nhiều so với dòng họ phổ biến đó của một trăm năm trước.
Hugh de Whichehalse có mái tóc bạc, thần thái cao quý, đôi mắt xanh thân thiện, vầng trán phẳng, chiếc mũi khoằm khá đẹp (như thường thấy ở người dòng dõi) và đôi môi mỏng thanh nhã. Ông đứng lên khi chúng tôi vào phòng, trong khi Đại tá Harding xoay người lại, chào theo kiểu nhà binh. Tôi cam đoan rằng, nếu không biết cả hai, chúng tôi chắc đã dành sự tôn kính hơn cho người thể hiện sự tôn trọng đối với chúng tôi. Nói vậy thôi chứ mười quý tộc thì hết chín người phạm sai lầm ngờ nghệch này khi đối đãi với tầng lớp thấp hơn họ!
Ông trẻ Reuben dịch chân ra sau, cúi chào trong bộ dạng lịch sự nhất, rồi đi đến bên bàn, cố làm ra vẻ như không biết mình giàu hơn hai người kia cộng lại. Đương nhiên ông không xa lạ gì đối với họ, tôi lại càng không. Y như rằng, sau đó tôi biết hóa ra ngài Đại tá Harding có nợ ông một món tiền. Ông trẻ Reuben không để ý đến ngài Đại tá, mà trình bày sự việc với De Whichehalse.
Ngài Nam tước mỉm cười ngay khi biết được nguyên nhân của chuyến viếng thăm, rồi ôn tồn đáp.
“Ra lệnh bắt gia tộc Doone ư, ông Huckaback? Chính xác là ai, ông vui lòng nêu tên được không? Cả tên thánh.”
“Trời ơi, tôi có phải là cha đỡ đầu của bọn chúng đâu. Mà hình như phần lớn bọn chúng chả có cha đỡ đầu gì ráo. Ai mà không biết ông Ensor. Gì mà làm khó nhau thế.”
“Đúng hơn là ông Ensor Doone và các con trai. Ông ta có bao nhiêu con trai hả ông Huckaback, và tên từng người là gì?”
“Trời ơi, làm thế nào tôi nói cho ngài hay, ngay cả khi tôi biết rõ tất cả họ như mấy đứa coi sóc cửa hàng cho tôi? Ông ta có bảy con trai cả thảy. Gì mà làm khó nhau thế.”
“Xin lệnh bắt ông Ensor Doone và bảy người con trai, không biết tên thánh, và ngờ là chẳng có tên thánh. Mọi thứ đến giờ vẫn tốt đẹp, ông Huckaback. Tôi sẽ cho viết thành văn bản đàng hoàng. Đương nhiên chính ông Ensor có mặt ở đó như ông đã đưa chứng cứ…”
“Không, không, trời ơi, tôi có nói thế đâu nào. Tôi chưa bao giờ nói…”
“Nếu ông ta chứng minh được mình không có ở đó, ông có thể bị kết tội khai man đấy. Nhưng về phần bảy người con của ông ta, ông có thể thề rằng họ là con trai ông ta chứ không phải cháu trai bà con, cháu ruột hoặc thậm chí chẳng phải thuộc gia tộc Doone không?”
“Trời ơi, tôi có thể thề rằng bọn chúng thuộc gia tộc Doone. Vả lại, tôi có thể trả giá cho bất kỳ sự nhầm lẫn nào của mình. Gì mà làm khó nhau thế.”
“Ồ vâng, ông ấy có thể trả; ông ấy có thể trả dễ dàng.”
Đại tá Harding nói vắn tắt.
“Tôi rất yên tâm khi nghe vậy.” Ngài Nam tước vui vẻ đáp. “Vì suy cho cùng, vụ cướp này (nếu đúng là có vụ cướp thật) không quá tệ hại. Đôi khi người ta nghĩ họ bị cướp, rồi sau đó nhận ra mình chẳng bị cướp gì cả. Ông có chắc là những con người này (nếu quả là có) đã cướp, chiếm hay thậm chí mượn thứ gì từ ông không?”
“Trời ơi, ngài nghĩ tôi say sao?”
“Hoàn toàn không, ông Huckaback. Mặc dù thời gian này trong năm có say sưa một chút cũng là điều dễ hiểu.
Nhưng làm sao ông biết rằng đám người tấn công ông thuộc gia tộc Doone?”
“Vì không thể là ai khác được. Vì, dù sương mù…”
“Sương mù!” Đại tá Harding kêu lên. “Sương mù!”
Ngài Nam tước nhấn mạnh. “À, điều này có thể giải thích toàn bộ sự việc. Giờ tôi mới sực nhớ. Đúng là mấy ngày nay sương mù dày đặc đến mức người ta khó lòng thấy được đầu con ngựa mình đang cưỡi. Những người thuộc gia tộc Doone (nếu có) chắc chắn không dại gì ló mặt ra ngoài; điều này chắc như đinh đóng cột luôn. Ông Huckaback, vì quyền lợi của ông, tôi rất mừng rằng sự cáo buộc này đã thất bại. Giờ đây mọi chuyện đã sáng tỏ rồi. Sương mù giải thích tất cả.”
“Hãy về nhà đi, bạn hiền.” Đại tá Harding nói. “Nếu trời quang đãng, ông sẽ tìm thấy tất cả tư trang của mình tại nơi ông đã bỏ chúng lại. Tôi biết, từ kinh nghiệm của bản thân, bị mắc kẹt trong sương mù Exmoor khủng khiếp đến thế nào.”
Lúc này ông trẻ Reuben sửng sốt đến mức gần như chẳng biết mình đang nói gì nữa.
“Trời ơi, ngài Đại tá, công lý là như thế này sao! Nếu tôi mang sự việc này lên London, Đức vua sẽ biết rằng cấp dưới của người làm ăn... sẽ biết một vụ cướp vừa xảy ra mà những người thực thi công lý lại cho là nạn nhân nên bị treo cổ… rằng trong quận Somerset của người…”
“Xin thứ lỗi một chút, thưa ông.” Ngài De Whichehalse ngắt lời. “Sau khi nghe ông trình bày vụ việc, tôi muốn nhắc đến một trở ngại, tôi e rằng đó là một trở ngại rất lớn, ngay cả khi có đầy đủ chứng cứ rõ ràng. Sự việc không hay này xảy ra ở Somerset, trong khi chúng tôi, hai kẻ bầy tôi hèn mọn của Đức vua, thực thi nhiệm vụ theo sự phân bổ của người tại hạt Devon thôi, do vậy chúng tôi không thể nào thụ lý việc này được.”
“Trời ơi, nhân danh Chúa!” Cuối cùng, ông trẻ Reuben mất hết bình tĩnh. “Tại sao ngài không nói phắt điều đó ngay từ đầu, để khỏi lãng phí thời gian và công sức của tôi? Giới quý tộc các ngài cùng một giuộc với nhau. Các ngài không thèm đoái thương cho một nhà buôn lương thiện, người không hề vờ vịt, giả tạo như các ngài, người bị cướp, suýt chút nữa thì mất mạng dưới tay những kẻ lợi dụng cấp bậc xã hội cao để mặc sức lộng hành. Nếu một người nghèo khổ ăn cắp cừu để cứu đàn con mình khỏi chết đói, kết cục của anh ta sẽ là lủng lẳng trên giá treo cổ, tất cả các ông sẽ đồng thanh “Rảnh nợ!”. Nhưng bây giờ, vì dòng dõi cao sang và nhân cách xấu…” Nói đến đây, ông trẻ Ben, vì không còn khỏe như trước khi bị bọn Doone tấn công, bắt đầu phì chút bọt mép nơi hai khóe miệng, lưỡi đờ đi, lặn tít vào bên trong cái miệng ẩn dưới hàng ria ngắn ngả bạc.
Tôi không nhớ hai ông cháu ra khỏi đó như thế nào, chỉ thấy quá sốc sau khi đối mặt với những người thuộc tầng lớp xã hội cao, còn mẹ khăng khăng theo ý mình khi nghe chuyện. “Con sai rồi, John” là tất cả những gì tôi nhận được từ bà dù tôi chẳng làm gì ngoài việc nghe và sờ tóc trán khi được gọi đến. “John, con có thể tin mẹ, con đã không làm điều lẽ ra con phải làm. Cha con chắc phải chết sững khi biết con đến nhà Nam tước De Whichehalse, xúc phạm ông ta ngay tại tư gia! Nói vậy thôi chứ con rất gan dạ đấy. Chỉ có thể là con thôi. Mẹ rất tự hào về con.”
Suốt trên đường về nhà, ông trẻ Ben không nói lời nào vì cảm thấy không hài lòng với chính mình, với người khác, ông thậm chí còn bất mãn hơn. Đêm đó, trước khi đi ngủ, ông bảo tôi: “Cháu Jack, cháu không đối xử tệ với ta như những người còn lại. Bởi cháu không khéo mồm, ta nghĩ ta có thể tin tưởng ở cháu. Hãy nhớ lời ta, vụ việc này chưa thể dừng ở đây được. Ta có một kế hoạch khác.”
“Cháu đoán là ông sẽ đến gặp các quan tòa của quận này, ngài Maunder, hay Richard Blewitt, hay…”
“Đồ ngốc, ta không định làm thế. Bọn họ chỉ biến ta thành trò cười thôi, như cái bọn Devon ấy. Không, ta sẽ trình thẳng lên Đức vua luôn, hoặc người nào đó to hơn Đức vua, có thể giúp ta giải nỗi oan ức này. Hiện tại ta chưa thể nói cho cháu hay tên người đó được, chỉ biết là nếu một lần diện kiến người đó, cháu sẽ không bao giờ quên.” Đúng là như vậy thật, khi sau này tôi tình cờ phát hiện, người mà ông muốn nói đến chính là thẩm phán Jeffreys.
“Thế ông định khi nào thì đi gặp người đó?”
“Có thể là mùa xuân, cũng có khi là mùa hè. Ta không thể tự nhiên đi London được, phải có công chuyện gì đó. Cháu chỉ cần nhớ lời ta, Jack, và khi cháu gặp người mà ta nói đến, hãy nhìn thẳng vào mặt người đó, không được nói dối. Ta tin người đó sẽ khiến cho bọn mõ tòa nơi đây sợ chết khiếp. Vì mối lăng nhục ấy mà ta phải lưu lại cái xứ khỉ ho cò gáy này lâu hơn so với dự định. Tuy nhiên ta sẽ ở lại thêm một ngày nữa với một điều kiện.”
“Điều kiện gì, ông trẻ Ben? Cháu rất buồn vì ông bảo đây là xứ khỉ ho cò gáy. Nhà cháu sẽ mời bác Nicholas đến chơi, mấy ca sĩ và…”
“Những cô gái vắt sữa đúng mốt đó hử? Cảm ơn cháu, cứ để mặc ta. Mấy cô gái nhà quê ấy quá ồn ào đối với ta. Mỗi bé Nanny nhà cháu là đủ rồi. Nanny là cô gái tốt, con bé sẽ đến thăm ta.” Ông trẻ Ben lúc nào cũng gọi em gái tôi là “Nanny”, vì theo ông, “Annie” nghe quá cầu kỳ và Pháp hóa so với dân quê chúng tôi. “Nhưng ta ra điều kiện thế này, Jack. Ngày mai, cháu phải dẫn ta đến (không được nói cho ai biết nhé) nơi có thể quan sát lãnh địa của bọn Doone vô lại, rồi mới tính cách hữu hiệu nhất để xử chúng khi có thời cơ. Cháu làm điều đó cho ta được không? Ta sẽ trả công cháu hậu hĩnh.”
Tôi sốt sắng hứa sẽ làm hết sức mình, nhưng đương nhiên, sẽ không lấy chút tiền nào vì tôi không đến nỗi quá nghèo để làm cái chuyện đó. Thế là ngày hôm sau, tôi tìm cách dồn người làm sang phía bên kia nông trại, nhất là chú John Fry tọc mạch, lăng xăng, chuyện gì cũng cố chõ mũi vào cho bằng được để đem về kể với vợ. Ăn sáng xong, ông trẻ cưỡi con Peggy, còn tôi đi bộ. Hai ông cháu nhằm hướng tây thẳng tiến. Ông trẻ Ben nhất định bắt tôi phải mang theo khẩu súng đã lắp đạn. Quả thực đó là điều nên làm trong thời buổi nhiễu nhương này, thêm nữa gần đây chúng tôi bị mất nhiều cừu hơn trước. Tôi nói điều này ra chẳng phải là khép gia tộc Doone vào tội ăn tham và ăn tạp, bởi họ luôn khăng khăng mình không phải đồ tể (dù điều này có thể gây tranh cãi), họ có thói quen sai đám chăn cừu giết, lột da, mổ cừu cho họ, vài khi còn mang đến tận cổng gia tộc Doone con to béo nhất trong đám, vì sợ nếu thịt bầm tím thì trông sẽ mất ngon khi dọn lên bàn ăn. Nhưng điều tệ hại nhất trong chuyện này là những người dân quê ít học, không biết đến thói cảnh vẻ của gia tộc Doone, cứ nghĩ rằng họ cướp những con cừu của mình, mặc dù kẻ cướp thực sự là những kẻ có xuất thân thấp kém hơn, nên sợ không dám nói năng gì: hậu quả của sai lầm này là một anh nông dân dẫu có đàn cừu năm, sáu trăm con nhưng vào ngày cưới của mình có thể không dám mơ tới một súc thịt lưng cừu thượng hạng cho bữa chính.
Giờ thì ta quay lại với ông trẻ Ben của tôi nhé. Ông nhất định không để tôi đi cách xa ông quá ba mét, hai ông cháu gần như chẳng nói gì với nhau suốt con đường làng và lúc băng qua ngọn đồi, dù tiết trời khá dễ chịu. Tôi có thể thấy ông khá hấp tấp, khinh suất, không có sự cẩn trọng của một người luống tuổi. Do vậy, tôi lên tiếng.
“Ông trẻ, đừng sợ! Vùng này cháu rõ như lòng bàn tay, chẳng nguy hiểm gì đâu.”
“Sợ gì chứ nhóc! Ai sợ gì chứ? Còn khuya. Hoa anh thảo đẹp thế này.”
Ngay lập tức tôi nghĩ đến Lorna Doone, cô gái nhỏ của sáu năm về trước, và việc tôi đã đem lòng yêu mến em thế nào. Lorna có bao giờ nghĩ đến tôi không? Lẽ nào tôi chỉ là một kẻ cục mịch, giỏi mỗi việc bắt cá chạch? Trước giờ có dáng hình nào gây thương nhớ cho tôi giống như em? Cảm xúc trào dâng chật ứ con tim, khao khát muốn chiếm hữu một người cho riêng mình bừng dậy trong lòng, đến mức phải biểu lộ ra bên ngoài qua đôi mắt mong mỏi yêu thương, một tình yêu trong sáng, thánh thiện.
Thấy chán cảnh im lặng quá lâu giữa hai ông cháu, ông trẻ bèn lên tiếng bình phẩm về cánh rừng trụi lá bao trùm xung quanh, phá vỡ dòng suy tưởng của tôi. Khu rừng Bagworthy, nơi tối tăm, hoang vu nhất, không có ánh mặt trời nào lọt vào. Dẫu ngay lúc này đang là mùa đông, lá rụng gần hết, số lá còn lại thì teo tóp và ngả nâu, những tán cây vẫn đan dày bên trên đầu chúng tôi hệt một tấm áo choàng nặng trĩu, ngột ngạt. Tôi đi sát vào đầu con Peggy, còn con Peggy thì nép sát vào người tôi, vểnh tai nghe ngóng. Tuy vậy, chúng tôi chẳng thấy gì cả, ngoại trừ vài con cú, diều hâu già và một con chim ác là ngồi chồm hỗm một mình, cho đến khi tới chân đồi, nơi con ngựa lùn chẳng cách nào leo lên được. Ông trẻ Ben không thích phải xuống ngựa, vì con ngựa lùn có vẻ khá ngoan, ông nghĩ mình có thể phi nước đại, nếu nhắm tình hình không ổn, nhưng tôi cố thuyết phục ông xuống đi bộ. Vì vậy ông buộc chặt con Peggy tại nơi chúng tôi có thể tìm thấy nó, trò chuyện rôm rả như thể chẳng có gì phải sợ trong khi ông cầm gậy, còn tôi vác súng, cùng nhau trèo lên đồi.
Giờ thì chẳng thấy đường sá đâu nữa. Điều này khiến hai ông cháu can đảm hơn, đồng thời cũng thấy nản hơn, vì có vẻ như bọn cướp không hay đi ngang qua đây. Tuy vậy chúng tôi biết mình không thể đi lạc được, miễn là cứ tiến lên đỉnh ngọn đồi phía trước bởi đó là thành lũy của thung lũng Doone. Ấy là một công việc khá khó khăn vì đường đi lên quá dốc, lại rậm rịt cây cối. Hai ông cháu phải gắng sức rướn người về phía trước, vận lực như đang kéo cày. Đám rễ sồi chằng chịt, bờm xờm giăng ngang dọc bên trên, đám thạch nam nếu quả thực đang trò chuyện với chúng tôi thì dùng răng hơn là lưỡi, những tảng đá lởm chởm hệt lũ cừu khổng lồ thỉnh thoảng lù xù xuất hiện chắn đường chúng tôi. Cuối cùng (dù rất ghét làm vậy), tôi buộc phải vắt khẩu súng ra sau lưng, vì cần một tay để bám leo lên, tay còn lại giúp ông trẻ Ben. Cứ thế, rốt cuộc hai ông cháu cũng lên được đỉnh đồi, nhìn về phía bìa rừng, nơi đá nhấp nhô, trông như chóp của một cái mỏ đá. Lúc này không còn cây cối gì giữa chúng tôi và vực đá bên dưới sâu cỡ đâu ba trăm mét, dốc và trơn trượt. Đây là lần đầu tiên tôi sững sờ trước vẻ ngoài thành trì của gia tộc Doone, hiểu được bản chất của nó. Hồi ở bên trong thung lũng, leo lên những vách đá để thoát khỏi nó khoảng bảy năm trước, tôi chỉ là một thằng bé mới lớn, chẳng để ý đến điều gì như đa phần bọn con trai, ngoại trừ mục đích trước mắt, nếu có thấy gì thì cũng quên phắt ngay sau đó. Danh tiếng của gia tộc Doone, cộng với những hồi tưởng của tôi và cả sự nhấn mạnh của ông trẻ Ben khiến tôi dồn mọi chú ý vào nó, cảm giác trong tôi lúc đó không gì ngoài sự sững sờ, kinh ngạc.
Đỉnh núi nơi chúng tôi đang đứng, hai bên phải trái đều uốn cong, độ cao gần bằng nhau, bên trên là cây lớn cùng cây bụi. Chừng nửa dặm đằng trước (trông cứ như chúng tôi có thể ném một hòn đá trúng bất kỳ ai trên đó vậy), một đỉnh núi khác giống như nơi chúng tôi đang đứng cong xuống để gặp nó nhưng bất thành bởi hai khe nứt hẹp mà chúng tôi chỉ có thể nhìn thấy bờ miệng. Một trong hai khe nứt này là cổng vào lãnh địa gia tộc Doone, có giăng một khung lưới. Giữa chúng, nơi những đỉnh đồi thoải xuống tạo thành một hình bán nguyệt hoàn hảo với dòng nước uốn lượn vắt ngang, là một thung lũng xanh mướt, màu mỡ, trải rộng, được vây bọc bởi những vách đá đen thẳng đứng, dường như chìm lút toàn bộ từ độ cao kinh người bên trên. Trông như sương giá không thể lọt vào, kể cả gió lùa. Chỉ có mùa xuân, hy vọng và sự thoải mái. Ngay cả lúc này, màn mây được vén lên, để lộ những mảng màu thiên thanh cùng những tia nắng tươi vui, báo hiệu một ngày mới tràn trề sức sống.
Ấy thế nhưng ông trẻ Ben tỏ vẻ rất bàng quan. Thoạt tiên, ông nhìn vào thung lũng gia tộc Doone, khụt khịt mũi như thể đang ngửi một mẫu hàng bán sỉ, sau đó ông dõi mắt về phía những ngọn đồi đằng xa, rồi quay sang nhìn tôi chằm chằm.
“Có thấy một lũ dốt không?”
“Dĩ nhiên rồi, ông trẻ Ben. “Tất cả những kẻ bất lương đều dốt” là câu đầu tiên cháu tập chép mà.”
“Dốt cả lũ. Cháu không nhìn ra cách khiến cái thung lũng chết giẫm này thất thủ trong vòng nửa giờ à?”
“Có chứ ạ, ý cháu là nếu họ muốn đầu hàng.”
“Ta sẽ đặt ba khẩu thần công ở đồi đằng kia, và ba khẩu trên đỉnh đồi này, chúng ta tha hồ giã chúng như giã gạo. Chà, ta đã từng chứng kiến chiến tranh, từ Keinton cho đến Naseby. Nếu họ chịu nghe theo lời khuyên của ta, giờ ta là đại tướng rồi cũng nên…”
Tôi chẳng hiểu ông nói mô tê gì bởi đột nhiên bị phân tâm bởi một hình ảnh không bao giờ lọt vào mắt “ngài Đại tướng”. Đó là cái khe hở nhỏ xíu trong vách đá mà nhờ nó tôi đã trốn thoát bảy năm về trước phía bên kia thung lũng. Từ nơi chúng tôi đang đứng, trông nó không lớn hơn một cái hang thỏ. Nhưng trong tất cả những quang cảnh bày ra trước mắt, cái khe đó có sức hấp dẫn vô song. Tôi cứ thế đứng nhìn chằm chằm, trong đầu lấp đầy hồi ức, nhác thấy một dáng người nhỏ nhắn thấp thoáng đằng sau nó. Một dáng người nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, uyển chuyển, thanh thoát, thoắt đó đã biến mất, gần như trước khi tôi kịp biết chẳng có ai ở đó cả. Tim đập rộn trong lồng ngực, máu trong người dồn hết cả lên mặt, lòng kiêu hãnh đánh nhau với sự xấu hổ, lòng tự cao tự đại giằng co với sự coi thường. Bảy năm trôi qua, tôi từ một thằng nhóc đã trở thành một thanh niên cường tráng, với nhiều thứ quên bẵng đi, nhiều thứ chỉ còn nhớ lờ mờ, cuối cùng cảm thấy số phận mình nhất định phải gắn chặt với Lorna Doone bất kể xấu tốt ra sao, hạnh phúc hay muộn phiền.