T
ôi ăn khỏe, đến mức không ai ngoài mẹ thấy cần thúc tôi ăn. Vậy mà đận ấy, tôi chỉ có thể ăn được một bữa đầy đủ trong ngày. Mẹ tôi rất lo, cố dụ tôi bằng tất cả những món ngon, thậm chí còn tính đến Porlock mời một người bào chế thuốc tới nhà mỗi tuần hai lần. Còn em Annie thì suốt ngày nấu nấu nướng nướng. Đến em Lizzie cũng chịu khó hát cho tôi nghe, em hát khá hay. Nhưng Betty Muxworthy thì khác. Bà nói:
“Hãy để cậu chủ yên. Khi nào cậu chủ thấy đói thì hẵng ăn, đừng có nài. Cậu chủ không muốn nói chuyện thì thôi, đừng có ép.”
Nhưng mẹ tôi không nhìn nhận vấn đề theo cách đó. Bà thậm chí còn nhắn bác Nicholas Snowe dẫn ba cô con gái đến chơi, uống rượu và ăn bánh trong phòng khách, tư vấn về việc nuôi ong, khi nào thì có thể gầy được một đàn. Bực bội vì phải ở trong nhà gần hết nửa buổi tối, tôi mất kiên nhẫn đến mức lớn tiếng gay gắt (ngay cả trong nhà mình!), bảo bác nghĩ gì khi không chịu sửa chữa tấm chắn nơi dòng Lynn chảy từ đất của chúng tôi vào đất nhà bác, trong khi việc này thuộc trách nhiệm của bác. Nhưng bác nhìn tôi vẻ kẻ cả, bảo: “Chàng trai, chuyện công việc nói có nơi có chỗ chứ.”
Lúc bấy giờ, tôi còn một lý do nữa để bực bội bác Nicholas, đó là sau lễ nhà thờ Chủ nhật nào đó, khi hầu hết chúng tôi đang buồn về tội lỗi của nhau, tôi nghe người ta rỉ tai nhau rằng bác Nicholas Snowe đã nhìn mẹ tôi âu yếm trong suốt buổi nghe giảng kinh, khi mục sư đang hùng hồn về bổn phận của các con chiên. Nghe bác thao thao hết ong iếc, gà vịt, rồi một con bò thiến bị gãy khớp gối, lảng tránh chuyện hàng rào và phớt lờ tôi, tôi càng nghi bác Nicholas đang cưa cẩm mẹ. Tôi biết rất rõ rằng vợ của chú Fohn Fry mỗi lần đến lo việc giặt giũ là lại bô bô rằng tội lỗi thay cho một phụ nữ xinh đẹp như mẹ tôi, có của nhưng chỉ có ba người con, khiến cho tất cả nông dân trong vùng tơ tưởng. Mẹ tôi thường đáp: “Nói nghe kỳ quá, cô Fry! Tốt hơn cả là cô hãy chú tâm vào công việc của mình đi.” Nhưng chúng tôi luôn thấy thím ấy vuốt tạp dề, cột tóc ngược ra sau, và khi thím ấy về, thể nào mẹ cũng biếu cho thím ấy một bàn chân lợn để nguội hoặc một bát mỡ thịt quay.
Thế là, vào chính đêm hôm đó, vì không thể làm rõ chuyện với mẹ mà không có vẻ hỗn hào, nên sau khi soi đèn bão cho ba cô gái trẻ - đó là họ tự gọi mình - về nhà, tôi lễ phép xin bác Nicholas (đi sau chúng tôi) cho tôi được nói chuyện riêng với bác một lát trước khi bác vào nhà.
“Rất sẵn lòng, con trai.” Bác lịch sự, chắc là nghĩ tôi sắp nói điều gì đó liên quan đến cô Sally nhà bác.
“Bác Nicholas Snowe.” Tôi chẳng biết mào đầu sao cho phải. “Bác phải hứa là không được giận cháu nhé, vì điều cháu sắp nói ra đây.”
“Giận cháu ư? Không, không, chàng trai. Quen biết nhau lâu thế, giận cái gì. Trước đây, cha cháu là bạn thân nhất của ta. Ông ấy không bao giờ làm điều gì không phải với hàng xóm, cũng chẳng bao giờ buông lời nặng nhẹ với ai. Ông ấy yêu mẹ cháu, luôn nói cho bà biết rõ ý mình. Hai người là một cặp đôi hạnh phúc. Ôi chao, Chúa biết cả đấy. Ta sẽ không bao giờ còn gặp lại ông ấy nữa. Ông ấy còn là người giảng hòa cho những mối xích mích ở bất kỳ nơi đâu tại cái hạt này.”
“Được rồi, bác Snowe.” Tôi nói. “Bác rất tốt khi nói thế. Giờ cháu sẽ giống như cha mình, cháu sắp nói rõ ý mình đây.”
“Đúng rồi, chàng trai. Rào đón thế đủ rồi.”
“Điều cháu muốn nói là: Cháu không muốn bất kỳ ai tán tỉnh mẹ cháu.”
“Tán tỉnh mẹ cháu?” Bác Snowe kêu lên, nét mặt sửng sốt như thể đấy là một điều cấm kỵ. “Trời ơi, ai lại làm thế?”
“Vâng, tán tỉnh mẹ cháu, thưa bác. Và bác là người biết rõ nhất đó là ai.”
“Xùy xùy! Cháu nói cái gì thế, con trai? Đừng có nói linh tinh rồi ảnh hưởng đến mẹ cháu. Thôi, con trai, không cần cháu soi đèn nữa. Đến nhà ta rồi, cháu về đi.” Rồi ông đóng cửa đánh sầm trước mũi tôi, chẳng buồn mời tôi vào uống một ly rượu táo.
Chiều hôm sau, khi xong việc đồng áng, tôi coi sóc bầy ngựa, giờ đây có họa ngốc mới tin vào John Fry, vì chú có quá nhiều con, mà bà vợ của chú thì suốt ngày xéo xắt, chửi rủa. Trong lúc tôi đang thầm nghĩ còn năm ngày nữa thôi là hết tháng, nghĩa là tôi được đi tìm Lorna, thì có một người đàn ông cưỡi ngựa ngược lên từ con đường cắt ngang khúc cạn của dòng Lynn. Ngay khi nhận ra người ấy không phải Tom Faggus, tôi không chạy ra chào, nghĩ chắc đó là một du khách đang trên đường đến Brendon hoặc Cheriton, có thể sẽ vào xin một ngụm sữa hay ly rượu táo rồi tiếp tục đi sau khi hỏi đường.
Thay vì thế, người đó dừng lại ngoài cổng, không xuống ngựa mà cứ thế cất tiếng thật lớn, đồng thời vẫy vẫy một thứ gì đó màu trắng hệt cái giải mà mục sư chúng tôi vẫn đeo. Tôi bèn băng qua sân để xem ông ta muốn gì.
“Trát đòi của Đức vua!” Ông ta nói. “Trát đòi của Đức vua! Lại đây mau, kẻ quê mùa kia, nếu không sẽ bị phạt và tống giam.”
Mặc dù phật ý với thái độ kẻ cả đó, tôi vẫn tiến lại hệt một thần dân trung thành. Tuy nhiên tôi đi đủng đỉnh thôi vì đàn ông không ai có thể thúc giục được tôi, với phụ nữ thì chắc tôi đã chạy sấp chạy ngửa ra tiếp đón rồi.
“Nông trại Plover Barrows!” Ông ta nói. “Chỉ Chúa mới biết ta mệt đến thế nào. Ở cái xứ khỉ ho cò gáy đáng nguyền rủa này có chỗ chết tiệt nào gọi là nông trại Plover Barrows không? Ít nhất trong suốt hai mươi dặm vừa rồi, ai cũng bảo “chỉ còn nửa dặm nữa thôi”, hoặc “chỉ ngay chỗ rẽ kia thôi”. Giờ mà chú em còn nói như vậy nữa thì ta sẽ nện cho chú em một trận, nếu chú em không to xác gấp ba lần ta.”
“Chào ngài.” Tôi đáp. “Ngài sẽ không phải đi nữa đâu ạ. Đây là nông trại Plover’s Barrows, hân hạnh được chào đón ngài. Bữa tối có thận cừu và rượu lấy trực tiếp từ vòi. Nhưng tại sao ngài lại nghĩ xấu về chúng tôi thế? Cái gì mà đáng nguyền rủa chứ?”
“Không, ta có nghĩ xấu gì đâu.” Ông ta nói. “Có thận cừu là tốt rồi, quá tốt, nếu không bị cháy. Ta rất giận vì ngồi trên yên ngựa suốt mười ngày qua mà chưa hề được mời một bữa ăn tử tế. Hễ nghe “Trát đòi của Đức vua” là họ mang cho ta thứ dở nhất. Suốt đoạn đường từ London, có một kẻ bất lương đi đằng trước ta, được ăn no đẫy ra toàn của ngon vật lạ. Đã vậy, ai nấy đều cúi đầu chào y nữa chứ. Y có thể đi liên tục ba dặm mà không hề đổi ngựa. Y hẳn đã cướp của ta bất kỳ lúc nào, nếu ta đáng với sự mất công đó. Y cưỡi một con ngựa cái màu đỏ. Ta sẽ cố sống để tận mắt chứng kiến y bị treo cổ thì mới hả.”
Ông ta vừa càu nhàu vừa cưỡi ngựa băng qua sân rơm, cởi chiếc xà cạp bằng da ra khỏi đôi chân mỏi nhừ, gần như không dám đứng. Ông ta có vẻ thô lỗ, cộc cằn, tuổi chừng bốn mươi, chiều cao và cân nặng trung bình. Ông ta mặc đồ cưỡi ngựa màu nâu sậm, chẳng hơn màu bùn của Exmoor là mấy, nhưng vừa vặn với người ông ta chứ không vụng như kiểu của cánh thợ may quê chúng tôi.
Chiếc áo choàng phủ xuống hai bao súng ngắn đeo ở thắt lưng, làm từ da gì đó màu đỏ, bóng lên vì mồ hôi ngựa. Khi tôi nhìn xuống mặt ông ta, đôi mắt nhỏ tinh anh và bộ râu quai nón xồm xoàm, ông ta có vẻ coi thường tôi - một kẻ nhà quê ngu dốt, hậu đậu.
“Annie, dọn thịt lợn muối nhé!” Tôi kêu lên, vì tình cờ lúc đó em gái tôi xuất hiện ở cửa, hoặc vì em nghe thấy tiếng vó ngựa trên đường. “Cùng một ít giăm bông làm từ thịt nai nữa. Có một quý ông dùng bữa tối, Annie.”
“Ta ước gì có thể đến một nơi không bao giờ dành cho mình...” Người bạn mới của tôi nói, đưa tay áo khoác đi ngựa màu nâu lên quệt ngang miệng. “...Nếu ta từng tình cờ gặp những người dân tốt như vậy. Chú em là người tốt, không làm điều gì sai trái. Tất cả điều này sẽ có lợi cho chú em nhiều lắm đấy, khi ta khai báo lại. Ít nhất, ý ta là, nếu thức ăn ngon như tên gọi của chúng. Đây chính là bữa tối của Tom Faggus, người đã cướp thức ăn của ta. Mà giăm bông có phải làm từ giống nai đỏ sinh sống rất nhiều ở vùng này không đấy?”
“Chắc chắn luôn, thưa ngài.” Tôi đáp. “Chúng tôi còn biết săn chúng ở đâu nữa?”
“Đúng, chú em nói đúng. Ta nghe nói thịt loại đó thơm ngon lắm. Buổi sáng, lúc trời còn mờ sương, có vài con xuất hiện làm ta hoảng, kể từ đó ta thèm ăn chúng chết đi được. Ha ha, ta nhìn thấy hai chân sau của chúng. Mà cô gái trẻ kia chắc sẽ không quên điều đó chứ?”
“Ngài có thể tin em ấy không quên điều gì, thưa ngài, em ấy có thể nấu nướng sao cho một vị khách thêm ngon miệng là khác.”
“Vậy chú em lo cho con ngựa hộ ta nhé, ta đói rồi. Nghe mùi là thấy ngon phân nửa rồi. Thôi chết, cái bụng rỗng khiến ta suýt nữa quên mất việc chính. Ta đói, thân thể mỏi nhừ từ gót chân trở lên. Nhưng ta chưa thể nghỉ ngơi hay ăn uống gì được khi chưa tìm được John Ridd. Chúa phù hộ sao cho cậu ta không ở quá xa, chứ không chắc ta ăn cả yên ngựa mất.”
“Đừng lo, thưa ngài.” Tôi đáp. “Ngài không cần tìm đâu xa. John Ridd là tôi đây.”
“Chắc phải cần đến một cái giạ1 lớn để giữ chú em đấy, John Ridd. Nhân danh Đức vua, Charles đệ nhị, đây là tờ trát!”
1. Đơn vị đo thể tích khoảng 36 lít để đong thóc.
Ông ta đưa cho tôi cái thứ màu trắng mà lúc nãy tôi thấy ông ta vẫy, giờ tôi mới nhận ra đó là tấm da cừu mà người ta gọi là giấy da. Nó được cột lại bằng một sợi dây, gắn sáp cố định ở mỗi góc nhìn thật xấu xí. Vâng lệnh sứ giả (tôi sợ đến run người, lúng túng như gà mắc tóc), tôi mở lớp sáp vừa đủ để ngăn một con ma Phục sinh khỏi vùng ra, ở đó tôi thấy tên mình được viết thật lớn. Xin Chúa phù hộ đừng để một cú sốc như vậy xảy đến với tôi khi già.
“Đọc đi, chú em. Đọc đi, đồ ngốc, nếu thực sự chú em biết đọc.” Viên sứ giả khích lệ. “Chẳng có gì giết chết chú em cả, nhưng bữa tối của ta có nguy cơ hỏng mất. Đừng có nhìn chòng chọc vào ta thế, đồ ngốc. Chú em đủ to xác để ăn tươi nuốt sống ta đấy. Đọc đi, đọc đi, đọc đi!”
“Ngài có thể cho tôi biết quý danh không ạ?” Tôi hỏi, dù chẳng biết tại sao mình lại hỏi như vậy, chắc là sợ yêu thuật.
“Ta là Jeremy Stickles, chỉ là một viên công lại của tòa án tối cao. Ngay lúc này, ta là một kẻ sắp chết đói, chú em đọc cái đó mau đi để ta còn được ăn.”
Bị hối thúc quá nên tôi gần như đọc ngay lập tức, không phải đọc hết mà chỉ ý chính và những chi tiết quan trọng.
“Kính gửi thần dân John Ridd, vân vân…” Rồi bao nhiêu lời lẽ về tôi hay ho hơn nhiều so với những gì tôi biết về bản thân mình. “Gửi tờ trát này thay cho lời chào. Nhân danh Đức vua, yêu cầu khanh đích thân diện kiến trước Chánh án tòa án tối cao ở Westminster. Hãy gác lại hết những công việc cá nhân, trình diện để cung cấp chứng cứ mình biết liên quan đến những vấn đề ảnh hưởng đến sự an nguy của Đức vua và sự thịnh vượng của vương quốc này. Nếu trái lệnh, có thể bị kết tội, bị nghi ngờ, gặp nguy hiểm hoặc bị phương hại. Tờ trát này là bằng chứng.” Có bốn con dấu và một chữ ký mà tôi không hiểu, chỉ là nó bắt đầu bằng chữ J, kết thúc bằng gì đó, gần như một hình tròn. Bên dưới có thêm một chữ viết khác. “Mọi phí tổn sẽ được đài thọ. Việc khẩn cấp.”
Viên sứ giả quan sát tôi trong khi tôi chăm chú đọc trát đòi, ông ta có vẻ rất hài lòng khi nhìn thấy nét mặt sửng sốt của tôi, bởi vì ông ta đã biết trước như vậy. Rồi, không biết làm gì khác, tôi nhìn lại cái phong bì, thấy bên trên nó dòng chữ: “Cưỡi ngựa, cưỡi ngựa, cưỡi ngựa! Làm nhiệm vụ cho Đức vua. Khẩn cấp.”
Có thể tất cả những người quen biết sẽ cho rằng tôi hoa cả mắt và ù đặc hai tai, buộc phải giữ chặt cái móc treo cào cỏ đóng bên dưới mái hiên để đứng cho vững. Hiếm khi tôi rơi vào tình trạng hồn bay phách lạc. Duy chỉ có lần đến tìm Mẹ Melldrum, bị tác động bởi quyền năng của bà, vì tôi đã coi thường lời cảnh báo của bà và lại đi tìm Lorna. Nhưng viên sứ giả đau lòng cho tôi, cùng cái nguy cơ có thể xảy đến với bữa tối của ông ta.
“Chú em ơi, đừng sợ!” Ông ta nói. “Không ai lột da chú em đâu. Chú em chỉ cần nói sự thật, và… Mà thôi đừng lo, ta sẽ nói cho chú em biết tất cả về chuyện này, cùng cách để được an toàn, nếu ta thấy thức ăn của chú em ngon và phục vụ nhanh chóng.”
“Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức, thưa ngài.” Tôi nói. “Để làm vừa lòng khách của chúng tôi.”
Lúc mẹ tôi nhìn thấy tấm giấy da (vì không thể giấu được bà), bà ngã lăn ra vạt hoa đinh hương yêu thích mà bấy lâu nay bà vẫn cất công chăm bón. Khi chúng tôi giúp bà tỉnh lại, bà không nói gì, chỉ lớn tiếng tố cáo thời đại xấu xa và lòng người độc ác. “Không cần nói với bà ấy, bà ấy thừa biết thế nào rồi, cả giáo xứ đều biết. Đức vua đã nghe tiếng con trai bà ấy, đúng mực, chín chắn, trầm tính, siêng năng, cần cù, là một thanh niên khỏe mạnh nhất nước Anh, còn Đức vua là một kẻ trụy lạc - Chúa tha thứ cho bà ấy vì đã trót nói thế - ngài nhất định phải có được Johnny đáng thương, biến thằng bé thành một kẻ phóng đãng như mình. Nếu ngài làm thế…” Đến đây, mẹ tôi khóc ngất. Annie lau mặt cho bà, trong khi Lizzie vuốt váy bà cho thẳng nếp.
Thế nhưng hình ảnh của Đức vua trở nên đẹp hơn khi ngài Jeremy Stickles (thực sự xúc động bởi cảnh tượng đó, suy cho cùng, chẳng có ai xấu cả) nói rõ ngọn ngành cho mẹ tôi hay rằng ”Đức vua rất nóng lòng muốn gặp được John Ridd. Sự nổi tiếng của John đã lan quá xa, sức vóc phi thường của cậu ấy cùng tất cả những đức hạnh của cậu ấy đích thực là do Chúa tạo nên, Đức vua rất ấn tượng vì tất cả.”
Rồi mẹ ngồi ngả người ra sau trên chiếc ghế ngoài vườn của bà, mỉm cười với tất cả chúng tôi (nhất là với Jeremy), nhìn tôi ngượng ngùng, nói qua làn nước mắt. “Đức vua sẽ có John nhà tôi. Nhưng chỉ hai tuần thôi đấy. Tôi chẳng muốn nó có danh tước gì đâu. Có Johnny, với tôi thế là đủ rồi. ”
Lúc bấy giờ, dù mẹ rất sẵn lòng để tôi đi London, mong tôi sẽ khiến cho bà nở mày nở mặt, bản thân tôi lại chìm trong hố sâu thăm thẳm của nỗi buồn. Lorna sẽ nghĩ gì về tôi? Một tháng dài đằng đẵng sắp hết. Bao nhiêu là lời hứa hẹn, vậy mà tôi cứ thế đi không nói với em một tiếng. Chắc sẽ làm Lorna tổn thương lắm! Miên man suy nghĩ, tôi chẳng chợp mắt được tẹo nào, dù Jeremy Stickles (nằm kế bên) ngáy như kéo bễ, như thể ngủ luôn phần tôi. Tôi có cảm giác mình đóng một vai trò quan trọng trong việc này và tâm niệm cần phải nghiêm túc tuân theo thánh chỉ. Biết đâu Đức vua cho tôi biết điều gì về gia tộc Doone - và tôi cảm thấy họ là nguyên nhân thực sự của trát đòi lạ thường này - hoặc ai biết Đức vua sẽ nghĩ gì, nếu sau khi nhận được chiếu chỉ (được phong kín) từ ngài, tôi lại phụ lòng tin của ngài dành cho tôi với tư cách là con trai của người trông nom nhà thờ, khinh suất để lộ ra ngoài thánh chỉ của ngài?
Có lẽ tôi đã không sáng suốt lắm khi thận trọng quá mức như vậy. Kỳ thực, những suy tư ấy khiến lòng tôi trĩu nặng. Cuối cùng, tôi cũng quyết định được một việc, đó là ngay cả Lorna cũng không được biết vì sao tôi đi, hay bất kỳ điều gì liên quan. Nhưng em có thể biết tôi sẽ đi xa, việc này nằm ngoài ý muốn của tôi. Vấn đề là làm sao để cho em biết, và nói với em thế nào đây?
Trong lúc ruột gan rối bời, chẳng biết làm sao cho phải, tôi ngủ thiếp đi, quên cả dậy vào giờ thường lệ. Không thấy tôi trong bữa sáng (một điều bất thường), mẹ rất lo. Nhưng ngài Stickles trấn an mẹ rằng bất kỳ ai nhận trát đòi của Đức vua cũng đều như thế, đấy là một dấu hiệu bình thường.
“Ngài Stickles, khi nào thì ta đi ạ?” Tôi hỏi khi ông đi tha thẩn trong sân, nhìn chăm chăm vào bọn gà tây bới đất, mổ thóc và chạy nhảy dưới ánh mặt trời theo tiếng kêu gợp gợp của cha chúng. “Ngựa của ngài rất kiệt sức nên khó lòng đi được hôm nay. Con Smiler thì hôm qua phải kéo xe trượt tuyết ngược lên tận Cleve nên cũng đuối. Số còn lại chẳng con nào có thể chở được tôi.”
“Vài năm nữa thôi…” Viên sứ giả đáp, ngắm nghía tôi với vẻ hài lòng. “Chú em sẽ là nỗi thống khổ cho bất kỳ con ngựa nào mang chú em trên lưng, John.”
Ngài Stickles lúc này khá thân mật với chúng tôi. Ông gọi tôi là “Jack”, Eliza là “Lizzie” và (tôi ít thích nhất) em Annie xinh đẹp của tôi là “Nancy”.
“Là ý Chúa, thưa ngài.” Tôi đáp, giọng khá gay gắt. “Con ngựa đó sẽ không phải là ngựa của ngài. Tôi muốn biết khi nào ta khởi hành đến London. Tôi nghĩ đây là một việc khẩn trương, cấp bách.”
“Chắc chắn rồi, chú em. Có một con gà tây một tuổi kia kìa, ta thấy nó bị què chân hay sao ấy, cứ lò cò. Mai mà rô ti lên thì ngon phải biết (nếu kiến thức ít ỏi của ta về gia cầm không sai). Bảo mẹ chú em chuẩn bị đi là vừa, tối nay hãy cho làm thịt con gà tây ấy đi (nó béo ú thế kia khiến ta thèm quá rồi đây), vào bữa trưa mai chúng ta sẽ dùng nó, với cả một trong những người anh em của nó nữa, cộng với vài lát thịt nai mỏng. Rồi vào sáng thứ Sáu, với hồng ân của Chúa, ta sẽ khởi hành, làm nhiệm vụ Đức vua giao.”
“Thưa ngài!” Giọng tôi run run vì mong mỏi được gặp Lorna. “Nếu nhiệm vụ của Đức vua có thể hoãn lại đến thứ Sáu, vậy có thể dời hẳn đến thứ Hai được không ạ? Nhà tôi có lứa lợn đang bú mẹ, giống lợn ngon cực, đến thứ Sáu này là được sáu tuần tuổi. Đàn lợn đông quá khiến con lợn nái không kham nổi nên có thể mang quay một con. Ngài không nghĩ thật tiếc khi để cánh phụ nữ lạng thịt nó hay sao?”
“Jack!” Ngài Stickles đáp. “Ta chưa từng lưu lại một nơi như thế này. Theo lời Chúa, ta sẽ là kẻ vô ơn nếu vội vã bỏ đi. Ta nghĩ thứ Sáu không phải là ngày các tín đồ ngoan đạo muốn bắt đầu công việc. Vào trưa mai, ta sẽ chọn ra một con lợn con lúc nó đang mải nô đùa, chúng ta sẽ mừng sinh nhật nó bằng việc đem nó ra mổ vào thứ Sáu. Sau khi chuẩn bị sẵn sàng đâu ra đó, chúng ta sẽ khởi hành vào sáng sớm thứ Bảy.”
Thế này thì nào có khá gì hơn cho tôi so với việc khởi hành ngay đâu. Chủ nhật mới là ngày hẹn - là ngày tôi có thể đường đường chính chính bước chân vào thung lũng Doone gặp Lorna. Nhưng dù tôi cố hết cách để dụ ngài Jeremy Stickles, để ông thoải mái chọn bất kỳ con vật nào ở nông trại cho bữa trưa, ông vẫn không dám hoãn lại chuyến đi quá ngày thứ Bảy. Ngoài tình cảm cùng sự hiếu khách của chúng tôi, không gì có thể giữ ông ở lại cho đến lúc đó. Cho nên muốn gặp Lorna, chỉ còn nước trước khi đi, tôi đứng ở chỗ cao nhất, may ra nhìn thấy em hoặc nhận được một tín hiệu từ em.
Tuy nhiên, dù có mỏi cả hai mắt đến mức thỉnh thoảng còn trông gà hóa cuốc, tôi vẫn không thấy bóng dáng em đâu. Dù tôi có nằm náu mình bên dưới những tán cây trên đỉnh thác nước lổn nhổn đá, im lìm đợi đến mức bọn thỏ, sóc chạy nhảy xung quanh không hay biết là có người, cả con chồn tinh mắt cũng tưởng tôi là một khúc gỗ - mà cũng có khi thế thật, không có tấm áo choàng nào phủ lên tảng đá trắng (màu trắng của nó giờ đây gây cho tôi cảm giác căm thù), cũng chẳng có vòng hoa hay xống váy một cô gái nào làm phá vỡ không gian vắng vẻ, quạnh hiu của thung lũng bên dưới.