N
gài thẩm phán đang cặm cụi với vài ba lá thư, không ngẩng đầu lên suốt gần hai phút, dù ông ta thừa biết tôi đứng đó. Trong lúc ấy, tôi đứng đợi để cúi chào, không dám làm kinh động ông ta, kinh ngạc nhìn chằm chằm vào cái đầu bò mộng to tướng của ông ta. Rồi ông ta gấp mấy lá thư lại, hài lòng với nội dung của chúng, găm ánh nhìn chòng chọc vào tôi, như thể tôi là một con hàu há mỏ để ông ta biết tôi tươi ngon đến thế nào.
“Kính thưa!” Tôi nói. “Tôi đến theo lệnh, đợi ngài chiếu cố.”
“Cậu lớn con quá nhỉ? Cân nặng bao nhiêu đấy?”
“Chỉ hai trăm bốn mươi cân Anh1 ạ. Nhưng chắc hiện tôi sụt đi ít nhiều rồi, vì đợi chờ mỏi mòn ở London.”
1. Khoảng 108 cân.
“Ha ha! Mỏi mòn! Thế Đức vua đã gặp cậu chưa?”
“Vâng, rồi ạ, hai thậm chí ba lần. Ngài ấy còn chế giễu tôi nữa.”
“Một lời chế giễu khá thô thiển, ta dám chắc vậy. Sự hóm hỉnh của ngài không thanh được như ta, mà có khuynh hướng khiếm nhã, bất lịch sự. Nào John, hay Jack, có vẻ cậu thường được gọi theo cách đó hơn nhỉ?”
“Vâng, thưa ngài, chỉ bà Molly già và vú Betty Muxworthy thôi ạ.”
“Bình tĩnh nào! Cậu cứ làm quá lên. Chúng ta thì muốn đơn giản hóa vấn đề cho cậu, còn cậu thì cứ làm quá lên. Ha ha! Thế tên Spank lếu láo đâu rồi? Lát nữa thôi Spank chắc sẽ nghe thấy điều đó. Cái đầu dốt nát của cậu làm sao hiểu được, Jack.”
“Không như ngài nghĩ, thưa ngài. Tôi có đi học, và là nạn nhân của rất nhiều trò đùa ác ý.”
“Ha ha! Chắc cậu khổ sở lắm. Nhưng cậu là người không dễ gì đánh mất niềm tin. Trông như sắp khóc bù lu bù loa rồi nhỉ? Thôi nào, ta luôn đứng về phía cậu, Jack. Cậu sẽ nhận phụ phí gấp đôi, Jack, vì khơi gợi được tố chất hài hước trong ta.”
“Thưa ngài, tôi chỉ nhận đủ thôi ạ.”
“A, ta làm cậu mếch lòng rồi, Jack. Cây lao móc không nhằm nhò gì với cậu. Nào, Jack Cá voi, sau khi dùng hết sức kéo cậu lên, chúng ta tiến hành kiểm tra cậu đây.” Vừa dứt lời, thái độ ông ta khác hẳn. Ông ta nhìn tôi, chau mày, như thể chưa từng biết cười trong đời, cũng không cho phép người khác cười.
“Tôi sẵn sàng trả lời, thưa ngài.” Tôi đáp. “Nếu những gì được hỏi không nằm ngoài hiểu biết và danh dự của tôi.”
“Tốt nhất là trả lời ta mọi thứ, đồ đần. Cậu thì có liên quan gì đến danh với chả dự? Có phải vùng cậu sinh sống có một sào huyệt của bọn cướp - bọn ti tiện, sống ngoài vòng pháp luật, ai nấy đều sợ dây vào không?”
“Vâng, thưa ngài. Ít nhất, tôi tin vài người trong số họ là cướp, tất cả đều sống ngoài vòng pháp luật.”
“Thế người đứng đầu hạt của cậu đâu, sao ông ta không treo cổ cả lũ đó lên? Hoặc giải đến cho ta treo cho, chẳng cần động tay động chân gì cho nhọc.”
“Tôi nghĩ chắc ngài ấy sợ, thưa ngài. Can thiệp vào việc của bọn họ không phải là chuyện đùa. Họ đều xuất thân từ dòng dõi cao quý. Họ còn rất ngang ngược, coi trời bằng vung nữa. Lãnh địa của họ rất kiên cố.”
“Dòng với chả dõi! Thế ngài Russell, ngài Essex và Sidney thì sao? Thế tên của cái dòng họ ghê gớm đó là gì, có bao nhiêu nhân khẩu cả thảy?”
“Thưa, là Doone xứ Bagworthy, khoảng bốn mươi người, trừ phụ nữ và trẻ em.”
“Bốn mươi tên Doone - bốn mươi tên cướp! Còn cả phụ nữ và trẻ em! Chúa ơi! Thế cả lũ ấy ở đó bao lâu rồi?” “Chắc cũng ba, bốn mươi năm rồi, thưa ngài. Họ đến trước cả khi chiến tranh nổ ra nên tôi không biết chắc nữa.”
“Ừ, trước cả khi cậu ra đời, John. Tốt, cậu nói năng rất ngay thẳng, chất phác. Kẻ nào nói dối thì sẽ rắc rối to đấy, ta sẽ nắm thóp bất kỳ khi nào. Cậu muốn ta đưa việc này lên Western Circuit1. Ơn Chúa, cậu sẽ được toại ý, khi ta xử lý xong những kẻ phản bội ở London. Dòng họ De Whichehalse sống rất gần nhà cậu, đúng không, John?”
1. Cơ quan đại diện cho quyền lợi luật sư ở Nam và Tây Nam nước Anh.
Ông đường đột chuyển đề tài như thể để khiến tôi mất cảnh giác, soi cặp mắt thô lố lên tôi. Kỳ thực, tôi rất bất ngờ.
“Vâng, đúng thế, thưa ngài. Cách nhà chúng tôi không quá xa, Nam tước De Whichehalse, thuộc trang viên Ley Manor.”
“Nam tước, hừ! Thuộc Bộ Tài chính Anh, đúng không chàng trai? Thu thuế thay cho Đức vua. John Ridd, ta sẽ đến xứ đạo Oare và diệt gọn Oare xứ Babylon.”
“Mặc dù là người tinh thông.” Tôi đáp sau khi nhận thấy ông ta bắt đầu gây khó dễ. “Ngài, dù là thẩm phán tòa án tối cao, không đối xử công bằng với chúng tôi. Chúng tôi là những thần dân trung thành, đức hạnh, từ khi đến thành phố London rộng lớn này, tôi chưa thấy bất kỳ ai hơn chúng tôi, hoặc thậm chí gần bằng chúng tôi, về tính trung thực, lòng tốt và tình nghĩa xóm giềng. Chúng tôi vốn thầm lặng, không huyên thuyên, om sòm về đức hạnh của mình…”
“Đủ rồi, John, đủ rồi! Cậu không biết rằng sự khiêm tốn là thời kỳ con gái của đức hạnh, sẽ bị mất đi bởi sự tán thành của chính cô ta sao? Thế cậu có bao giờ nghe nói hay nghĩ rằng De Whichehalse câu kết với Doone xứ Bagworthy không?”
Vừa cất tiếng chậm rãi, ông ta vừa “xiên” cặp mắt thô lố vào mắt tôi, để tôi chẳng nghĩ được điều gì, cũng không thể nhìn ông ta hoặc nhìn lảng đi. Chi tiết đó mới mẻ khiến tôi hoang mang không biết phải nghĩ thế nào. Khi nhìn chòng chọc vào tôi, ông ta nhận thấy tôi đang bối rối.
“John Ridd, nhìn mắt cậu là ta đủ biết rồi. Ta dám chắc cậu chưa từng nghĩ về điều đó. Thế cậu đã từng gặp người nào tên là Thomas Faggus chưa?”
“Thưa ngài, có, rất nhiều lần ạ. Đó là người cậu họ đáng kính của tôi, tôi e rằng cậu ấy định…” Nói đến đây, tôi ngắc ngứ, thấy mình không có quyền lôi em Annie vào.
“Tom Faggus là người tốt.” Ông ta nói, khuôn mặt chữ điền xuất hiện một nụ cười, chứng tỏ đã từng gặp cậu. “Ngài Faggus đã mắc sai lầm về quyền đối với tài sản, như những luật sư vẫn thường phạm phải; nhưng phải nói ông ta là một người hết mực trung thực, trình lên hóa đơn và được chi trả, không đòi tiền công. Tuy nhiên, chúng ta phải đánh thuế mọi chi phí của ông ta, như của bất kỳ luật sư nào.”
“Chắc chắn rồi, thưa ngài!” Tôi nói, dù chẳng hiểu cóc khô gì.
“Ta e rằng ông ta sẽ bị treo cổ.” Giọng ngài thẩm phán chùng xuống. “Hãy chuyển lời này của ta đến ngài Faggus, cậu Jack nhé! Ông ta sẽ không bao giờ bị kết tội trước, nhưng ta không thể có mặt ở khắp nơi, còn cánh quan tòa có thể quên nhanh những bữa tối của ông ta. Hãy bảo ông ta đổi tên, cải đạo, hoặc làm gì cũng được, để biến việc treo cổ ông ta thành sai trái. Mục sư là tối ưu, ông ta có tố chất để làm việc ấy và ông ta có thể thu thuế thập phân trên lưng ngựa. Nào, còn một vài điều nữa, cậu John Ridd.”
Nghe đến đây, tim tôi như muốn nhảy vọt ra khỏi lồng ngực, để chạy khỏi London ngay lập tức. Tôi gần như không thể tin vào tai mình.
“Chỗ cậu sống, dân chúng có biểu hiện thiếu trung thành với Đức vua không?”
“Thưa, không ạ. Chúng tôi thường cầu nguyện cho ngài tại nhà thờ và nói với nhau về ngài sau đó, hy vọng những lời cầu nguyện của chúng tôi mang lại sự bình an cho ngài. Ngoài ra, chúng tôi chẳng nói thêm điều gì nữa, vì không biết nhiều về ngài - ít nhất cho đến khi tôi trở lại quê nhà.”
“Nên thế, cậu John à. Nói càng ít càng tốt. Ta có nghe nhiều chuyện ở Taunton, ngay cả ở Dulverton, nơi gần chỗ cậu hơn, thậm chí gần hơn nữa là ở Exmoor, những chuyện liên quan đến giàn gông, và cả giá treo cổ. Ta thấy cậu chả biết gì về những chuyện ấy. Tuy nhiên, chẳng bao lâu nữa cả nước Anh sẽ nghe về chúng. John, ta quý mến cậu, vì chưa có người nào nói với ta sự thật toàn tâm toàn ý như cậu, không phải vì sợ hoặc vì muốn được ta biệt đãi. Hãy tránh xa chuyện này nhé. Nó không có kết quả gì tốt đẹp cả. Tuy nhiên nhiều người cứ xoắn lên vì nó. Ngay cả ta cũng không thể cứu cậu, John Ridd, nếu cậu có dính líu đến chuyện này. Hãy tránh xa gia tộc Doone, tránh xa De Whichehalse, tránh xa những chuyện nằm ngoài hiểu biết của cậu. Ta muốn dùng cậu làm công cụ, nhưng ta thấy cậu quá trung thực, chất phác. Ta sẽ dẹp đám đầu trộm đuôi cướp kia, đừng để ta phát hiện ra cậu, John, hoặc là công cụ cho bên nào, hoặc trở thành một cái mõ rêu rao những lời nói của ta khắp bàn dân trăm họ.”
Nói đến đây, ngài thẩm phán nhìn tôi chằm chặp khiến tôi ước gì mình không phải đang đứng trước mặt ông ta, dù biết ơn những lời dặn dò của ông ta. Khi nhìn thấy tôi tỏ ra sợ hãi đến thế nào, ông ta lại mỉm cười vui vẻ, bảo:
“Giờ thì cậu về đi nhé, Jack. Ta sẽ nhớ cậu đấy. Ta nghĩ, cậu cũng còn lâu mới quên được ta.”
“Thưa ngài, tôi không mong gì hơn là được về nhà lúc này vì cỏ khô phải được đưa vào vựa, các đụn rơm thì chưa lợp, và không ai đánh đấm được như tôi. Chỉ bện một dây thừng cỏ khô thôi mà cần đến hai người. Mẹ tôi nghĩ như vậy là bình thường, nghe hết người này đến người kia nói dối. Con lợn nào mổ ra cũng bị lừa, ngay cả da cừu…”
“Cậu John Ridd à, đúng là không có người ở đâu sánh bằng người dân quê cậu về tính trung thực, lòng tốt và tình nghĩa với xóm giềng!”
“Chắc chắn rồi, thưa ngài. Nhưng…” “Được rồi, cậu John. Cậu hãy về đi.”
Tôi muốn giải thích nhưng ngài chánh án không chịu nghe, vừa đẩy tôi ra vừa bảo đàn ông rặt một phường trộm cướp, dối trá, còn phụ nữ thì cũng chẳng kém cạnh. Tôi không đủ lý lẽ để bàn cãi chủ đề này (dù tôi chưa thấy thuyết phục), vì ông ta là chánh thẩm phán, nên chắc chắn hiểu biết hơn, một lý do nữa, bản thân tôi là đàn ông nên thường tự bênh vực mình theo một cách không thỏa đáng.
Do vậy tôi cúi chào thật thấp và ra về, hồ nghi về việc người nào có quyền nhận cử chỉ đó.
Dù ông ta bảo tôi hãy về quê, tôi vẫn chưa sẵn sàng lắm vì chẳng còn đủ tiền để trang trải suốt đoạn đường từ London đến Oare, trừ phi cuốc bộ và xin ăn dọc đường - một việc thật thấp hèn đối với tôi. Tôi xếp một ít quần áo, trả một ít nợ, chuẩn bị khởi hành sau nửa giờ đồng hồ nữa. Tôi tin chắc là nhờ trẻ khỏe, tôi có thể cuốc bộ từ London về Oare trong mười ngày hoặc nhiều lắm là mười hai (thế này thì không lâu so với đi ngựa là mấy). Đúng là một tên đại ngốc, chắc quý vị chậc lưỡi khi nghe thế. Chuyện là thế này. Sau khi nhận được từ Spank số tiền đã sử dụng - kỳ thực là ít hơn năm mươi si linh so với mẹ cho, vì tôi đã xài năm mươi si linh và nhiều hơn nữa vào việc thăm thú thành phố, đãi mọi người (tiền này đâu thể đòi Đức vua được), ban đầu tôi trả hết nợ (không nhiều lắm) từ số tiền đó và nghĩ mình là một chủ nợ có uy tín của Bộ Tài chính Anh. Thế rồi vì sắp được trở về, tôi vui đến mức cảm nhận thấy trong bầu không khí mùi thôn dã, tưởng tượng đến cảnh mừng mừng tủi tủi của mẹ, tôi mạnh tay chi hơn ba phần tư số tiền còn lại để mua quà cho mẹ, em Annie, em Lizzie, John Fry, vợ chú, vú Betty Muxworthy, Bill Dadds, Jim Slocombe, tóm lại là một nửa số dân còn lại của giáo xứ Oare, kể cả mấy cha con nhà bác Snowe (trong khi nhà bác ấy chắc chắn là có toàn thứ tốt và quý giá). Không giấu gì quý vị, tôi đã mang về cho Lorna một món quà mà giá của nó mới thoạt nghe tôi đã giật hết cả mình. Thế rồi người bán hàng bảo nhiêu đó thì có sá gì. Chẳng chàng trai nào muốn lấy lòng một cô gái mà lại đi tặng con người ta mấy cái đồ rẻ tiền bán ngoài đường của người Do Thái cả. Chỉ cần nghĩ rằng Lorna sẽ yêu tôi, nếu ông chủ cửa hàng có nói thách đến gấp ba lần như thế thì tôi cũng mua luôn không chút đắn đo.
Tôi đúng là một tên đại ngốc. Không phải vì tôi nghĩ đến bạn bè hay hàng xóm, điều một người đàn ông có quyền và bổn phận phải làm khi đi xa về, mà là vì tôi không biết tính toán chi tiêu sao cho vừa túi tiền. Tôi vô cùng kinh ngạc khi cầm tới tòa hóa đơn chi cho việc ăn uống thêm ba ngày nữa, và lộ phí một tuần về nhà được tính toán rất sít sao, ngài Spank không những từ chối tiếp tôi, mà còn chuyển cho tôi một mảnh giấy xanh, trông giống phiếu hàng thịt, trên đó vỏn vẹn vài lời: “John Ridd, cút xuống địa ngục đi. Lúc cho thì không chịu lấy, đến khi cần thì chả ai thèm cho.” Từ đó, tôi kết luận rằng mình đã đánh mất đặc ân của Chánh thẩm phán tòa án tối cao Jeffreys. Có lẽ bởi chứng cứ của tôi chẳng có giá trị gì cả! Có lẽ bởi vì ông ta muốn ngâm vụ này lại vô thời hạn.
Dù sao, tôi thấy rất buồn, giận, lo lắng, thất vọng và hồi hộp. Lúc này, mùa cỏ khô đã trôi qua, sắp tới vụ thu hoạch ngô, cá hồi đang sinh sôi, lũ chim hét ăn trộm anh đào nhân trắng (tôi tin vậy dù không nhìn thấy), ai sẽ chăm sóc cho mẹ, hoặc giúp mẹ thôi khóc triền miên? Trên hết, không biết Lorna giờ ra sao? Có khi em đã gạt tôi ra khỏi tâm trí hệt như một kẻ không ra gì, thay lòng đổi dạ. Có khi em đã gieo mình xuống cái giếng đen ngòm đó. Có khi (đây là điều tồi tệ nhất), dù vẫn còn bé, em thậm chí đã cưới gã Carver Doone đê tiện nọ, nếu người họ Doone quan tâm đến việc cưới xin! Ý nghĩ cuối cùng đó thúc giục tôi tìm đến chỗ Spank ngay lập tức, quyết tâm nếu tóm được ông ta sẽ nện ông ta một trận ra trò, mặc xác cái gia đình mười sáu miệng ăn của ông ta.
Tuy nhiên, chẳng có gì tương tự như thế xảy ra cả, vì người gác cửa một thề hai thốt rằng (tôi ngờ là ông ta làm theo lệnh) ông Spank đã ra biển thư giãn sau bao ngày làm việc cật lực, chỉ có kẻ đáng thương như ông ta mới chịu ở lại London trong thứ thời tiết nóng bức, oi ả và có thể khiến dịch bệnh khởi phát như thế này. Lại thêm một nỗi kinh hoàng nữa. Tôi từng nghe nói đến dịch bệnh ở London cùng những chuyện kinh khủng liên quan nên quáng quàng về lại chỗ trọ. Tôi cởi quần áo ra, tìm xem trên người có nốt gì không, nhất là vì ở quá lâu tại nhà một người buôn bán da lông thú rậm lông. Không thấy gì, tôi liền quỳ thụp xuống tạ ơn Chúa, thề rằng bất kể thế nào cũng sẽ khởi hành về Oare ngay ngày mai, với khẩu súng các bin đầy đạn, cho dù cả giáo xứ sẽ cười nhạo tôi vì phải ăn xin trên đường về nhà sau những lời lẽ hùng hồn về chuyến đi như thể có bà con họ hàng thân thích gì với Đức vua không bằng.
Xét một mức độ nào đó, tôi sống sót là nhờ vào việc hạ thấp lòng kiêu hãnh của mình, quan trọng hơn là của mẹ, vì đã mua bằng đồng cua ron cuối cùng một ít đạn và thuốc súng - những thứ cần thiết hơn nhiều so với giày hay thức ăn. Tôi gặp Jeremy Stickles ở góc đường, tình cờ ông cũng đang đi tìm tôi. Tôi đưa ông về căn phòng trọ nhỏ - ít nhất là của tôi cho đến sáng mai - kể ông nghe mọi chuyện, cùng với việc tôi buồn đến thế nào về tất cả. Ông khiến tôi vô cùng bất ngờ vì chẳng tỏ vẻ ngạc nhiên gì. “Cuộc đời là vậy đó, Jack. Họ đã có tất cả những gì có thể từ chú em, thế thì còn chu cấp tiền ăn cho chú em làm gì nữa? Làm gì có ai cho một con lợn chết ăn phải không? Họ chỉ phết mỡ cho đều rồi ngâm muối và cây cửu lý hương thôi. Không hề, chúng ta không cho lợn ăn vào ngày nó bị mổ. Đó chính là điều họ làm với chú em đấy. Chú em vẫn còn may chán. Làm ngày nào thì tính tiền công ngày đó. Cầu Chúa rủ lòng thương, John! Ta chứng kiến nhiều sự việc khác nhau, tùy từng trường hợp mà có cách đánh giá tương ứng. Chẳng ích gì khi cứ khư khư trong lòng chuyện này, chuyện kia khi mà ta có thể thay đổi thái độ theo hướng tích cực hơn. Ta nói chú em nghe này Jack, đàn ông rặt phường dối trá, ít nhất ông ta không o ép người ta quá mức về việc dối trá.”
Điều này hoàn toàn mơ hồ đối với tôi, vì tôi chưa từng nhìn sự việc theo cách đó, cũng không nghĩ mình là một kẻ dối trá, không chỉ với những người khác, mà ngay cả đối với bản thân mình, mặc dù đối với Chúa thì có thỉnh thoảng, khi gặp khó khăn. Thực tế, không ai đáng bị gọi là “kẻ dối trá” vì tháo gỡ những khó khăn không chủ tâm, vì bổn phận với xóm giềng.
“Chú em cầm năm bảng này đi, Jack.” Đột nhiên Jeremy Stickles lên tiếng, trong lúc tôi băn khoăn không biết mình có phải kẻ dối trá hay không. “Năm bảng. Để ta tìm cách xoay số tiền đó từ gã Spank xỏ lá kia. Lẽ ra ta có thể đưa cậu mười bảng, John, nhưng gần đây vận ta hơi đen. Cất chỗ giấy tờ đó đi, chàng trai. Ta không cần đền đáp hay trả ơn gì cả, John Ridd. Vớ vẩn!”
Tôi hôn tay ông. Ai đời ở London này (nơi tầm thường nhất, đáng ngờ nhất thế gian) lại có người sẵn sàng đưa tôi năm bảng mà không cần giấy vay nợ! Tôi xúc động đến mức khóc nức lên, vì nói gì thì nói, dù to xác, tôi vẫn là gã trai mới lớn. Chẳng phải tôi khóc vì năm bảng, mà vì cách nó được cho. Thế là sau khi nếm trải quá nhiều cay đắng, lòng tốt của tôi cũng được đền đáp bằng niềm tin lớn lao.