Q
uên đi vận may, quên đi âu lo, không cảm nhận hay xúc động bởi tất cả những thay đổi của lý trí và con tim từ những năm tháng trai tráng đến tuổi xế chiều - đây là những gì tôi phải làm trước khi cho quý vị biết tôi đã yêu Lorna đến thế nào. Có thể chính bản thân tôi cũng không nhận ra hoặc cố tìm hiểu xem đó là gì, cũng không bao giờ nhận ra mình đang dồn hết tâm trí vào nó. Tôi có hai lứa lợn sắp xuất chuồng, một trăm kí lô len chuẩn bị đem đi bán. Chẳng khác gì. Tôi nhìn cả hai, tự hỏi: “Lorna sẽ chọn cái nào?” Đương nhiên mọi người sẽ gọi tôi là kẻ ngốc, tôi chẳng hơi sức đâu mà cãi lại, trừ phi họ đoán ra bí mật của tôi. Đương nhiên, tôi vẫn có lý trí lúc cần phải có, nhất là những vấn đề liên quan đến giáo xứ. Còn con tim thì vẫn hướng về duy nhất một người.
Tuần đó, tôi chẳng làm được trò trống gì ngoài việc đi loanh quanh, thơ thẩn suy nghĩ vẩn vơ, giải mã chính mình. Tôi chẳng quan tâm đến những người xung quanh, cũng chẳng màng ăn uống, nhưng vờ như là có ăn uống, đỏ mặt trước bất kỳ câu hỏi nào. Đến nay, dù được gọi là ngài, chủ trại và tiểu điền chủ thâm niên nhất, tôi vẫn rất khó chịu khi bị lợi dụng. Tuy nhiên mọi người vẫn lợi dụng tôi ngay khi biết tôi đang để lạc trí óc đi đâu đó. Họ là vậy, không biết cao thượng là gì. Tôi cũng không oán trách gì họ vì khôn ngoan nhất là cười nhạo người khác khi ta không hiểu được họ. Tôi mặc kệ họ, nhưng trong lòng thì coi khinh vì họ - những người chưa từng gặp Lorna - thật thấp kém. Tuy vậy, tôi khá bực mình, cáu tiết khi John Fry loan tin khắp nông trại, đến cả lò rèn móng ngựa, rằng tôi bị một con chó dại ở Mallond cắn.
Giờ đây ngẫm lại, chuyện chẳng có gì to tát và có thể nó cũng như vậy đối với bất kỳ ai. Nhưng lúc đó, nó khiến tôi phát điên lên như thể mình bị sỉ nhục nặng nề. Xem Lorna là chó dại, ví tất cả những tưởng tượng của tôi và coi sự trưởng thành về mặt tinh thần của tôi không hơn gì bệnh dại! Tôi tức giận đến mức thẳng tay nện cho John Fry một trận ra trò giống như đập một bó ngô hoặc một bó đậu tằm. Lần ấy, chú không thể kể chuyện cho vợ nghe như mọi bận vì chẳng còn chút sức lực nào; nhưng trận đòn đó có ích đối với vợ chồng họ và làm gương cho bầy con của họ.
Hiện tại, thời tiết khá ổn định, nhưng thỉnh thoảng cũng đường đột thay đổi khiến con người ta phải nghĩ cách đương đầu. Cứ như sợ rằng chúng tôi sẽ giống người miền Nam vốn được ông trời ưu đãi. Dân của họ cứ việc ngồi mát ăn bát vàng vì trời nơi ấy hệt như mẹ ruột, trong khi ở xứ này, trời là một bà mẹ kế tốt bụng, sợ nuông chiều sẽ làm hư đám con chồng nên mặc sức nghiêm khắc, luôn thay đổi, chẳng biết đường nào mà lần - kiểu như tập dượt cho bầy con biết cách ứng phó với những bất trắc sau này.
Mùa xuân đang đến gần, giờ là lúc phải chuẩn bị tinh thần đón nhận những thay đổi. Vào đầu tháng Ba, thời tiết bắt đầu chuyển biến. Cái tốt tươi, mỡ màng của vạn vật bị dập tắt bởi cơn gió khô hanh thổi từ phía đông, cháy rám cả mặt mày, tay chân khi ra đào mương. Đám tử đinh hương và kim ngân bị xô nghiêng, co cụm lại thành những búi nhỏ. Những cánh hoa cong lại hệt ống tay áo được xắn cao, ngả nâu nơi đầu mút. Ngoài bờ giậu, cây du non đang hăm hở ra hoa vì muốn giành vị trí thống lĩnh nhưng lại bị thổi bạt về phía trước, chuyển sang vàng nâu. Đám cây phỉ cũng chịu chung số phận. Những bông hoa cố tung phấn để làm tròn bổn phận đơm trái của mình nhưng bất thành vì cứ lần lượt teo lại nơi cuống và rụng lả tả, như thể bị dao cắt. Đáng chú ý hơn cả là tất thảy đều run rẩy hướng về phía ánh mặt trời yếu ớt. Hệt như chúng tôi lúc ngồi hong bên lò sưởi không đủ ấm trong lúc cửa mở. Thỉnh thoảng để sưởi ấm, tôi áp mặt vào thân cây gỗ thích xù xì nhưng êm mượt hệt chân một con nai. Thế nhưng cơn gió phía đông khắc nghiệt cứ thông thốc thổi tới một cách ngang tàng khiến hàng rào rung lắc dữ dội rồi đổ nghiêng, không che chắn được gì nữa. Người nông dân sẽ tìm đến bên một cái cây to khỏe, cứng cáp với hy vọng nấp ở đấy để ăn cho xong bữa, mong trời ban chút ánh nắng sưởi ấm đôi bàn chân. Nếu có thế thật, anh ta có thể đưa tay đập vào ngực mình, cố nghĩ đã ấm hơn rồi.
Đến lúc trở về nhà sau một ngày dài lao động, người nông dân biết rằng thời tiết sẽ mỗi lúc một khó đoán, do vậy anh ta càng cẩn trọng hơn gấp bội. Trời vẫn còn đủ sáng để anh ta nhận ra khu vườn của mình đã phải hứng chịu tác động từ thời tiết như thế nào. Mỗi luống đất mới cày trông như cơ bắp của một ông già lụ khụ, lỗ rỗ tổ ong, đầy bụi và không còn rõ hình thù. Đám cây mới vui mừng hoan hỉ khi mùa đông khắc nghiệt đi qua giờ đây thu mình lại, ngả nghiêng, không đủ sức chống chọi. Nhựa sống đã ngừng chảy, những vết nhăn cho thấy sự thiếu hụt dinh dưỡng trầm trọng, nếu ta cấu vào cành con cao nhất, sẽ chẳng cảm thấy chút gì cứng cáp hoặc chắc nịch.
Mọi người vẫn khiến chúng tôi khó nghĩ khi luôn hỏi về mấy cây lê khỏe khoắn, vững chãi được ông nội tôi ghép. Lúc sinh thời, ông rất được mọi người tôn kính. Ông từng cho một người lính Ý tội nghiệp ẩn náu trong thời Vua James Đệ Nhất, và anh ta biếu ông mấy cành ghép đó như một cách trả ơn dù biết có làm gì đi nữa cũng không trả hết. Bằng cách nào người lính ấy đến được chỗ chúng tôi là một câu chuyện khá phức tạp mà tôi không bao giờ hiểu đúng, dù đã nghe mẹ kể. Dù sao đi nữa, mấy cây lê vẫn ở nguyên đó cho đến ngày nay. Tôi ước gì mọi người có thể nếm quả của chúng, dù chúng đã già cỗi, xù xì.
Giờ thì mấy cây lê khỏe mạnh này tận dụng những cơn gió phía tây, hơi ẩm cùng tiết trời chớm xuân, điểm xuyết những cành cây bằng vài bông hoa nở sớm. Không phải chúng đã nở, vì màu trắng vẫn chưa thấy đâu, chỉ mới he hé e ấp, và ta có thể đếm được chừng một tá bông, hệt mấy hạt cúc bé tí nhưng có xoi rãnh hẳn hoi, túm tụm vào nhau, chừa chỗ cho nhau. Giữa những búp hoa là những phiến lá xanh xám, không lớn hơn sợi tóc là mấy, cong lại như thể muốn che chở cho hoa.
Trên những cành cây xù xì, già cỗi hơn, nơi nhựa không quá nôn nao, háo hức, những bông hoa chưa nở bung hết nhưng đã bị bóc lớp vỏ khô hình tam giác màu nâu bên ngoài, rơi xuống hệt hoa văn áo choàng len của người Scotland mà tôi đã có lần trông thấy. Những búp hoa, nhìn từ xa, trông như vừa có một trận mưa kem đổ xuống.
Giờ thì tất cả những sắc màu tươi tắn đã bị phá hỏng, những hứa hẹn tràn trề đã bị cản lại bởi gió chướng và sương giá. Những bông hoa vừa mới nở đã ngả nâu, trong khi mấy phiến lá che chở chúng quắt lại, rũ xuống, lòng thòng hệt những mảnh giẻ run lẩy bẩy trong gió. Những cuống hoa nhỏ, đáng lẽ đơm thành quả nhờ ơn Chúa, giờ teo lại, sắp sửa rụng xuống. Số còn lại chưa nở thì trong tình trạng khá hơn một chút, nhưng vẫn có màu nâu và xấu xí, nhăn nheo, chẳng có chút sức sống nào.
Thật hay hớm làm sao khi chúng ta nhìn sự vật xung quanh mà không bao giờ nghĩ đến việc để ý đến chúng. Tôi cũng tệ như bất kỳ ai, trừ phi thứ được nhìn là một con chó, một con ngựa hay một cô gái chưa chồng. Với một cô gái chưa chồng, dù cực kỳ sợ nhưng tôi vẫn thích nhìn và mãi đến sau này tôi mới biết (khi đã sống nhiều hơn), không phải tôi để ý xem cô gái chưa chồng đó trông như thế nào, mà là cô ấy khác những người khác như thế nào.
Tôi nói về mùa xuân vì tôi xem nó như biểu tượng của niềm hy vọng tràn trề. Thế rồi vì quá ám ảnh, sầu muộn đến ngơ ngẩn, tôi chợt buồn quay quắt khi cảm thấy mình bị đọa đày trong nỗi cô đơn triền miên. Tuy thế, tôi vẫn có thể (khi bị mẹ hối thúc) ăn hết phần thức ăn của mình, thụi một người vì tội lười biếng, phát hiện lưỡi cày bị cùn và ngủ một đêm không mộng mị. Mẹ tôi nửa tin nửa ngờ, trong sự trìu mến cùng tình yêu thương vô hạn, về chuyện giáo dân kháo nhau tôi bị chó dại cắn, nhưng vẫn cố cãi rằng điều đó chắc chắn sai (bởi vì Chúa hẳn đã ngăn con chó đó), và chẳng chịu để tôi yên mỗi khi chỉ có hai mẹ con ở trong phòng. Không phải là bà khiến tôi rối lên bằng những chất vấn, cũng chẳng công khai bảo tôi bất thường, nhưng tôi biết bà kín đáo quan sát tôi bất kỳ khi nào tôi đưa muỗng lên miệng, cứ mỗi giờ đồng hồ bà lại làm như tình cờ đặt một thau nước bên cạnh tôi, thậm chí vài khi còn cố tình đánh đổ một ít nước lên giày hoặc tay áo khoác tôi. Nhưng đáng ghét nhất là vú Betty Muxworthy. Không lo ngại cho sức khỏe của tôi thì chớ, bà còn cười cợt độc địa, thường chạy xồng xộc vào nhà bếp, gầm gừ như một chú chó, thở hổn hà hổn hển, tru tréo lên rằng tôi đã cắn bà, và bà muốn lấy lại công bằng nếu việc này lấy đi của bà mười hai tháng lương. Bà luôn giở trò này lúc tôi ngồi vắt chân trong góc sau bữa tối, tựa đầu vào lò sưởi, bắt đầu nghĩ về Lorna.
Tuy nhiên vẫn có nhiều chuyện khác mang lại cho tôi niềm an ủi đáng kể. Dù biết mình vụng về, tôi rất hài lòng sau mấy giờ đồng hồ liên tục làm hàng rào và đào mương, mặt rát đi vì gió rét, cảm thấy mình mạnh mẽ hơn, hy vọng ai đó sẽ tự hào. Từng luồng gió mạnh thông thốc thổi tới làm những thân cây cong oằn trông duyên dáng tệ, đám hồng môn túm tụm vào nhau, và cây anh thảo dù bị cơn gió siết lấy nhưng vẫn gắng gượng trở về tư thế cũ, rạng rỡ cười khi cơn cuồng phong đi qua. Trên tất cả là niềm hạnh phúc tột cùng xen lẫn nỗi đau ngọt ngào từ nỗi nhớ dành cho Lorna.
Cho dù trời lạnh và gió thổi dữ dội ra sao, điều khiến tôi lo lắng nhất, bứt rứt không yên là làm thế nào để sớm quay lại thung lũng Doone. Tôi không muốn lén lút như lần trước (dù đó là vì bọn giết người), rồi trốn chạy cứ như một tên mật thám. Thậm chí còn tệ hơn cả thế. Tôi sợ Lorna nghĩ khác đi, không biết em có xem tôi là một kẻ mặt dày không mời mà đến, một gã nhà quê thô kệch, vụng về, cho dù thực tế chính gia tộc Doone mới là kẻ đã cướp đi nhiều thứ của chúng tôi. Tôi không chắc lắm về cách hành xử của mình, nhưng nếu chưa được bao lâu mà tôi lại một lần nữa “không mời mà đến” thì đúng là thiếu lễ độ thật. Thêm nữa, hai tay và mặt tôi bị nứt nẻ hết vì gió chướng, điều này có thể khiến Lorna thấy gớm, không muốn nhìn thấy tôi thêm lần nào nữa.
Tuy thế, tôi không thể đem chuyện này đi hỏi ý kiến bất kỳ ai trong vùng, ngay cả hàng xóm. Trong khi đó, gió chướng vẫn không ngớt hoành hành khiến tay và mặt tôi mỗi lúc một tệ hơn, tôi sực nghĩ rằng có thể Lorna cũng bị nứt nẻ y hệt nếu em có ra ngoài. Biết đâu em muốn chia sẻ điều đó và chìa cho tôi xem đôi bàn tay nhỏ xinh của mình. Nghĩ thế nên tôi quyết định không lăn tăn về chuyện này nữa.
Lúc bấy giờ, trong vùng có một người được xem là thông thái nhất, khắp Exmoor ai ai cũng biết, đó là Mẹ Melldrum. Tên thật của bà là Maple Durham, như mãi sau này tôi mới biết, và bà xuất thân từ một dòng dõi lâu đời, nhưng không thuộc Devon hay Somerset. Bà hành nghề bói toán tại nhà theo phương thức phù hợp với dân nông thôn chúng tôi. Bà luôn để chúng tôi biết rằng mình có một phương thức cao quý hơn dành cho những kẻ coi khinh phương thức này, vì không phù hợp với nó.
Mẹ Melldrum có hai ngôi nhà, hoặc đúng hơn là bà chẳng có nhà gì hết, nhưng người ta có thể tìm được bà ở hai nơi, tùy theo thời gian trong năm. Vào mùa hè, bà sống trong một cái hang thông thoáng, đối diện với sườn đồi mát mẻ, nằm sâu trong nội địa gần Hawkridge, ngay bên trên Tarr-steps, lối đi băng qua con sông Barle, được tạo ra (như ai cũng biết) bởi quỷ Satan, như một món đặt cược. Còn vào mùa đông, bà thấy mình hợp với không khí ở biển hơn, đó là nơi bà có thể mua chịu các thứ và được trò chuyện nhiều hơn. Cần phải nói rằng bà con sống gần Tarr-steps ai cũng có thể cho bà mua chịu (vì sợ), chỉ có điều chẳng ai có thứ gì đáng giá.
Do vậy, khi những khu rừng trở nên ẩm ướt, nhớp nháp, Mẹ Melldrum luôn tìm đến những vách đá ấm áp hơn ngoài eo biển, nơi có chỗ trú ẩn và thảm dương xỉ khô ráo, có thể nhìn thấy người từ bên bờ có mặt trời chiếu sáng. Nghe John Fry bảo (vì chú đã từng đến chỗ bà để trị bệnh thấp khớp, hỏi về mấy con cừu bị ma ám và chữa mụn cóc trên tay con trai chú, John con), ai cũng có thể tìm thấy bà ở đó khi cần, vào cuối ngày, trong lúc bà gom những que củi cùng dương xỉ khô để làm chất đốt, và nói chuyện trực tiếp với bà tại chỗ mà người ngoại quốc thoắt đến thoắt đi không am hiểu mấy về Exmoor gọi là Thung Lũng Đá.
Thung lũng này khá nhỏ so với thung lũng bình thường, nằm về phía tây Linton, cách thị trấn khoảng một dặm, không xa Ley Manor. Người dân chúng tôi xem nó không hơn một vùng trũng nhỏ, thậm chí là một chỗ trốn bí mật của trẻ con chơi trò ú tim. Mà thôi, bỏ qua đi vì tôi không rành lắm. Chỉ biết là nơi này dễ khiến người ta rùng mình dù chẳng có gì đáng sợ. Ấy là một thung lũng lòng chảo, hai bên gồ ghề, bát ngát xanh, cong lại ở giữa, lởm chởm đá ở hai đỉnh, rải rác đây đó là những phiến đá mọc đầy bụi gai. Bên tay phải là một vách đá cheo leo (vài người gọi là Lâu đài), có thể leo lên được và phóng tầm mắt ra toàn bộ eo biển. Đối diện, từ phía nội địa và khúc cong của thung lũng, nổi bật lên một chồng đá cổ quái, sắp lớp gan lì, đủ khiến người ta xanh xám cả mặt mày, nếu kích thước gấp mười lần thế. Nó được gọi là Devil’s Cheese-ring, hoặc Devil’s Cheese-knife.
Chính giữa thung lũng là nơi ta có thể ngồi lại để nghỉ ngơi, suy tư rằng nói cho cùng mọi rắc rối đều do ta tạo ra. Ngồi đó để biết phía bên kia rặng đồi là biển, dù không nhìn thấy đâu, chỉ nghe từng đợt sóng ì oạp vỗ rồi thấy thêm thương cánh thủy thủ nhọc nhằn với cuộc mưu sinh. Ngồi đó để ngắm ánh mặt trời bị che khuất, lấp ló quanh chỗ rẽ, cứ như một người khách được mong đợi, tung rắc ánh sáng dịu ngọt làm tan loãng màn sương, thức tỉnh vạn vật, kêu gọi chồi non nhú lên rộn ràng khắp chốn. Rồi ta từ từ chìm vào giấc ngủ, mơ thấy dương xỉ biến thành măng tây.
Mẹ Melldrum trú đông trong thung lũng đá này, tránh khỏi gió mưa nhờ Devil’s Cheese-ring. Điều này khiến mẹ càng thêm nổi tiếng bởi dân sống xung quanh không dám bén mảng đến đó sau khi mặt trời lặn, thậm chí vào những ngày nhiều mây. Bên dưới những mái đá gie ra có một lối đi quanh co, ngoài bà ra chưa một ai tôi biết từng dám đi vào. Thế mà tôi lại cả gan mò đến tận nơi để tìm bà, dù rất sợ, vào một ngày Chủ nhật trong Mùa Chay, sau khi đã lùa hết cừu vào bãi quây.
Cha Bowden (như thể biết rõ ý định của tôi) đã giảng một bài khá hay về Phù thủy Endor và những mối hiểm họa họ gây ra khi can thiệp sâu vào các quyền năng vô hình. Cha còn bóng gió nhắc đến những âm thanh lạ lùng gần đây trong vùng, quở trách chúng tôi vì không giữ vững niềm tin cùng nhiều tội khác. Chúng tôi thành khẩn nuốt từng lời giảng của Cha, vì chúng tôi vốn thích nghe người tài giỏi hơn nói về những điều nằm ngoài khả năng của mình, thỉnh thoảng được thức tỉnh, hệt bầy cừu có chó chăn giỏi chạy đuổi đằng sau. Tuy nhiên chúng tôi không hiểu can cớ gì mà việc chúng tôi thiếu niềm tin lại có thể gây nên âm thanh đó, nhất là vào ban đêm.
Sau đó, chúng tôi ra về, hầu hết mọi người ăn tối cùng chúng tôi như một thói quen vào các ngày Chủ nhật, bởi nhà họ cách nhà thờ khá xa, mà trong bụng họ lúc này chẳng có gì ngoài những lời giảng của Cha. Cha Bowden, như thường lệ, giành chỗ ngồi bên cạnh mẹ tôi vì sợ đã sơ suất gì đó khiến chúng tôi bực mình và sẽ không được dành cho miếng thịt ngon nhất. Ngay lập tức, chúng tôi trấn an Cha, cho Cha thấy chúng tôi luôn tự hào về Cha. Thế là Cha không băn khoăn gì thêm nữa, nhận lấy phần thịt thăn ngon lành nhất.