L
úa mì đang vào đầu mùa gặt lúc tôi về đến thị trấn Dunster sau khi cuốc bộ từ London, hai chân có hơi đau. Dù năm bảng đủ để tôi ăn uống, nghỉ trọ dọc đường, còn trích vài si linh cho những du khách nghèo hơn, nhưng thuê ngựa thì bất khả vì đợt đi London lần trước tôi đã chứng kiến Jeremy Stickles phải chi nhiều như thế nào cho việc đi lại. Tôi chưa từng thấy nơi nào đẹp bằng thị trấn Dunster tối hôm đó vì nói thật, tôi gần như mất hết hy vọng vào việc tới được thị trấn trước khi trời sụp tối, dù lâu đài đã xuất hiện xa xa. Nhưng khi tới nơi, mọi khó khăn, vất vả biến mất. Người họ hàng của mẹ tôi (người thợ thuộc da đáng kính, chúng tôi đã nghỉ đêm tại nhà ông lúc đi lên London) căm phẫn trước tình cảnh của tôi khi về đến nhà ông - lôi thôi lếch thếch, kiệt quệ tơi tả, gần như không giày dép - đó là chưa kể đến quần áo - đến mức ông thề rằng (cầu Chúa ban phước lành) nếu có mưu đồ nào chống lại những tín đồ Gia tô đáng ghét, bất kể như thế nào, và có cơ may thành công, ông sẽ sẵn sàng chịu mất một ngàn bảng (nói cứ như thể là một xu ấy).
Tôi bảo ông đừng làm thế, vì tôi đã nghe điều ngược lại, nhưng không được phép kể một phần mười những gì mình biết và thực sự tận mắt thấy ở thành phố London. Ông chẳng quan tâm gì đến việc này, bởi vì tôi chỉ gật đầu chứ không nói gì và ông không thể hiểu được. Tuy nhiên, tôi nghĩ chỉ cần nhìn tôi, ông cũng biết tôi đang trong tình trạng tồi tệ đến thế nào khi đến thị trấn này, và tôi xấu hổ ra sao vì phải ăn nhờ dọc đường. Nhưng tốc độ đi của tôi, những con ngựa trạm có khi còn chào thua. Trong tâm trạng muộn phiền, tuyệt vọng, tôi cuốc bộ từ London đến Dunster hết sáu ngày ròng. Tính ra chắc cũng được một trăm bảy mươi dặm. Dù lạc đường cả tá lần, nhưng tôi đi hết sáu ngày, và được hầu hết mọi người tiếp đãi. Người thợ thuộc da có vài cô con gái khá là xinh (tôi quên mất là bao nhiêu cô rồi), và làm món bánh nướng rất ngon. Dù họ hỏi tôi đủ thứ, ngỏ ý muốn mạng tất cho tôi (kỳ thực là cần kíp), tôi cảm thấy buồn ngủ quá chừng nhưng không thừa nhận điều đó. Thế rồi họ bảo: “John đáng thương! Anh ấy mệt quá rồi.” Họ đưa tôi vào giường ngủ, hôn tạm biệt tôi.
Vào buổi sáng, tất cả các ngọn đồi ở Exmoor (ý nghĩ về chúng đã từng khiến tôi sợ hãi vào cuối mỗi ngày đường) trông như những cái giạ đong thóc lúc tôi nhìn ra cửa sổ phòng ngủ và tạ ơn Chúa vì thấy chúng. Ngay cả thế, tôi không phải chật vật leo lên chúng bằng sức của mình. Người bà con đáng kính, nhận thấy không thể giữ tôi lại cả ngày được và cũng công nhận là tôi đúng khi vội về với mẹ, cương quyết không cho tôi đi bộ, cho dù ông có mất hết cả da sống ngày thứ Bảy từ Minehead và Watchett.
Ông để tôi về bằng con ngựa khỏe nhất của mình, còn mấy cô con gái đứng nơi cửa, chúc tôi đi đường bình an, không quên gửi theo những nụ hôn gió. Tôi vô cùng hãnh diện và vui mừng vì sau khi tiếp xúc với nhiều người, đi nhiều nơi, tôi vẫn là chính mình, vẫn còn nguyên sức mạnh đương đầu với những khó khăn, thử thách. Tôi lại được về bên những người thân yêu, nhận thấy họ tử tế, tốt bụng và cả ưa nhìn hơn hầu hết bất kỳ ai tôi tình cờ gặp ở cái thành phố London rộng lớn, vô tình kia.
Không biết phải nói như thế nào cho quý vị hiểu cảm xúc của tôi khi tôi tiến đến ngày một gần hơn nơi chôn nhau cắt rốn, nơi lui tới của những nhớ nhung bồi hồi, chốn nương náu của mọi ước mơ, hy vọng. Lúc tôi thấy con cừu đầu tiên trong con truông có hai chữ cái lớn màu đỏ J.R bên hông (chắc mẹ đã khắc tên tôi, thay vì đáng ra là tên mẹ), lồng ngực tôi như muốn vỡ tung vì mừng rỡ. Tôi hét vang: “Jem!”, và cu cậu nhận ra tôi cho dù không quen con ngựa. Tôi chồm ngay xuống, vuốt đầu cu cậu, thề rằng cu cậu đáng lẽ ra không phải là cừu. Khi tôi đi tiếp, cừu ta bắt đầu phi nước đại, gọi hết đồng bọn mang dấu J.R trên người lại, báo chúng hay là cuối cùng cậu chủ cũng đã trở về.
Cầu Chúa phù hộ cho trái tim quý vị, và cả trái tim tôi nữa vì tôi sẽ mất cả buổi chiều kể quý vị nghe một phần mười những thứ tôi nhận ra chỉ trong nửa giờ đồng hồ lúc mặt trời đang lặn, như mọi ngày. Đây là cái ao chúng tôi tắm cho lũ cừu, kia là vũng nước nơi tôi bắn rơi ba con vịt trời. Đây là đống than bùn tôi cất bữa tối khi không thể quay về nhà để lấy, còn kia là bụi cây với đám cỏ xạ hương mọc xung quanh, nơi em Annie đã tìm thấy một tổ ong lớn. Rồi đến chỗ rẽ nơi bức tường đá khô ở cuối con truông, bọn gà gô lướt nhanh như gió từ đó vào ruộng ngô, quang quác loan báo bữa tối đã sẵn sàng, mắt không ngớt nhìn vào nhà cùng những đụn rơm khi đang chạy.
Ở đó tôi thấy… gượm đã… tôi thấy Annie. Tôi không kìm được xúc động khi thấy em. Em gần như lôi tuột tôi xuống khỏi ngựa, hôn trúng vào họng khẩu các bin.
“Em biết là anh sẽ về mà. Anh John! Tối thứ Bảy nào em cũng đợi ở đây. Em thấy anh cách đây một dặm rồi, nhưng em không chạy ra đón, vì sợ mình sẽ khóc, thế rồi khi thấy anh, em lại chẳng khóc được. Giờ thì em có thể khóc thoải mái rồi, anh không cần cố dỗ em đâu nhé John, vì chỉ là em mừng quá thôi. Nhưng anh không được khóc đâu đấy nhé, John. Mẹ sẽ sao nhỉ? Mẹ phát ghen lên với em cho mà xem.”
Mẹ nghĩ gì tôi nào biết. Quả thực tôi không tin mẹ nghĩ được gì trong suốt hơn nửa giờ, trong khi cứ ôm ghì lấy tôi, khóc lóc, luôn miệng tạ ơn Chúa, đồng thời sợ rằng ngài sẽ lại mang tôi đi, nếu bà cứ rối rít lên như thế. Hơn nữa, bà nghĩ đó là việc của tôi, tôi phải có danh tiếng. Bà thậm chí còn gay gắt với thím Fry khi thím bảo chúng tôi không được quá hãnh diện, vì tất thảy đều là ý Chúa. Sau đó mẹ cũng thấy ngượng, nên lựa lời xin lỗi thím ấy. Mà thôi, lẽ ra tôi không nên nhắc đến chuyện này thì hơn.
Con Smiler già đã báo cho mọi người rằng tôi đang về, đương nhiên là trừ em Annie. Nó vùng khỏi dây cương, chạy ra gặm ít cỏ trên con đường mòn thì trông thấy một con ngựa lạ, bên trên là một kỵ sĩ trẻ tuổi và một cô nương, vì Annie ngồi đằng sau, nên chỉ có bọn cừu nhìn thấy em. Rồi con Smiler nhìn chúng tôi chằm chằm, hí vang. Nó sững sờ đến mức đuôi đơ ra, rồi (chẳng biết vì mừng rỡ hay căm phẫn) nó tung hai vó sau lên, phi nước đại thẳng về nhà, khiến lũ chó sủa inh ỏi.
Tôi nghĩ, kể từng ấy đã là đủ về chuyến trở lại đầy vinh quang của chàng trai John Ridd (sự kiện mà chỉ trong vòng tối hôm ấy thôi đã kịp lan khắp Cosgate), và cảm thấy mình không đủ sức để miêu tả nổi nó. Làm sao tôi có thể hy vọng rằng có người nào chịu bỏ công sức ra để tưởng tượng, ngay cả đối với một vài người có khả năng? Vì hầu như chưa một ai từng đi xa đến vậy, trừ phi họ là thương buôn hay sống kiểu rày đây mai đó. Ngay cả có thế đi nữa, rất ít người có một ngôi nhà như tôi.
Mẹ lại khóc vì buồn và giận, em Annie cũng vậy, ngay cả em Eliza, tất cả đều hoang mang về lòng trung thành, khi tôi kể mình đã bị bỏ mặc không một xu dính túi để về nhà như thế nào, những tưởng sẽ phải ăn xin dọc đường, điều mà bác Snowe hẳn đã nghe kể. Dù họ thất vọng bởi tôi không thành công trong việc tiến thân, tất cả đều bày tỏ mình vui mừng thế nào khi thấy tôi trở về lành lặn, và sung sướng ra sao khi tôi vẫn là tôi - con trai của mẹ, anh trai của em gái - như họ vốn quen. Ít nhất mẹ tôi và em Annie nói vậy, không cần nghe thêm nữa, nhưng em Lizzie không tỏ thái độ gì cho đến khi tôi mở cái túi ra và cho em thấy quà tôi đã mua cho em. Rồi em hôn tôi, gần giống như Annie, thề rằng em chẳng nghĩ gì đến chức tước, địa vị này nọ.
Dù món quà của em Lizzie đắt tiền nhất (đương nhiên là không tính quà của Lorna, tôi vẫn để nguyên nó nơi ngực áo suốt đoạn đường về nhà, hy vọng rằng em sẽ yêu tôi, bởi lẽ món quà ấy nằm gần trái tim tôi thật lâu) - đó là một cuốn sách quý và dày cộp (tôi chả hiểu trong đó nói gì nữa) - nhưng tôi biết rõ rằng với mẹ và Annie, quà của tôi có thế nào cũng quý cả, vì đó là tình cảm của tôi. Có thể nói tối hôm ấy, trên thế gian này, không gia đình nào hạnh phúc bằng bốn mẹ con tôi.