C
huyến đi London lần này đối với chúng tôi mà nói cứ như một chuyến phiêu lưu nguy hiểm, chẳng biết đường nào mà lần. Ý tôi là người nghèo ấy vì quý tộc thì bao giờ cũng tiền hô hậu ủng, có biết bao nhiêu người cưỡi ngựa mở đường, kẻ hầu người hạ, tùy tùng này nọ, nên rủi ro không quá nhiều, trừ phi bọn cướp đường biết trước là họ sẽ đến mà đón lõng. Tuy nhiên, đối với một người nghèo, ngoài những hầm bẫy và vũng lầy trên đường, rủi ro đến từ những quý ông trên đường không nhiều bằng từ những kẻ cướp đường đi bộ ti tiện hơn, những ông chủ quán rượu rẻ tiền, và cánh lính khinh suất, phóng túng. Do đó, rất khó để một người sáng suốt quyết định nên cầu nguyện cho cổ hay đầu thì hơn.
Nay thì khác rồi. Chẳng phải dưới sự cai trị của Nữ hoàng Anne thì hiếm bọn cướp đường; kỳ thực, chúng vẫn sinh sôi nảy nở như xưa, lại ít chính trực, lịch sự hơn. Chẳng qua là đường sá được nâng cấp, ngày càng nhiều người dùng xe ngựa (mùa hè chỉ cần bỏ ra vài xu là có thể đi được bốn mươi dặm). Thực tế này gần như làm đảo lộn quan niệm của chúng tôi về khoảng cách, tôi không biết Chúa có hài lòng khi chúng tôi tiến xa đến mức này không. Ôi dào, đó chẳng phải việc của tôi, mà tôi cũng chẳng thể nói cho khúc chiết về nó.
Ta quay lại câu chuyện của tôi nhé! Có lẽ phải mất đến mười sứ giả của Đức vua mới lôi được tôi ra khỏi Plover's Barrows mà chẳng kịp chào Lorna lấy một tiếng, nếu tôi không dành cho ngài sự tín nhiệm. Cứ tưởng làm thế là sáng suốt, nhưng giờ nghĩ lại, việc đó nếu quyết tâm hoàn toàn nằm trong khả năng của mình, tôi rất lấy làm cay đắng…
Giờ mà có nghĩ cũng đã quá muộn, cuối cùng tôi quyết định giữ danh dự cho cả hai bên, cả Đức vua và em, dù tôi có thể mất mọi thứ ngoại trừ trái tim trĩu nặng. Thực tế là có nhiều trái tim trĩu nặng nữa vì đến lúc chia tay, mẹ tôi và em Annie cũng thế, cứ như tiễn tôi ra trận, một đi không trở lại. Tôi cố cười thật tươi, bảo họ vui lên, tuần sau tôi sẽ vinh quy bái tổ với tư cách là một trong những đại tá hải quân vĩ đại nhất của Đức vua, khi đó đừng có mà sợ tôi. Nghe thế, họ tủm tỉm cười với cái ý nghĩ là sẽ sợ tôi, bất kể trên người tôi là trang phục gì. Rồi tôi hôn tay mình lần nữa, hiên ngang phi vút đi. Cầu Chúa phù hộ cho trái tim tôi, chắc tôi không thể nào dứt khoát và mạnh mẽ đến thế nếu không có mặt Jeremy Stickles.
Tôi phải thú nhận rằng, khi chúng tôi đến chỗ rẽ nơi con truông bắt đầu, từ đó có thể nhìn thấy lần cuối sân nhà, những đống rơm, bầy gia cầm lục cục tha thẩn xung quanh, thấp thoáng cửa sổ nhà bếp dưới cây hồ đào, lòng tôi quặn thắt và tôi vờ như có một hòn đá mắc vào móng con Smiler lụ khụ để xuống ngựa, len lén ngoảnh đầu nhìn lại trong thoáng chốc. Rồi, biết rằng những gì tôi đã bỏ lại sau lưng cũng sẽ dõi theo tôi lần cuối, hy vọng rằng tôi sẽ quay về, tôi lại lấy hết can đảm, lên ngựa, phi theo sau Jeremy Stickles.
Thấy tôi mặt mày ủ ê, Jeremy bèn cố lên tinh thần cho tôi bằng việc thủ thỉ mớ chuyện tiếu lâm cho đến lúc (trước khi chúng tôi đi được chừng năm cây số) tôi bắt đầu nóng lòng được nhìn thấy những thứ trong miêu tả của ông. Không khí, thời tiết, những ý nghĩ về việc đi đến một nơi tuyệt vời, cộng thêm người đồng hành giỏi - ít nhất Jeremy tự cho mình như vậy - một người biết rõ London, khiến tôi cảm thấy mình thật khiếm nhã nếu không cười một chút. Và tôi cứ thế bật cười tự nhiên, thoải mái về những điều lạ lùng mà ngài Stickles kể cho tôi, cùng cách kể cũng lạ lùng không kém của ông. Thế là chúng tôi trở thành hai người bạn tâm đầu ý hợp, ông rất hài lòng về thái độ hợp tác của tôi.
Lúc này mà nói về trang phục thì xem ra không hợp lý lắm. Nhưng (không phải tôi muốn khoe mẽ gì đâu) với bộ quần áo sang trọng mặc trên người cùng những bộ còn đẹp hơn nữa đang nằm trong cái túi đằng sau yên ngựa, tôi phải nói rằng mình thật bảnh và thầm ước Lorna ở đâu đó quanh đây, dõi theo tôi đằng sau một bụi cây kim tước, thắc mắc không biết quần áo tôi đang mặc giá bao nhiêu. Mẹ tôi không bao giờ hà tiện trong những trường hợp cần thiết. Ngay khi biết tôi sẽ đi London, bà đã tập hợp về nhà tất thảy những thợ may có tiếng trong vùng. Trong ba ngày làm việc cật lực, uống thoải mái bia hoặc rượu táo tùy theo thể trạng từng người, họ đã hoàn thành những bộ quần áo mà theo họ ở London chưa chắc tìm được. Tôi thấy có vẻ chúng rất hợp với mình, dù Jeremy Stickles tỏ thái độ khinh khỉnh, vờ như chẳng hay biết gì.
Tôi tin chắc một điều là diện những bộ cánh bảnh bao như vậy, vẻ ngoài của tôi được cải thiện đáng kể so với trước đây. Nhìn chung, người ta thường cố hành xử sao cho tương xứng với trang phục khoác lên người. Không chỉ sợ làm bẩn nó, mà còn nhận thức sâu sắc hơn về giá trị bản thân. Tôi bất giác nhận ra rằng những tội lỗi của chúng ta nảy sinh một phần là do bị người khác xem thường, nhưng cái chính là vì chúng ta tự hạ thấp mình, cả hai đều trái ý Chúa. Nhưng những người có đầu óc thường không bị chi phối bởi nguyên tắc tầm thường đó.
Chúng tôi đến Porlock trước bữa trưa, ăn tại nhà một người bạn của tôi, Pooke, giàu có và đẫy đà. Thực ra chúng tôi mang theo nhiều thức ăn nhưng chưa đến lúc dùng tới, cho đến chừng nào hết cơ hội ăn nhờ bạn bè. Thế là nguyên ngày đầu tiên, chúng tôi không đụng đến thức ăn dự trữ lần nào. Như đã thu xếp trước khi xuất phát, chúng tôi nghỉ đêm đầu tiên ở Dunster, tại nhà một thợ thuộc da đáng kính, anh họ của mẹ tôi. Bác tiếp đón chúng tôi rất thân tình, còn đảm nhận việc đưa con Smiler già về chuồng của nó ở Plover’s Barrows sau một ngày nghỉ ngơi.
Từ đó, chúng tôi thuê ngựa đến Bridgwater. Nghỉ ngơi. Rồi tiếp tục đi từ Bridgwater đến Bristowe. Dù chuyến hành trình quá mới mẻ đối với tôi, để lại trong tôi một ấn tượng sâu sắc đến mức như thể nó mới xảy ra ngày hôm qua, tôi không thể kể lể dông dài kẻo lại sa đà - bởi không có mặt Lorna, cũng bởi một người dân trong vùng đã làm chuyện này từ lâu - và vờ như chẳng nghĩ gì về nó. Tuy nhiên, để lấy lại công bằng cho một người bị vu khống, tôi buộc phải nhắc đến một chuyện. Đó là thế này. Chúng tôi chắc chắn không thể có được một chuyến đi suôn sẻ - vì dứt khoát sẽ gặp bất trắc trên đường, đẩy chúng tôi vào tình thế chiến đấu hoặc bỏ chạy - nếu không nhờ tấm giấy thông hành mà em Annie, bằng cách nào đó tôi không rõ, có được từ cậu Faggus. Khi tôi hé lộ, một cách tình cờ, rằng tôi có họ hàng với Tom Faggus, tất thảy mọi ngôi nhà trên đường đều hãnh diện được tiếp đãi tôi, dù người bạn đường của tôi đeo băng đỏ của Đức vua.
“Ta bỏ phắt cái này đi cho rồi.” Ông lấy dao cắt phăng dải băng đỏ, bảo. “Tấm giấy thông hành của chú em xem ra quá lợi hại. Kẻ làm ta chết đói trên đường đi lại chính là kẻ cho ta ăn no đẫy trên đường về.”
Thế là chuyến đi của chúng tôi thuận lợi ngoài mong đợi nhờ tiếng thơm của tên cướp đường nổi danh như cồn, ai ai cũng bày tỏ niềm tiếc nuối về việc Faggus đã rửa tay gác kiếm. Thậm chí có người còn nhờ tôi nói giùm cậu quay lại công việc cũ. Với tư cách là một vị quan của Tòa án tối cao, ngài Stickles bèn cam kết sẽ trình bày việc này với ngài Faggus (cách mọi người gọi cậu lúc bấy giờ) và thuyết phục cậu, vì lợi ích số đông, quay lại vị trí vốn dành cho mình.
Ấy là một chuyến đi dài và hao sức, dù đường sá phía bên này của Bristowe rất tốt, người đi đường hiếm khi bị sa lầy nếu anh ta chịu khó để ý, trừ ở Berkshire. Trên đường đi, chúng tôi chỉ gặp hai kỵ sĩ, một trong hai cứ thế đi thẳng khi trông thấy Stickles trang bị súng ống khắp người, còn tôi thì khoác một khẩu các bin to đùng, còn người kia tiến tới hòa đàm với chúng tôi, tỏ ra tử tế, niềm nở khi biết mình đang tiếp chuyện với người bà con của ngài Faggus. “Cầu Chúa phù hộ cho hai người.” Anh nhấc mũ lịch sự. “Tôi đã cùng ngài ấy làm ăn trên con đường này một thời gian dài, chúng tôi rất ăn ý với nhau. Tất cả giờ chỉ còn là dĩ vãng. Cho tôi gửi lời thăm hỏi và chúc phúc đến ngài ấy nhé! Tôi là King. Cứ nói tên tôi ra, sẽ không ai dám động đến hai người.” Dứt lời, anh ta biến mất xuống đồi. Quả là một người tốt, con ngựa của anh ta cũng thuộc loại tuấn mã.
Chúng tôi đến Tyburn lúc trời đã tối mịt. Stickles quyết định chúng tôi nên ngủ lại vì ban đêm mà đi qua những cánh đồng đến làng Charing thì không được an toàn mấy. Tôi sẵn lòng thôi, và thích ngắm nhìn London vào ban ngày hơn.
Hóa ra nó chẳng xứng đáng để ngắm nghía gì cả - chỉ là một chốn bẩn thỉu, gớm ghiếc, chẳng có chút gì giống Exmoor. Có vài cửa hiệu rất lòe loẹt, những tấm biển bên trên còn lòe loẹt hơn. Tôi đứng đực ra nhìn không chớp mắt vì quá tò mò. Nhưng đâu có dễ đến vậy. Trước khi tôi kịp hiểu được nghĩa của chúng thì một khách đi đường sẽ xô lấn, càu nhàu rồi rút kiếm ra, chủ cửa hiệu hoặc mấy đứa con trai học việc sẽ xông ra túm lấy tôi, kêu toáng lên: “Mua đê, mua đê, mua đê! Thiếu gì mua nấy.” Thoạt đầu, vì hiểu lầm do cách phát âm của họ khác dân Exmoor, tôi bực dọc đáp: “Này mấy người, tôi không còn là thằng nhóc1 nữa nhé, tôi hai mươi mốt tuổi rồi đấy. Tôi chả thiếu gì cả, ngoại trừ thứ mấy người thiếu - ăn nói lịch sự.”
1. Từ “mua” trong tiếng Anh là “buy”, và từ “nhóc” trong tiếng Anh là “boy”.
Tôi chỉ thấy hài lòng ở vài nơi, đó là sông Thames, điện và nhà thờ Westminster, ở đó có nhiều thứ lộng lẫy để xem. Sau này, mỗi khi nhớ về chúng, tôi vẫn còn thấy thích. Thế nhưng mỗi khi lang thang trên những con phố, người qua kẻ lại huyên náo, ngựa xe tấp nập, lính bộ binh chạy rầm rập, các quan cận thần dáng điệu nghênh ngang và cả những chen lấn, xô đẩy của khách bộ hành, tôi lại mong được quay về với lũ cừu, vì sợ sẽ nổi nóng làm chuyện không hay. Họ nhường lối đi sát bờ tường trên hè đường cho tôi, khi tôi lên tiếng nhắc họ. Tôi đâu cần dựa tường, còn họ thì biết đâu đấy. Tôi không có ý gì khi thốt ra điều này, nhưng vài người tức khí lên và một quý ông trẻ, mặt đỏ gay vì rượu, rút kiếm ra chĩa vào tôi. Thế là sẵn có cây gậy nhựa ruồi, tôi gạt nó bay vèo lên một nóc nhà, một tay túm lấy thắt lưng y, quẳng tùm xuống cống. Chuyện này gây ra chút náo loạn, nhưng ai cũng lờ đi vì nhắm không địch nổi tôi.
Bấy giờ là năm 1683, gần mười năm kể từ khi cha tôi qua đời. Cả London đang nằm trong tình trạng xáo động do bất đồng giữa triều đình và thành phố. Đức vua, hay đúng hơn là đảng phái của ngài (vì nghe bảo Đức vua chẳng quan tâm đến thứ gì ngoài việc có thật nhiều tiền để tiêu xài ăn chơi), khá kiên quyết giữ quyền tối cao trong việc bổ nhiệm các chức sắc cấp cao của hội đồng thành phố. Còn người dân kiên quyết giữ vững quan điểm (dựa theo hiến chương của họ) rằng quyền này hoàn toàn thuộc về họ. Theo đó, một lệnh trát được đưa ra với mục đích tước quyền hiến chương của họ, vấn đề bây giờ đang được xét xử tại tòa án tối cao.
Sự việc này hình như chiếm hết sự chú ý của các quan tòa hay sao ấy nên vụ của tôi mới lúc trước còn làm như dầu sôi lửa bỏng, thế mà giờ bị hoãn lại hết lần này đến lần khác, trong khi triều đình và thành phố đấu đá với nhau. Xung đột giữa hai bên dâng cao đến độ một hạt trưởng đã bị Đức vua phạt một trăm ngàn bảng, thậm chí một nguyên thị trưởng còn bị kết án đóng gông vì ông không chịu thừa nhận mình sai. Thế là quan cận thần và dân chúng cứ hễ đụng nhau trên đường là xông vào nhau, đấu võ mồm hoặc thượng cẳng tay, hạ cẳng chân.
Lúc bấy giờ, dù tôi nghe việc này đến nhàm cả tai (vì ngoài việc ấy ra, người ta chả nói thứ gì khác cả), và đối với tôi mà nói, nó thậm chí còn quan trọng hơn cả việc trông nom nhà thờ xứ Oare, suốt đời mình tôi không thể quyết định nên theo bên nào. Tôi ý thức được vị trí của mình, lòng tin mọi người dành cho tôi cùng những quan điểm học được từ cha nằm ở đầu cân bên này, trong khi ở đầu cân bên kia là tất cả những lý lẽ cùng trái tim tôi, vốn chống lại sự bất công. Ngay cả cha tôi cũng từng như thế, lúc nội chiến nổ ra. Khi ấy ông còn ít tuổi hơn tôi bây giờ, hiểu biết về chính trị cũng ít hơn. Sau này, khi chứng kiến tôi đắm chìm trong hoài nghi thời cuộc, tức tối bản thân vì không thoát ra được, mẹ tôi kể rằng cha tôi thường tạ ơn Chúa vì ông dù năm lần bảy lượt bị kêu gọi đứng về phe này hay phe kia, nhưng vẫn có thể giữ “tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến”. Tuy nhiên, ông luôn xem mình là một người ủng hộ chế độ quân chủ đúng đắn, có đức hạnh.
Lúc bấy giờ, ở London, tôi chỉ ước ao mỗi một điều là vụ việc của mình nhanh chóng được đưa ra xem xét để tôi hết phải đoán già đoán non không biết họ muốn gì ở mình, rồi khăn gói về nhà ngay. Nhưng ngay cả Jeremy Stickles cũng không biết, hoặc vờ như không biết. Giữa Đức vua và tất cả những người dân dám lên tiếng xảy ra nhiều việc khủng khiếp, tệ hại. Khoảng giữa tháng Sáu, tòa tuyên án rằng thành phố London đã đánh mất hiến chương của mình, việc bầu cử của thành phố sẽ do Đức vua nắm toàn quyền. Phán quyết này đương nhiên không hợp lòng dân, mọi người càng nhốn nháo hơn khi xảy ra một chuyện còn tồi tệ hơn nhiều. Tin tức về một âm mưu lớn lan truyền khắp nơi. Ai nấy đều sửng sốt trước sự việc này, Đức vua không bị căm ghét bằng ban cố vấn của ngài, nhưng dân chúng căm phẫn, đau lòng khi nghe tin ngài William Russell cùng ông Algernon Sidney đã bị bắt và giải đến Tháp London, bị khép vào tội mưu phản.
Do không biết gì về hai con người vĩ đại đó, và sự vụ này thực hư ra sao, tôi chọn cách giữ im lặng. Nhưng không ai chia sẻ cùng tôi sự im lặng này (dù sự ngu dốt thì hẳn là có) trong khi có hàng trăm người xung quanh. Bị chấn động mạnh, ý thức về việc làm sai trái, cộng với quyết tâm chấn chỉnh khiến người ta nắm tay kéo nhau vào cửa hàng rượu vang. Ngay cả tôi, mặc dù lúc đó không giỏi kiềm chế và sợ tên của các loại rượu mạnh, cũng quyết tâm uống cho thật say.
Tuy nhiên, chuyện đó (như vú Betty Muxworthy thường nói, khi bị đuối lý và viện đến cái giẻ lau sàn) không quan trọng. Tôi chẳng việc gì phải dây vào những sự kiện lịch sử trọng đại, thương thay cho những ai phải viết nó ra bởi chắc chắn một điều là họ có cả bạn và thù trong đó, không tránh khỏi lương tâm cắn rứt.
Vì những sự kiện lớn thường kéo theo những sự kiện nhỏ, tiếng lách cách của thùng đánh kem quyết định tính thiếu kiên định của bầy ruồi, nên phong trào này của thành phố, sự hùng hồn và sự giận dữ nằm ngoài dự đoán, gây ảnh hưởng đến vận mệnh của tôi. Việc ngài Russell không được xét xử ở Westminster hoặc Lincoln's Inn, mà tại tòa án Old Bailey nằm ở ngoại vi thành phố đã được ấn định từ trước, khiến tôi đợi lâu hơn bởi vì dù nhà quý tộc có tiếng tốt đó được xét xử bởi tòa án dân sự, nhưng các quan bên tòa án tối cao (chính là nơi ngày nào tôi cũng đến) bàn bạc với cộng sự, trì hoãn vụ của tôi hết ngày này sang ngày khác.
Thực ra tôi đã nghe nói đến sự chậm trễ của luật pháp, điều này nhà thơ vĩ đại nhất trong các nhà thơ vĩ đại (hiểu biết về luật, cũng như mọi thứ) đã đặc biệt nhắc đến. Nhưng tôi chưa từng hình dung mình lại có lúc trở thành nạn nhân của nó. Theo thiển nghĩ của tôi, nếu các luật sư không làm tròn trọng trách của mình, họ phải trả công chờ đợi cho người ta, thay vì bắt người ta phải trả phí cho họ. Tôi đóng đô ở London tính ra đã hơn một tháng ròng, sống bằng tiền riêng của mình, trọ tại nhà của một người buôn bán da lông thú đáng tôn kính với biển hiệu Hải cẩu và Sóc, trên đường Strand nối liền Temple Bar và Charing. Ở đây tôi thực sự an nhàn, thoải mái, vì có đệm da tốt để nằm, thức ăn thì dư dật, nhưng bơ không được đậm đà còn sữa thì lạt nhách. Tuy nhiên, chuyện thức ăn không đúng ý chả là gì so với tờ hóa đơn được gửi tới mỗi chiều thứ Bảy. Khi biết mẹ đã lâm vào cảnh túng quẫn như thế nào để cho tôi một cuộc sống vương giả ở London, song vẫn bảo tôi là đừng có tằn tiện làm gì, hãy sống cho bằng người ta, nước mắt tôi chực trào, tôi trộm nghĩ, mình ở đây chăn ấm nệm êm, ăn no mặc đẹp đồng nghĩa với việc cướp tiền của mẹ.
Sau cùng, khi sắp cạn tiền, chẳng biết tìm đâu ra thêm, tôi quyết định không lắng nghe các thư ký tòa án nữa, đi thẳng đến chỗ các thẩm phán, cương quyết đòi họ lắng nghe, hoặc hủy bỏ cái cam kết kia cho tôi. Vì họ đã đưa ra cam kết tôi buộc phải thừa hành, với sự có mặt của một trưởng thư ký tòa án hoặc công chứng viên, ngay ngày hôm sau tôi đến London. Với ngụ ý là tôi sẽ bị phạt nặng nếu không trình diện cung cấp chứng cứ khi được triệu tập bất kỳ lúc nào. Sau khi đưa tôi đến để ký, Jeremy Stickles bỏ tôi bơ vơ, đi lo công việc khác của mình, tuy vậy ông vẫn đối xử tốt và tử tế với tôi khi thời gian cho phép.