S
au khi chứng kiến ngài Russell bị xử tử ngoài đồng ở Lincoln’s Inn, hoặc đúng hơn là đi xem nhưng lại quay mặt đi với cảm giác buồn nôn, nước mắt giàn giụa vì không muốn nhìn thấy đầu một người da trắng cao quý rơi xuống trước những kẻ bạo ngược đê hèn, tôi sải chân bước về phía Westminster với sự căm phẫn giảm đi phân nửa nhờ vào cái chết của Vua Charles đệ nhất. Nhiều người hối hả vượt qua tôi, hầu hết là yếu bóng vía, kinh tởm trước cảnh giết chóc. Nhìn gương mặt nhợt nhạt như xác chết của họ, khi họ ngoái đầu nhìn lại vì nơm nớp sợ cảnh tượng đó sẽ bám theo họ, ta thấy vẻ sầu não khôn cùng, sự kinh hãi, niềm xót xa và cả giận dữ.
Tại Westminster Hall, tôi chẳng thấy người nào, ngay cả đám hầu hiệp sĩ quỵ lụy luồn cúi sống trong sự thèm thuồng triền miên, mong có được việc làm hay lương bổng. Tôi gõ ba cánh cửa lớn, lần lượt từng cái một, vì để ý thấy mới lúc trước, vài quan tòa và dân thường chen nhau ra vào, nhưng chẳng nhận lại gì ngoài mấy tiếng vang từ cú gõ của mình. Rốt cuộc, một người đàn ông luống tuổi bảo tôi rằng cánh luật sư kéo nhau đi xem kết quả công việc của mình ngoài những cánh đồng ở Lincoln’s Inn rồi.
Tuy nhiên, vài ngày sau, tôi gặp may mắn vì tòa án họp và làm việc khẩn trương để xử lý những công việc còn dang dở, trước ngày nghỉ lễ của giới luật sư. Khi tôi đang đợi ngoài sảnh chờ gọi, một người đàn ông đầu vương lông ngựa, tay trái cầm một cái túi dài màu xanh, khẽ chạm vào tay tôi, dẫn tôi vào một chỗ vắng. Tôi hớn hở đi theo, tin rằng ông ta gặp tôi để truyền tin từ các đại pháp quan. Nhưng sau khi cố đảm bảo rằng không ai có thể nghe lỏm được chúng tôi, ông ta thình lình quay sang tôi, hỏi:
“Này, John, mẹ cậu sao rồi?”
“Thưa quý ông tôn kính!” Tôi đáp, sau một lúc ngỡ ngàng vì không hiểu sao ông ta lại biết về chuyện nhà tôi, còn tỏ vẻ quan tâm nữa. “Hai tháng rồi tôi chưa gặp mẹ. Giá như Chúa cho tôi biết bà sống ra sao, và công việc ở nông trại tiến triển thế nào!”
“Chàng trai, ta vô cùng tôn trọng và ngưỡng mộ cậu.” Người đàn ông lớn tuổi đáp, cúi đầu thật thấp, đầy kiểu cách. “Rất ít công tử thời đại này đáng tôn kính và biết làm tròn bổn phận của mình như vậy. Ôi chao, ta đã yêu mẹ mình biết chừng nào!” Rồi ông ta ngước mặt lên trời, khiến tôi cảm thấy vừa cảm thương cho ông ta vừa kinh ngạc.
“Tôi rất tiếc khi nghe điều đó, thưa ông.” Tôi lễ phép đáp, không có ý lợi dụng nỗi đau buồn của ông ta, thắc mắc không biết mẹ ông ta bao nhiêu tuổi rồi; vì trông ông ta ít nhất cũng phải sáu mươi. “Nhưng tôi chẳng phải công tử gì đâu, thưa ông. Tôi chỉ là con trai một nông dân, biết chút ít về việc đồng áng.”
“Đủ rồi, John!” Ông ta kêu lên. “Ta có thể nhận ra điều đó qua nét mặt cậu, nơi hiển hiện tính trung thực, lòng quả cảm và sự giản dị. Nhưng ta e rằng, ở London, cậu có khuynh hướng bị tác động bởi những người vô nguyên tắc. Ôi chao! Thế giới này thật quá tệ, mà ta lại quá già để giúp nó tốt đẹp hơn.”
Thấy ông ta quá tốt và tử tế, khao khát muốn cải tạo thời đại, tôi kể ông ta nghe gần như tất tần tật mọi chuyện. Nào là tôi đã trả cho người bán da lông thú bao nhiêu, rồi thì tất cả những sự việc bất đắc dĩ tôi chứng kiến, và tôi mong được hồi hương như thế nào, trước vụ thu hoạch. Ấy thế mà tôi liên tục phải đi tới đi lui, vì chịu một cái thứ gọi là “cam kết”. Tóm lại, tôi kể ông ta nghe không sót thứ gì ngoài bản chất của việc được triệu tập của mình (điều mà tôi không có quyền nói ra), và tình trạng sắp rỗng túi.
Câu chuyện của tôi được kể trong một lối đi có mái vòm nhỏ, tránh xa những luật sư khác. Tôi thấy những luật sư khác hình như bồn chồn, bứt rứt sao đó, họ liên tục liếc nhìn, hệt bầy cừu đi qua rào chắn trong khi số còn lại đang ăn.
“Cái gì? Chúa ơi!” Vị luật sư của tôi kêu lên, đập ngực thùm thụp đầy căm phẫn bằng cuộn giấy gì đó. “Chúng ta đang sống trong thứ đất nước gì thế này? Chúng ta đang bị cai trị dưới kiểu luật pháp gì vậy? Một chàng trai bị kéo ra khỏi quê nhà và vòng tay người mẹ yêu thương trong lúc vụ mùa đang vào kỳ cao điểm, sống bằng tiền túi của mình! Ta đã nghe nhiều mối bất bình, nhưng đến thế này thì chưa từng. Không chỉ bất hợp pháp, mà còn đi ngược với hiến pháp một cách nghiêm trọng.”
“Nếu biết trước ông xúc động đến như vậy thì tôi đã không nói rồi, thưa quý ông đáng kính.” Tôi đáp, giọng thấp hơn. “Giờ thì chắc có lẽ tôi xin nhờ cả vào ông, thưa ông, may cho tôi quá, vì cánh cửa số phận vẫn chưa khép lại với tôi. Tôi xin ông, thưa quý ông tôn kính, nhận…”
Nghe đến đây, ông ta giơ một bàn tay ra ngăn lại. “Không, không, con trai!” Rồi lại nhìn lảng đi.
“Xin ông hãy nhận lời cảm ơn chân thành nhất và lời chúc tốt đẹp nhất từ tôi.” Dứt lời, tôi nắm tay ông ta. “Nếu ông có dịp đến quê tôi vì công chuyện hoặc đi chơi, xin đừng quên rằng mẹ tôi và tôi (nếu tôi lại được về nhà) luôn chào đón ông.”
Nói xong, tôi quay đi thật nhanh, nhưng ông ta túm tay tôi lại, nhìn tôi từ đầu đến chân, cất giọng lạnh lùng.
“Này chàng trai, một lời mời khơi khơi không thể ghi vào sổ phí được đâu. Ta đã mất rất nhiều thời gian để xem xét và bàn bạc vụ của cậu. Là thành viên của Hội luật gia Inner Temple ba mươi sáu năm nay, tiền thù lao của ta chỉ có mình ta biết. Vì sự cao quý của cái nghề này, và chức vụ của ta ở đó, ta phải tính cậu ít nhất là năm guinea1, dù nếu ngay từ đầu cậu biết ý thì ta hẳn chỉ nhận một guinea thôi.
1. Đồng tiền vàng 21 si linh của Anh thời kỳ 1663-1813.
Giờ ta sẽ thu hai guinea và nửa cua ron1 lệ phí cho thư ký của ta.”
1. 1 Crown bằng 5 si linh.
Nói xong, ông ta rút từ cái túi dài màu xanh ra một cuốn sổ đỏ có móc khóa, đằng sau viết mấy chữ màu vàng “Sổ thu phí”. Trước khi tôi kịp nói gì (vì quá sợ), ông ta đã ghi vào một trang: “Tư vấn vụ John Ridd, hai guinea”.
“Nhưng… thưa… ông!” Tôi lắp bắp, vì chẳng còn đồng guinea nào, nhưng không dám thú nhận. “Tôi không biết mình phải trả tiền, thưa ông. Tôi không bao giờ ngờ được sự thể lại như thế này.”
“Bố khỉ! Chứ cậu tưởng không dưng người ta bỏ công ra nghe cậu kể lể dài dòng rát cả tai ra à?”
“Tôi tưởng ông lắng nghe vì lòng tốt, thưa ông, và vì lòng trắc ẩn dành cho vụ việc đầy đau khổ của tôi, cả sự cảm mến dành cho tôi nữa.”
“Làm gì có luật sư nào như cậu nói, đồ keo kiệt kia! Làm gì có luật sư nào tỏ lòng trắc ẩn miễn phí! Hoặc cậu là một tên xỏ lá đáng gờm, hoặc là đồ khờ nhất quả đất. Thôi được, ta cho cậu nợ tiền công của ta và phí thư ký. Thật quá tệ! Không thể chấp nhận được!”
Giả sử người đàn ông đó cứ tiếp tục tốt bụng và nhẹ nhàng với tôi khi nghe xong chuyện, tôi hẳn đã mang hết quần áo đi cầm để có tiền trả cho ông ta hơn là chịu nợ, dù không cố ý. Nhưng khi ông ta bỗng nhiên ăn nói cộc cằn, thô lỗ và nhận thấy mình không đáng bị như thế, tôi bắt đầu nghi ngờ liệu ông ta có xứng đáng với số tiền của tôi không. Vì vậy tôi mau miệng đáp lại (thỉnh thoảng thôi) trong khi bình thường thì chậm chạp vô cùng.
“Thưa ông, tôi chẳng phải kẻ keo kiệt gì đâu. Nếu một thanh niên gọi tôi như vậy, hẳn là tôi đã ăn thua đủ với anh ta rồi. Tiền này sẽ được trả, khi đến kỳ, dù rằng tôi không hề muốn mắc nợ. Ông đã khuyên tôi rằng Triều đình có trách nhiệm về pháp lý đối với mọi phí tổn của tôi, miễn là chúng hợp lý. Nếu chi phí hợp lý, hãy đi cùng tôi đến chỗ ngài thẩm phán Jeffreys, nhận từ ngài ấy hai guinea, hoặc (có thể là) năm.” Dứt lời, tôi nắm cánh tay ông ta lôi đi, vì cửa vẫn còn mở.
“Nhân danh Chúa, buông ta ra nào. Làm ơn buông ra đi. Vợ ta đang ốm, con gái ta đang hấp hối… Nhân danh Chúa, buông ta ra.”
“Không, không!” Được thể, tôi càng làm hăng. “Tôi không thể buông ông ra khi chưa trả tiền cho ông, thưa ông. Quyền lợi là quyền lợi. Ông nhất định sẽ có món tiền đó.”
“Cậu à, nếu cậu kéo ta đến gặp con người độc ác đó thì ta tới số rồi. Ông ta sẽ đuổi ta ra khỏi tòa án ngay lập tức, đẩy ta cùng cả gia đình ta lâm vào cảnh chết đói. Cậu à, lấy giùm hai guinea này đi. Đúng là kẻ cắp gặp bà già. Ta đã nhìn lầm người.”
Ông ta thả hai đồng guinea vào bàn tay tôi đang luồn qua khuỷu tay ông ta, nói khẽ nhưng gấp gáp, vì mọi người đang xúm lại quanh chúng tôi. “Vì Chúa, hãy thả ta ra, kẻo to chuyện.”
“Biết rồi, thưa ông.” Tôi đáp. “Ông đã nói hai lần, nếu tôi nghe không nhầm, về phí thư ký.”
“Rồi rồi. Cả phí thư ký. Ta có thư ký thì cậu cũng có vậy. Đây này. Giờ ta xin cậu, hãy trốn vào phòng luật đi. Xin xỏ cho lắm không bằng nắm trong tay. Cậu còn giỏi hơn thế.”
Vì được tâng bốc, cả nhờ vào hai đồng guinea và đồng nửa cua ron, tôi buông cánh tay luật sư Kitch ra, thế là ông ta vội lỉnh mất tăm trong chớp mắt, cùng với bộ tóc giả, cái tay nải xanh và gia cảnh khốn đốn của ông ta. Trước khi tôi kịp quyết định mình nên làm gì với số tiền ông ta đưa (đương nhiên tôi không có ý định giữ nó), mõ tòa (như họ tự giới thiệu) xuất hiện, muốn biết tôi là ai. Tôi trình bày ngắn gọn nhất có thể rằng vụ việc của tôi thuộc bên tòa án tối cao, thuộc loại tuyệt mật. Nghe thế, anh ta vội đưa tôi vào bên trong, chỉ cho tôi đến chỗ một thư ký cấp dưới, người này chỉ tôi đến một thư ký cấp cao hơn, người thư ký cấp cao này lại chỉ tôi đến người đứng đầu.
Khi người này biết về vụ việc của tôi (sau khi nghe tôi kể mà không một lời ca thán), ông ta cau mày nhìn tôi, như thể tôi vừa gây cho ông ta một vết thương.
“John Ridd?” Ông ta hỏi kèm theo một cái liếc mắt lạnh lùng. “Có phải cậu cố tình muốn đưa vụ việc của mình lên đến tận ngài thẩm phán tòa án tối cao không?”
“Chắc chắn rồi, thưa ông, đó là ước muốn của tôi suốt hơn hai tháng qua.”
“Vậy thì John, cậu sẽ được toại ý. Nhưng lưu ý một điều, cậu không được nói ra lời nào về việc chậm trễ vừa rồi, nếu không cậu có thể chuốc lấy rắc rối.”
“Như thế nào, thưa ngài? Vì bị bắt buộc phải chờ đợi sao?” Tôi hỏi, nhưng ông ta quay mặt đi như thể vấn đề này không đáng để ông ta bàn cãi (kỳ thực là, tôi cũng nghĩ vậy), và đưa tôi đi dọc theo hành lang đến một cánh cửa có rèm buông.
“Này, nếu ngài thẩm phán chất vấn cậu…” Ông ta thì thầm với tôi. “Hãy trả lời ngài sự thật, vì nếu cậu nói dối thế nào, ngài cũng sẽ phát hiện ra. Nên nhớ là, ngài không thích bị cãi lại, cũng không chịu được vẻ rụt rè, dè dặt. Đừng để ý đến hai người còn lại, hãy ghi nhớ tất cả những gì người ở giữa nói, đừng bao giờ để ngài phải nói hai lần.”
Tôi cảm ơn ông ta vì đã dặn dò khi ông ta vén rèm và đẩy tôi vào, nhưng thay vì giữ rèm cho tôi vào trong đã, ông ta buông xuống ngay, để mặc tôi chịu sức nặng của nó.
Căn phòng không rộng lắm, dù với tôi thế này là quá thênh thang rồi, và tối om với tường ván ô. Ở cuối đầu bên kia là vài chiếc ghế hệt những cái tôi thấy ở nhà thờ, được lót nhung, tay ghế rộng, cùng một màn trướng rủ xuống bên trên ghế chính giữa. Chỉ có ba người ngồi ở đây, một người ở chính giữa, hai người kia mỗi người một bên, cả ba đều khoác lên người ngồn ngộn đồ lông thú, áo choàng dài và những bộ tóc giả làm từ lông ngựa màu xám dày tết thành bím dài đến vai. Mỗi người có một chiếc bàn bằng gỗ sồi trước mặt, bên trên đầy bút và giấy tờ. Tuy thế, thay vì viết lách, hình như họ đang cười đùa rôm rả, hay đúng hơn là người ngồi giữa có lẽ đang kể một câu chuyện tiếu lâm nào đấy, hai người kia đón nhận nhiệt liệt. Ai nấy đều có bộ tóc giả to sụ trên đầu nên khó đoán tuổi, nhưng người đang nói trông trẻ nhất, dù là người đứng đầu. Đó là một người tướng tá kềnh càng, lực lưỡng, chắc nịch. Ông ta có khuôn mặt to đầy đốm đỏ, quai hàm bạnh, đôi mắt dữ tợn, sắc lạnh. Đó là kiểu người khiến cho những kẻ yếu bóng vía phải kinh sợ, còn những người cao quý thì căm ghét.
Ngoài ra, có một vài luật sư đang thu dọn túi, giấy bút và các thứ linh tinh từ một chiếc bàn hẹp ở chính giữa phòng, như thể họ vừa xử lý xong một vụ việc. Nhưng trước khi tôi kịp nhìn quanh lần nữa, người đàn ông dữ tợn nọ đã trông thấy tôi, quắc mắt hét lên.
“Này, cậu kia, cậu là ai?”
“Thưa ngài!” Tôi nói lớn. “Tôi là John Ridd, thuộc xứ đạo Oare, quận Somerset, được đưa đến London chừng hai tháng trước bởi một vị sứ giả đặc biệt, tên là Jeremy Stickles. Tôi bị buộc phải trình diện bất kỳ lúc nào khi được triệu tập để cung cấp chứng cứ về một vấn đề nằm ngoài hiểu biết của tôi, nhưng ảnh hưởng đến sự an nguy của Đức vua cùng sự bình yên của thần dân trong vương quốc. Tôi đã gặp Đức vua ba lần, nhưng ngài không nói gì về sự an nguy của mình. Hằng ngày, trừ Chủ nhật, tôi đến Westminster Hall rồi lại ra về, chờ được triệu tập, nhưng chẳng có ai triệu tập tôi cả. Giờ tôi xin được hỏi ngài, liệu tôi có thể về nhà được không?”
“Được rồi, John.” Ông ta đáp, trong khi tôi thở hổn hển vì vừa nói một hơi thật dài. “Ta sẽ đứng ra bảo lãnh cho cậu. John này, cậu chưa từng nói một mạch như thế bao giờ à? Cậu thật kiên trì, chứ người khác chắc không đợi được lâu đến vậy. Ta có nhớ, và sẽ đích thân giải quyết, dù vụ của cậu có trước lúc ta đảm nhận vị trí này.” (Hóa ra ông ta là thẩm phán mới.) “Nhưng ta chưa thể thực hiện nó ngay bây giờ được, John. Để cậu chờ đã đành một lẽ. Ta còn thấy xót cho ngân khố của Đức vua, sau khi giữ chân cậu ở đây ngót nghét hai tháng ròng.”
“Không, thưa ngài, xin ngài thứ lỗi. Mẹ tôi trang trải mọi chi phí cho tôi. Tôi không nhận được một xu nào cả.”
“Spank, phải vậy không?” Ông ta la lên, lớn đến mức làm rung rinh mấy cái mạng nhện, cái nhíu mày của ông ta khiến người đối diện phải thót tim. (Tôi cũng không ngoại lệ.) “Spank, Đức vua có biết là ngài đã để cho người ủng hộ mình phải chết đói không?”
“Thưa ngài!” Spank, trưởng bộ phận thu thập chứng cứ, thì thào. “Vụ này bị bỏ sót vì gần đây chúng ta phải giải quyết những vụ phản quốc nghiêm trọng.”
“Ta sẽ bỏ sót đầu của anh trên một cái cọc ở Temple Bar, nếu ta còn nghe chuyện tương tự như thế này lần nữa. Đồ lếu láo, anh được trả lương để làm gì? Anh đã lừa tiền, Spank bịp bợm. Ta đi guốc trong bụng anh, dù chỉ mới biết anh. Gặp ta là anh tới số rồi. Đừng có trả treo với ta. Anh mà hó hé thêm một lời nào nữa là ta cho anh lên phên hành tội1 ngay lập tức.” Ông ta ngúc ngoắc người qua lại trên ghế, đặt cả hai tay lên đầu gối; ai nấy đều nín thở đợi khoảnh khắc đáng sợ đó trôi qua, vì thừa biết khôn hồn thì chớ mở mồm.
1. Tấm phên để buộc người hành tội cho ngựa kéo đi.
“John Ridd.” Ngài thẩm phán nói, cuối cùng cũng lấy lại được vẻ nghiêm nghị, tuy nhiên vẫn nhìn trừng Spank qua khóe mắt. “Cậu đã bị đối xử một cách đáng xấu hổ, John Ridd. Đừng nói gì với ta nữa, hãy đến chỗ ngài Spank kia kìa, cho ta biết ngài ta đối xử với cậu thế nào.” Nói đến đây, ông ta liếc sang Spank, cái liếc mắt trị giá ít nhất mười bảng đối với tôi. “Mai cậu hãy quay lại đây nhé, ta gác hết mọi vụ khác sang một bên để toàn tâm toàn ý lấy lại công bằng cho cậu. Giờ thì cậu về đi, John Ridd, chào cậu.”
Sau khi chứng kiến trận lôi đình kinh hoàng vừa rồi, quý vị đoán xem tôi mừng đến thế nào khi nghe bảo có thể ra về? Nếu tôi chưa từng chứng kiến cảnh đôi mắt của một con người biến thành hai cái hố đen ngòm để quỷ dữ từ đó trừng trừng nhìn ra thì hôm đó tôi đã tận mắt thấy. Đôi mắt đó chính là của ngài thẩm phán tòa án tối cao Jeffreys.
Ông Prank ra sảnh trước tôi, tôi còn chưa kịp định thần (bực không chịu nổi, hở tí là xoắn cả lên), ông ta tay đeo một túi da màu vàng nặng trịch, khép nép và xun xoe.
“Cậu Ridd này, cậu cứ lấy hết chỗ này đi, lấy hết đi nhé, nhớ nói tốt cho tôi với ngài thẩm phán một tiếng. Ngài ấy có cảm tình với cậu, nên cậu phải tận dụng tối đa nhé. Chưa thấy ai dám nhìn thẳng vào mắt ngài ấy, chứ đừng nói gì đến việc cãi lại, ngài ấy thích thế. Hãy đợi ở London nhé, cậu Ridd, ngài ấy sẽ nâng đỡ cậu. Tôi mong cậu nhớ một điều thôi, Ridd ạ, gia đình Prank của tôi có đến mười sáu người.”
Tôi không lấy cái túi, vì rõ ràng ông ta muốn hối lộ khi cứ thế đưa cho tôi một cục tiền mà chẳng buồn hỏi xem tôi đã tốn bao nhiêu chi phí. Tôi chỉ ôn tồn bảo nếu ông ta vui lòng giữ tiền cho tôi đến mai, tôi sẽ dùng thời gian còn lại của ngày hôm nay để tính xem (việc này luôn làm tôi đau khổ) tôi đã xài bao nhiêu tiền cho việc ăn ở, lưu trú, từ khi ngài Stickles đưa tôi đến London, vì trước đó ông chịu mọi chi phí. Sáng mai, tôi sẽ đưa cho ông Spank một hóa đơn, có chữ ký đàng hoàng, được chủ nhà trọ chứng thực, kể cả chi phí bữa sáng, rồi tôi sẽ lấy lại đúng số tiền mình đã dùng và rất biết ơn vì điều đó.
“Nếu đó là cách cậu nắm bắt cơ hội.” Spank nói, nhìn tôi có chút coi thường. “Cậu sẽ không bao giờ tiến thân được trong thời đại này, chàng trai ạ. Ngay cả ngài thẩm phán cũng chẳng giúp gì được cho cậu trừ phi cậu biết cách giúp bản thân nhiều hơn thế.”
Điều này không quan trọng đối với tôi. Cụm từ “người ủng hộ” mắc kẹt trong những thứ tôi đã ăn vào bụng, như ngài thẩm phán đề cập. Đối với chúng tôi, một người ủng hộ được xem như một thứ gì đó rất thấp hèn. Tôi thà bỏ tiền túi trả cho tất cả những bữa sáng, bữa tối tôi đã ăn kể từ khi đến đây còn hơn nhận tiền với tư cách là người ủng hộ. Quả thật, tôi rất thất vọng vì bị nhìn nhận dưới góc độ ấy, sau khi hiểu rằng tôi được đưa đến đây với tư cách là một thần dân đáng tin cậy và người bạn hèn mọn của Đức vua.
Sáng hôm sau, tôi gặp ông Spank đợi sẵn ngay lối vào, trông rất sốt sắng. Tôi đưa ông ta hóa đơn, được ghi chép rõ ràng, và ông ta phá lên cười. “Gấp hai lần lên chứ, cậu Ridd; một lần cho cậu, một lần cho Đức vua, vì tất cả những người giao hàng trung thành của ngài đều làm vậy, khi họ có thể nhận chút ít. Đức vua biết và hãnh diện về điều đó, vì nó thể hiện tình yêu của họ đối với sự ủng hộ của ngài. Ngài thường nói “bis dat qui cito dat”1.”
1. Tiếng Latin, có nghĩa là “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn”.
“Không, tôi chỉ lấy đúng số tiền mình cần thôi.” Tôi nói. “Gia đình Spank nhà ông có tới mười sáu miệng ăn cơ mà.”
Viên thư ký mỉm cười phớ lớ khi nghe thế. Sau khi trả đủ tiền cho tôi, ông ta thẽ thọt:
“Sáng nay, ngài thẩm phán chỉ có một mình trong phòng thôi, cậu John, ngài đang trong tâm trạng vui vẻ. Hiếm hoi lắm đấy nhé! Ngài đã làm xong vụ ông Algernon Sidney tội nghiệp. Ngài đang cười khoái trá với câu chuyện tiếu lâm của mình hệt một con lợn với một quả hạch, việc đó luôn làm ngài dễ chịu. John Ridd đến rồi, thưa ngài!” Nói xong, ông ta dứt khoát vén màn lên, và theo những câu lệnh đặc biệt, tôi đứng đó trơ trọi, đối diện thẩm phán Jeffreys.