"E
m không thể nói rõ tất cả những suy nghĩ của mình để anh tỏ tường hết thảy, em cũng không xâu chuỗi các chi tiết để dệt nên một câu chuyện hoàn chỉnh. Em không biết bắt đầu từ đâu, cũng không biết đâu là giữa, thậm chí em còn không biết mình cảm thấy, nghĩ, hay phải nghĩ thế nào. Nếu em tìm kiếm sự giúp đỡ từ những người xung quanh, những người có thể giúp em phân biệt phải trái, đúng sai (vì họ nhiều tuổi hơn và khôn ngoan hơn), thì chỉ chuốc lấy tiếng cười nhạo, đôi khi còn bị nạt nộ.
Trên thế gian này chỉ có hai người từng lắng nghe và cố giúp em. Một người là ông em, người kia là nhà thông thái mà chúng em gọi là Quân sư. Ông em, ngài Ensor Doone, già lắm rồi và rất hà khắc (ngoại trừ với em). Có vẻ như ông biết rõ điều nên làm và điều không nên làm, nhưng lại không muốn để tâm đến chúng. Quân sư, mặt khác, dù sắc sảo, tinh tường, lại xem những câu hỏi của em là trò con nít vớ vẩn, chẳng bõ thời gian trả lời.
Còn cánh phụ nữ thì em chả trò chuyện được với ai, kể từ khi dì Sabina (người đã cất công dạy dỗ em) qua đời. Dì là một phụ nữ tốt bụng, cao thượng, có học, nhưng sự lỗ mãng, bạo ngược và ngu dốt xung quanh làm dì đau lòng, bất lục. Hết năm này đến năm khác, dì cố gắng hết sức trong vô vọng cốt để cánh thanh niên biết lắng nghe, dạy họ làm thế nào để xứng với dòng dõi cao quý, giúp họ biết trọng danh dự. Đó là công việc yêu thích của dì. Thật tội nghiệp dì! Họ gọi dì là “Bà cô già Danh dự”. Dì thường bảo em là nguồn an ủi duy nhất của dì, em tin chắc là dì cũng như thế đối với em. Khi dì mất, đối với em mà nói, còn hơn cả mất mẹ.
Em chẳng còn nhớ gì đến cha mẹ mình, nghe họ nói, cha em là con trai trưởng của ngài Ensor Doone, vốn là người quả cảm, tài giỏi nhất trong số họ. Do vậy, em sẽ thừa kế lãnh địa nhỏ đầy bạo lực này. Họ vẫn thường gọi em là Công chúa hay Nữ hoàng của họ.
Nhiều người sống ở đây, như em buộc phải sống, có lẽ đang rất hạnh phúc, và có lẽ em cũng phải như vậy. Chúng em có một thung lũng tươi đẹp, được che chắn khỏi cái lạnh khắc nghiệt của mùa đông và cái nóng kinh người của mùa hè, cũng không bị quấy rầy bởi những cơn bão hung dữ hay sương mù giăng kín (mặc dù em phải thừa nhận rằng trời rất hay mưa). Với lại, cỏ luôn xanh mướt, con suối lúc nào cũng róc rách tươi vui, hoa thì đủ loại, đủ màu sắc, nở hết đợt này đến đợt khác, đến mức nếu chỉ còn lại một mình thì cũng chẳng có ai buồn chán cả.
Vì thế khi buổi sáng nhẹ nhàng đến bên em, mặt trời lên cao, ánh sáng nhảy nhót khắp nơi, em thấy bình thường, gần như không suy nghĩ gì. Nhưng khi ngày tàn, bầu trời trải rộng u buồn, bóng mây của sự đơn độc phủ xuống như đêm đen bao trùm lên em. Em không thể tìm thấy những thứ mình cần ở một thế giới xa tầm với. Em không thể hòa mình vào sự bình yên và tĩnh tại của chiều sâu bên trên em. Em cũng không tìm được niềm vui nào từ những vì tinh tú sáng nhấp nháy.
Không ai trong số họ có thể cho em biết điều em muốn biết - em là ai, tại sao em ở đây. Hình như sự hiếu kỳ của em khiến anh hơi ngạc nhiên nhỉ? Có lẽ những câu hỏi như vậy không bao giờ nảy ra trong đầu bất kỳ người bình thường nào. Nhưng chúng ở sâu thẳm trong lòng em, em không thể xua chúng đi được.
Trong lúc đó, vây quanh em là bạo lực, cướp bóc, những sở thích thô tục, những hình phạt ghê người, những cười cợt bỉ ổi và cái chết không tránh khỏi. Có kỳ lạ không khi em chẳng thể hòa mình vào chốn này, không thể quên được bản thân mình để sống cuộc sống của những kẻ hung tàn, và chết cái chết còn kinh khủng hơn thế? Không ai dẫn dắt em tiến về phía trước, không ai dạy cho em điều hay lẽ phải, vì em còn bé và sống chung với một lời nguyền vĩnh cửu.”
Nói đến đây, Lorna nghẹn ngào một lúc, khóc thút thít, thấy thương thương là. Vốn không tin vào sự hiểu biết và khả năng an ủi của mình, tôi cố kiềm chế không nói gì, vờ vui vẻ. Sực nghĩ đó có thể là cách tồi, tôi bèn lau mắt cho em.
“Anh Ridd!” Em tiếp tục nói. “Em vừa xấu hổ vừa tức giận với ý nghĩ điên rồ, trẻ con của mình. Còn anh, anh có một người mẹ luôn quan tâm, lo lắng cho anh (anh từng bảo thế), hai cô em gái, cùng một ngôi nhà bình yên, nên anh đâu thể biết chắc (đúng hơn là không thể) sự đơn độc là gì. Đôi khi nó cứ thế nhảy xổ vào em đầy khoái trá; còn em trở nên chán nản, chả thiết gì nữa khi lòng trĩu nặng, u uẩn.”
“Em cũng không hay tiêu cực quá như thế đâu. Đôi khi em giận, đến mức không dám tin vào lời nói hay những chuyện họ không thể giấu được em. Có lẽ anh sẽ rất kinh ngạc khi những kẻ sống bừa bãi, cẩu thả lại quá quan tâm đến việc tránh để cho một cô gái trẻ biết những việc mình làm. Họ từng khoác lác với dì Sabina về những vụ cướp bóc và sự bạo tàn, cốt để khiến dì nổi điên nhưng họ chưa bao giờ khoe khoang với em. Thậm chí đôi lúc em thấy buồn cười khi họ lóng ngóng mang đến cho em những gói nhỏ đựng nữ trang lấp lánh nửa kín nửa hở mới chốc lát trước còn thuộc về người khác cốt để lấy lòng em.
Nhưng khi em cố tìm hiểu về quá khứ để biết những gì xảy đến với mình trước khi ý thức được mọi chuyện, em chợt hiểu rằng không có gì sống lâu hơn ý Chúa muốn.
Hẳn sẽ tốt biết mấy nếu em có một người cha để giúp em giải đáp mọi thắc mắc; hoặc một người mẹ để xây tổ ấm, dạy em cách quán xuyến nó. Nhưng vì chỉ còn lại một mình nên em nghĩ tất cả đều bất khả. Ý em là em chẳng thể nắm bắt và cầm chắc trong tay thứ gì, ngoài những hình ảnh mơ hồ, hoang mang, cùng mớ suy nghĩ không đầu không cuối. Bình thường, khi không cố lục lọi trí nhớ hoặc gặng hỏi về bố mẹ thì em chú tâm vào những thứ linh tinh, kiểu như một dấu hiệu, một thông điệp hay một biểu tượng truyền tải một ý nghĩa nào đó dường như lóe lên trong em. Bất kể là từ cơn gió thổi xào xạc, âm thanh của tiếng nhạc văng vẳng, hay từ tiếng hót của một chú chim, nó như mặt trời chiếu trên tuyết sáng lóa, lúc nào cũng khiến em vừa đau đớn vừa thích thú.
Đôi khi em thức giấc giữa đêm khuya, lắng tai nghe sự thinh lặng bao trùm, đi lang thang vẩn vơ trong không gian buồn thảm của đêm đen, hay đứng yên nhìn mặt nước phẳng lặng chìm trong bóng tối, một hình ảnh mơ hồ cứ chờn vờn trước mặt em, với những đường nét liên tục thay đổi, di chuyển khi em đi theo. Nó cũng chuyển động, đuổi theo em, trong sự háo hức và mong mỏi, ngay tức khắc cơ hội vuột mất. Rồi ký ức, sợ hãi hệt một chú chim hoang, bay vút đi. Hay có lẽ hình ảnh đó là em hồi còn bé, đuổi theo một chú chim cảnh sổ lồng, đang tự do nô đùa giữa những cành cây, ngó láo liên cái lồng được chìa ra (như một ngôi nhà chứ không phải chốn giam cầm) và chưa vội vào, nếu quả thực nó có vào?
Em cũng hay tự hỏi sao con người ta sinh ra lại có số phận khác nhau đến thế. Như em đây này, một người không tự lực, thích sự bình yên và đọc sách lại thừa kế lãnh địa hung bạo này, nơi ẩn náu của tính vô đạo, báng bổ thánh thần. Em không thể có nhiều quyền lực được. Quân sư luồn lọt để trở thành Tổng trưởng tài chính, còn con trai ông ta lại muốn lấy em.
Nơi đây chưa bao giờ đem lại cho em sự thanh bình và an toàn. Chỗ này là nơi tận cùng của thung lũng, nơi khó đến nhất, có thể được xem như là chỗ của em. Do vậy ngoài lính gác ra, không ai có thể xâm phạm, trừ phi người đó là ông nội, Quân sư hoặc Carver.
Anh Ridd, nhìn mặt anh, em đoán anh đã từng nghe nói đến Carver Doone. Về sức mạnh, lòng can cảm và tài tháo vát của anh ta. Ở đây, anh ta là người nổi danh nhất, con trai của Quân sư mà lại. Nhưng anh ta chẳng điềm đạm như cha mình mà nóng nảy, dữ dằn, ăn nói bạt mạng, không kiêng dè ai. Quân sư, chú của em, luôn đưa ra những lời khuyên bổ ích nhất cho con trai mình, giới thiệu tất cả những đức hạnh cần trau dồi bằng ngôn ngữ thuyết phục và sự thông thái. Thế nhưng anh ta nào có nghe theo.
Chắc anh chán câu chuyện của em rồi nhỉ, vì em mất thời gian suy nghĩ, và cách kể chuyện của em cũng dở nữa. Nhưng cuộc sống của em nơi đây ngày nối ngày hầu như chẳng có gì khác cả. Em chẳng khi nào mong một ai trở về an toàn - ý em là ai cũng như nhau - và quả thực họ không hề gặp bất kỳ rủi ro nào vì bây giờ ai ai cũng đều khiếp sợ gia tộc Doone. Nơi đây, không một người đàn ông lớn tuổi nào có được sự sùng kính hay yêu thương từ em (trừ ông nội, người mà em yêu thương nhưng cũng sợ sệt); không có phụ nữ nào mà em thích giao du cùng, trừ một cô gái nhỏ em đã cứu khỏi chết đói.
Ấy là một cô gái nhỏ vùng Cornwall, người thấp bé, mang đậm tính cách của người miền Tây. Cha em ấy hình như là một thợ mỏ, một người Cornwall (như em ấy nói) ưu tú hơn người bình thường, hơn bất kỳ hai người nào ở Devonshire hoặc bốn người nào ở Somerset. Ông có thể làm được hầu hết mọi chuyện, nhưng lại bỏ mặc cô con gái suýt chết đói trên đống than bùn. Em ấy không biết sự thể xảy ra thế nào, và xem đó là điều bí ẩn. Em hy vọng một ngày kia mọi chuyện sẽ sáng tỏ, danh dự của cha em ấy sẽ được phục hồi. Tên ông là Simon Carfax, giữ chức trưởng nhóm tại một khu vực khai thác thiếc ở Cornwall. Gwenny Carfax (tên cô bé) nhớ rất rõ cha mình được đưa về từ Cornwall như thế nào. Mẹ em ấy được chôn cất chỉ khoảng một tuần trước đó. Ông buồn rầu, quyết định nghỉ làm, sắp sửa bắt đầu một công việc khác. Rồi một đêm kia, có người đến tìm ông, bảo ông cần thay đổi, khi mất vợ thì dồn hết tâm trí vào công việc là cách làm nguôi nỗi đau nhanh nhất. Thế là cùng với nỗi đau mất mát không gì khỏa lấp nổi, ông đi theo họ để trở thành một đội trưởng vĩ đại. Lần cuối cùng em ấy trông thấy cha là khi ông bước xuống một cái thang ở đâu đó trong rừng của Exmoor, bỏ lại đứa con gái bé bỏng với bánh mì, phô mai cùng chiếc mũ đi đường của mình. Kể từ hôm đó, ông không bao giờ lên lại mặt đất.
Suốt ba ngày liền, Gwenny vẫn ở bên miệng hố, giữ khư khư cái mũ của cha, ăn bánh mì và phô mai. Rồi cái hố bị lấp lại trong lúc em đang ngủ say. Vì yếu ớt và đói khát, em ấy hoảng loạn tột độ, đi lang thang hàng dặm, nằm lả đi trên một đống than bùn, chờ chết trước bầy quạ.
Đúng hôm ấy, em tình cờ quay về từ chỗ của dì Sabina đang lâm trọng bệnh. Dì bảo không muốn chết ở thung lũng Doone vì sợ các thiên thần sẽ không dám đến cứu vớt linh hồn dì. Vậy nên dì được đưa đến một ngôi nhà nhỏ tại một thung lũng vắng vẻ. Em được phép đến thăm dì, vì ước nguyện của người chết không ai dám từ chối; nếu họ muốn một linh mục, chắc chúng em cũng đánh liều đi mời. Quay về trong buồn bã, chẳng còn thiết tha điều gì, em phát hiện một dáng người nhỏ bé nằm hai tay đặt lên người, không còn dấu hiệu sự sống, ngoại trừ khóe miệng mấp máy. Miệng em ấy vướng đầy rễ cây đen và một mẩu len cừu lấm lem, dưới chân em ấy là vỏ trứng đã cũ của một loài chim nào đó trong vùng.
Em cố nhấc em ấy dậy, nhưng em ấy quá nặng so với em, nên em cho thức ăn vào miệng em ấy, để em ấy tự nhai nuốt. Em ấy làm điều đó chỉ trong chớp mắt vì thức ăn em mang theo để dỗ dành dì Sabina tội nghiệp rất ngon. Gwenny ăn sạch không chút kề cà, tưởng chừng còn muốn nhai luôn cái giỏ và đồ đựng thức ăn nữa.
Gwenny nghĩ em là một thiên thần - dù em chẳng giống thiên thần chút nào, như anh thấy đấy, anh Ridd. Em ấy đi theo em, những tưởng em sẽ xòe cánh bay vút lên khi chúng em gặp bất trắc. Em đưa em ấy về nhà mình (nếu nơi này có thể gọi là nhà) và em ấy tự nguyện làm cô hầu gái duy nhất của em mà không buồn hỏi ý em. Em ấy đã đánh hai hay ba đứa con gái gì đấy, những đứa từng lo cơm nước, giặt giũ cho em, đến mức các cô ấy không dám đến gần nhà ông nội em. Em ấy dường như chẳng biết sợ bất kỳ điều gì, ngay cả những người đàn ông dữ tợn nhất ở đây; tuy nhiên em ấy có vẻ kính sợ Quân sư. Về sự độc ác, trộm cướp và những ồn ào chè chén xung quanh, em ấy bảo em ấy không quan tâm, việc của họ, họ làm. Nhờ tài ăn nói, em ấy đã chiếm được cảm tình của cánh kỵ sĩ ở đây, gần như tự do đi lại bất kỳ nơi nào và bất kỳ mùa nào, thậm chí những nơi mà ngay cả thanh niên cũng không thể đi. Vì to con, thấp và phẳng lì, em ấy chẳng có lấy một lời khen từ ai. Nếu có chăng nữa, em ấy cũng chỉ cười khẩy. Vài khi em ấy đi lang thang thật xa, dưới ánh trăng, ngoài truông và trên bờ sông, để cha em ấy (là em ấy bảo thế) có thể nhìn thấy con gái mình, rồi em ấy quay về, chẳng những không nhụt chí, thất vọng hay chán nản, mà còn tin chắc rằng chỉ là ông chưa đến lúc trở về.
Em ấy có thể nói là một tấm gương cho em về lòng kiên trì và biết chấp nhận để học hỏi. Thỉnh thoảng em thấy bực mình vì có vài chuyện không thể giải quyết được, nhưng em không thể dứt tâm trí mình ra khỏi chúng, em những muốn rời khỏi thung lũng chết chóc này, bất chấp những rủi ro đón đợi em ở thế giới mờ mịt ngoài kia. Nếu không phải vì ông nội, chắc em đã bỏ đi từ lâu rồi. Em không thể chịu đựng được ý nghĩ rằng ông sẽ chết mà không có ai vuốt mắt cho. Với lại, em nghĩ đến xung đột chắc chắn sẽ xảy ra sau đó, nếu không có sự thống nhất trong việc chọn ra người kế vị.
Ôi chao! Chúng em nên được thương hại hơn là phán xét bởi những người bị chúng em chiếm đoạt tài sản. Em đọc sách và biết rằng trên thế gian này có những nơi mà hòa bình, tình yêu quê hương, tình làng nghĩa xóm tối lửa tắt đèn có nhau được đặt lên hàng đầu. Những con người lương thiện đi làm dưới ánh mặt trời rực rỡ, với hy vọng lại được về nhà an toàn vào buổi tối thanh bình, thấy bầy con còn nguyên; ngay cả trong bóng đêm, họ vẫn không thấy sợ gì khi nằm xuống, chìm vào giấc ngủ, lắng nghe tiếng gió của đêm, không coi nó là một kẻ thù cố tìm cách đột nhập, mà như một người bạn đến bên, tỉ tê về giá trị của cuộc sống thanh nhàn.
Em nghe nói về cuộc sống thanh nhàn, nhưng chưa từng chứng kiến. Có lẽ em sẽ không bao giờ được chứng kiến, vì số phận em gắn liền với sự hỗn loạn mất rồi. Một lần nọ, em được một người bà con ngỏ ý giúp em trốn thoát, hứa hẹn một thế giới tươi vui, xán lạn chờ đón em; nhưng em không muốn, hoặc không dám tin vào điều đó. Chuyện này có một kết thúc rất buồn và đáng sợ đến mức em thậm chí còn rùng mình khi kể lại, vì câu chuyện kinh hoàng đó đã thay đổi cuộc sống của em hoàn toàn trong chốc lát, một cách bất thình lình, biến em từ một đứa trẻ suốt ngày say sưa với chim muông, hoa cỏ, cây cối, trở thành người ý thức được về cái chết cùng bóng tối. Giờ thì xin anh Ridd đừng hỏi gì em về chuyện đó, để có thể ngủ ngon hơn nhé!”
Nhưng tôi, John Ridd, lúc ấy vẫn còn trẻ người non dạ, đặc biệt rất thích nghe những chuyện hồi hộp, ly kì, vẫn hối thúc Lorna tiếp tục, có lẽ vì hy vọng sâu thẳm trong lòng, em vẫn muốn thổ lộ mọi chuyện với tôi. Do vậy, em tiếp tục kể.