M
ặc dù đã gần cuối tháng Ba, gió vẫn thổi dữ dội, buốt hết cả người khi tôi đi bộ đến chỗ ở của Mẹ Melldrum vào chiều hôm ấy. Tôi không đi ngựa vì sợ nếu lỡ làm gì đó khiến bà phật ý, bà yểm bùa nó thì chết, giống như chuồng ngựa của bác Snowe có lần bị phù thủy Simonsbath ếm vậy.
Mặt trời đã xuống lưng chừng rặng đồi lúc tôi đi vào thung lũng, vì tôi chỉ có thể ra khỏi nhà sau khi lo cho bầy gia súc xong xuôi, mà đường đi thì dài đến bảy dặm hoặc hơn thế. Những bóng núi đổ xa, những bụi dương xỉ chết khô ngả nâu rung rinh trong gió, những bụi mâm xôi với đám lá héo rũ đung đưa qua lại làm nổi bật sắc đỏ bên trên. Bên dưới các vách đá dựng đứng là những khoảnh đất nhỏ, nơi có vài con dê núi đang đủng đỉnh gặm cỏ, bất chợt vểnh sừng lên, bỏ chạy, nhảy phốc lên các rìa đá rồi đứng đó, nhìn tôi chằm chặp. Lẫn trong gió là âm thanh của sóng biển vỗ bập bềnh lên đá, vang khắp chiều dài thung lũng.
Khung cảnh thật đìu hiu, buồn thảm, tôi lại chẳng mang theo gậy phòng thân nên tính quay về, định bụng sẽ trở lại vào một lúc khác, khi thời tiết đẹp hơn. Đột nhiên có một dáng hình cao cao, xám xám, không rõ là thứ gì, chuyển động phía bên kia thung lũng, nơi có bóng đổ. Tôi cuống lên khiến ngón tay cái vốn vẫn đặt trên cuốn Kinh thánh của mẹ (tôi mang theo trong túi cho an tâm) run đến mức thòi ra ngoài, không tài nào cho vào trong trở lại được nữa. “Đáng đời mày.” Tôi thầm nghĩ. “Vì dám đụng đến Beelzebub1. Mày chịu nghe lời Cha Bowden có phải hơn không!”
1. Beelzebub là Tổng tư lệnh quân đội bên cạnh Lucifer trong cuộc chiến giữa thiên đường và địa ngục. Sau khi thua trận, y bị giáng xuống làm quỷ dữ và được xem là “hoàng tử của địa ngục”.
Tôi lập tức định thần lại, không bỏ chạy mà đủng đỉnh như một người đang đi tản bộ chuẩn bị quay về. Lẽ ra tôi đã cứ thế mà trở về nhà rồi trách cứ bản thân vì quá hèn nhát, nhưng ngay khi tôi bắt đầu rẽ vào khúc cua, người đàn bà từ đằng xa chĩa gậy về phía tôi, khiến tôi buộc phải dừng lại.
Giờ thì không còn cách nào khác ngoài việc đối mặt với bất kỳ điều gì có thể xảy đến. Tôi cương quyết đứng thẳng người, cố chiến thắng sự hèn nhát, tin tưởng vào cuốn Kinh thánh với hy vọng nó sẽ che chở cho mình, dù bản thân đã không tuân theo nó.
Con người đáng sợ đó tiến đến mỗi lúc một gần hơn.
Tôi tìm thấy một tảng đá gần đó, ngồi ngay xuống đấy vì hai đầu gối lúc này đang run lên bần bật. Tôi mường tượng đủ thứ, nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Tôi không thể nhìn lảng sang hướng khác, dù đã cầu nguyện Chúa che chở.
Thế nhưng khi bà tiến lại gần đến mức tôi có thể nhìn thấy đường nét khuôn mặt bà, sắc mặt bà có gì đó khiến tôi không thấy ghét bỏ. Trông bà như thể bị bất trắc viếng thăm nhiều lần, chịu đựng lần lượt từng cái một, nhưng vẫn còn đủ lòng tốt để thông cảm với những điều không may của người khác. Mái tóc trắng của bà dài quá cằm một chút, buông xuống hai bên. Đôi mắt nhăn nheo, tinh tường của bà có vẻ nuốt trọn lấy tôi. Mặc dù có nhiều thời gian để suy nghĩ, tôi vẫn không khỏi kinh ngạc, chẳng thể há miệng nói được gì, mong mỏi được nghe sự im lặng bị phá vỡ, ước gì có một, hai tiếng động cất lên.
“Đừng sợ!” Bà nói, nhìn thấu khuôn mặt chẳng có gì bí hiểm của tôi, như thể nó là lớp kính trong suốt. “Ta không làm gì con cả. Đưa ta xem tay con nào, John Ridd, và nói cho ta biết tại sao con đến tìm ta.”
Vô cùng bất ngờ trước việc bà biết tên tôi cùng mọi thứ về tôi, tôi sợ đặt tay mình vào quyền năng của bà, ngay cả nói cũng không dám.
“Đừng sợ, con trai. Ta không được ban quyền năng để làm hại con. Kể cả có chăng nữa thì cũng vô ích thôi. Nào, hãy nói ta hay tại sao ta quý con.”
“Con chẳng biết gì cả, thưa Mẹ.” Tôi đáp theo kiểu người Devon chúng tôi. “Con chưa thấy Mẹ bao giờ thì làm sao biết được ạ.”
“Nhưng ta biết con rất rõ, John, như thể con là cháu trai của ta vậy. Con còn nhớ cây sồi già ở Oare cùng bãi đầm lầy ở đầu Exe không? Và đứa bé hẳn đã bỏ mạng tại đó nếu không nhờ sức mạnh, lòng dũng cảm và nhất là lòng tốt của con? Đó là cháu gái của ta đó, John. Trên thế gian này, ta chỉ có mỗi mình nó để yêu thương.”
Sau khi nghe bà kể chi tiết về sự việc đó, tôi nhớ hết tất cả (một sự việc xảy ra hồi tháng Tám năm ngoái), nghĩ rằng mình đúng là đại ngốc mới không tìm hiểu thêm về cô gái nhỏ đã rơi xuống cái hố tăm tối đó cùng một giỏ đầy việt quất, và hẳn đã chết đuối nếu con chó nhỏ của em không phát hiện ra tôi từ xa. Tôi vác em trên vai, đi tìm mẹ, rồi chúng tôi thay quần áo mới cho em, đưa em về nhà theo chỉ dẫn của em. Nhưng em không nói cho chúng tôi biết em là ai, cũng không nói thêm bất kỳ điều gì ngoài tên thánh của mình cùng chi tiết em tám tuổi, thích ăn khoai lang nướng. Chúng tôi không gặng hỏi em thêm nữa, như chúng tôi vẫn thường làm với khách.
Nghĩ về sự việc nho nhỏ ấy, ngước nhìn ánh mắt bà, tôi không còn sợ Mẹ Melldrum nữa, bắt đầu mến bà; phần vì tôi đã cứu cháu gái bà, phần vì nếu bà tài giỏi như người ta đồn đại thì hẳn không đến lượt tôi cứu cháu gái bà khỏi chết đuối. Thế là tôi đứng lên và nói, dù vẫn còn run.
“Thưa Mẹ, em ấy đánh mất chiếc giày trong bãi lầy, chúng con không tìm thấy. Do đó chúng con cho em ấy đi giày của em Lizzie nhà con.”
“Con trai à, ta đâu có quan tâm đến chiếc giày của con bé! Con thật là chất phác và ngốc nghếch quá! Giờ thì nói ta biết con đến tìm ta vì việc gì? Con đâu thể nói dối, phải không nào?”
Quá ngượng và rụt rè, tôi tính nói dối bà. Nhưng bà nói tôi không thể, và tôi biết là mình không thể.
“Con đến đây để tìm hiểu…” Tôi nói, nhìn một tảng đá một lúc, để giữ giọng mình khỏi run. “… khi nào con có thể đi tìm Lorna Doone.”
Tôi không nói thêm được gì nữa, dù trong đầu có chừng năm mươi câu hỏi khác muốn tìm lời đáp. Tuy tôi nhìn lảng đi, rõ ràng chỉ một câu hỏi đó đã là quá đủ. Tôi có cảm giác bà nhìn tôi chằm chằm trong nỗi phẫn nộ và cả sự buồn bã. Rồi tôi thấy giận khi hình như ai cũng có vẻ khinh thường Lorna.
“John Ridd.” Bà nói khi nhận thấy biểu hiện khác thường ở tôi (vì bây giờ tôi đánh bạo đối mặt với bà). “Con đang nói về ai thế? Có phải là đứa con gái thuộc gia tộc đã sát hại cha con không?”
“Con không biết nữa, thưa Mẹ. Làm sao con biết được? Thế Mẹ nghĩ sao?”
“Ta nghĩ đây là điều tồi tệ nhất có thể xảy đến với mẹ con và con.”
Tôi đợi bà nói tiếp, vì câu nói vừa rồi của bà nghe buồn đến mức tim tôi thắt lại.
“John Ridd, nếu con biết quý trọng thân xác, linh hồn của con, người mẹ yêu kính của con, hay danh tiếng của cha con, thì đừng dính líu gì đến bất kỳ người nào thuộc gia tộc Doone.”
Bà nhìn tôi nghiêm túc, lớn giọng, cho đến khi khắp thung lũng cong như một quả chuông khổng lồ vọng lại từ “Doone”. Nếu Chúa không muốn tôi dính dáng gì đến Lorna nữa, hãy cho xuất hiện một dấu hiệu trên đá, tôi sẽ cố khiến bản thân tin vào điều đó. Nhưng chẳng có dấu hiệu gì cả, tôi quay lại Mẹ Melldrum và mong bà là một người đàn ông.
“Mẹ à, Mẹ biết gì về Lorna chứ? Đúng là Mẹ có thể chữa những vết cước vì rét, bệnh nấm da đầu, những vết bỏng, thậm chí bọn cừu bị ghẻ lở, lũ chó ốm và bầy gà vịt mắc bệnh vàng da nữa, nhưng Mẹ biết gì về Lorna? Hãy nhìn con đây này, Mẹ Melldrum, con có giống một kẻ ngốc không Mẹ?”
“Giống, con trai. Chao ôi, ai đã trót vướng vào lưới tình rồi thì cũng như con cả thôi! John Ridd, nghe này. Dừng chuyện này lại đi.”
Theo hướng tay mẹ chỉ, tôi nhìn thấy một trận đánh ác liệt đang diễn ra. Một con cừu béo tốt vẻ mặt hiền lành mon men leo lên vách núi gặm chút cỏ ngon ướt đẫm sương. Từ một vách đứng cao hơn, một con dê đen gầy xồng xộc xông tới đọ sừng, vừa nhảy loi choi vừa thở phì phì giận dữ. Con dê thường gặm cỏ chỗ này, đây cũng là nơi ưa thích nhất của nó. Nó húc tới tấp vào con cừu bằng tất cả sự giận dữ và ác ý.
Con cừu thiến hiền lành có vẻ muốn rút lui, nhìn quanh trong tuyệt vọng để tìm cách thoát thân. Rủi thay, nó chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục chiến đấu hoặc bị hất tung xuống biển từ độ cao một trăm năm mươi mét.
“Nằm xuống, nằm xuống đi!” Tôi la lên, như thể nó là một con chó, vì tôi đã có lần chứng kiến một trận đánh tương tự, biết rằng con cừu không có cơ may sống sót trừ khi nó biết tận dụng sức nặng của mình.
“Nằm xuống, nằm xuống đi, John Ridd!” Mẹ Melldrum la lên, giễu cợt, nhưng miệng thì chẳng thấy cười.
Nghe thấy tiếng tôi, con cừu quay lại nhìn tôi bằng ánh mắt thảm thương đến mức tôi không cầm lòng nổi, cứ thế chạy hết tốc lực để cố cứu nó. Nó biết tôi không thể đến kịp, vì con dê đang chụm bốn vó, chuẩn bị nhảy xổ vào nó. Vì vậy con cừu ngoan ngoãn cúi đầu xuống, trưng ra cặp sừng cong vô hại. Con dê đá chổng hai chân sau lên, xông thẳng vào con cừu, với những cú nhảy nhanh, dứt khoát cùng những chuyển động khéo léo, và những cú húc chính xác, trong khi cái đuôi cụt của nó cong lên hệt một cái cò súng.
Khi chạy lên đến dốc đá, tôi không thể trông thấy chúng làm gì, con cừu chắc đang chống trả quyết liệt, nhưng chẳng ăn thua, tôi hy vọng sẽ cứu được nó trong gang tấc. Ngay khi đầu tôi nhô lên quá nền đá, tôi trông thấy nó bám lủng lẳng vào vách đá, kêu rên sầu thảm. Rồi như cái xô bị ném xuống giếng, nó rơi tự do. Tôi không biết khi nào thì nó tiếp nước, chỉ nghe một tiếng vang giữa các vách đá. Tôi giận con dê (lúc này cũng sắp cạn hơi và chẳng còn biết gì nữa) đến mức túm lấy chân sau bên phải của nó, trước khi nó kịp ăn mừng chiến thắng, lẳng nó xuống theo sau con cừu, như một bài học về tội hiếp đáp kẻ khác.