C
âu chuyện John Fry kể đêm hôm ấy cùng với sự tin chắc của tôi về tính xác thực của nó khiến tôi cảm thấy bứt rứt khó chịu, nhất là khi nhớ lại lời cảnh báo của thẩm phán Jeffreys, những bóng gió từ Jeremy Stickles, sự phản kháng của người thợ thuộc da ở Dunster, cũng như những câu chuyện và tin đồn tạp nham, cùng cảnh tượng người ta tụm năm tụm bảy thì thầm to nhỏ, bí mật rỉ tai nhau vào những ngày họp chợ và tại những khu vực giải trí. Chúng tôi biết chắc rằng dân chúng tại Taunton, Bridgwater, thậm chí Dulverton rất bất mãn với Đức vua, nuối tiếc thời còn theo đạo Thanh giáo.
Dù lâu nay, theo như tôi thấy, dân vùng tôi không hề như thế, nhưng hiện tại tôi bắt đầu nghi ngờ sự hiểu biết của mình. Nhất là khi chúng tôi nghe nói vũ khí được đưa đến Lynmouth vào ban đêm và vài người có nghe thấy bước chân rầm rập của lính tráng vọng tới từ một ngọn đồi. Nếu kẻ nào có mưu đồ bí mật tập hợp binh lính, vận chuyển vũ khí bất hợp pháp, liên lạc bằng đèn hiệu, chắc chắn anh ta thừa biết không nơi nào phù hợp hơn Exmoor với những khe núi chạy sâu vào nội địa từ vùng biển không hề được canh gác và khá là kín đáo. Eo biển từ Countisbury Foreland ngược lên Minehead, hoặc thậm chí xa hơn, dù nhiều đá, hay có bão và những dòng nước chảy xiết, nhưng sóng không lớn và bão không mạnh.
Nếu đúng là hiện tại đang có âm mưu chống lại Vua Charles đệ nhị (hay nói đúng hơn là chống lại những cố vấn người Ý của ngài, nhất là em trai ngài), thì không biết ngài Huckaback - một người giàu có, cẩn trọng, lại được cả thẩm phán tòa án tối cao biết đến - có dính líu gì đến chuyện đó không? Câu hỏi này thật tình tôi chẳng biết trả lời sao. Ông trẻ Ben có họ hàng gần với nhà tôi, ông là người hám lợi, hay thù hằn nên trước khi nghiêng về bên nào, ông phải chắc chắn nó mang lại cho ông lợi lộc, cơ hội thăng tiến và sự hài lòng. Tôi biết rất rõ ông căm ghét Thiên chúa La mã, dù ông rất hiếm khi nói ra. Tôi cũng biết ông đã đi theo cuộc hành quân của quân đoàn Oliver Cromwell, nhưng phụ trách hậu cần (nghe nói vậy) thay vì cầm súng. Ông nhất định sẽ lặn lội một quãng đường xa xôi, sẵn sàng chịu mất một số tiền lớn để trả thù gia tộc Doone, dù tên của họ không bao giờ vuột ra khỏi miệng ông trong suốt lần viếng thăm hiện tại.
Còn gia tộc Doone thì sao? Họ về phe nào trong phong trào sắp tới, nếu phong trào đó diễn ra thật? Lâu nay họ chẳng theo tôn giáo nào hết, nhưng họ vốn là tín đồ Công giáo La mã - đó là tôi nghe Lorna nói vậy. Kỳ thực, khắp vùng ai cũng biết, mỗi khi họ có người chết, một Cha đạo được mời đến thung lũng để tiễn đưa linh hồn người đó. Tuy nhiên, họ không thể dành nhiều tình cảm cho con trai của kẻ đã đẩy họ vào cảnh lưu đày và sung công tài sản của họ. Họ - những kẻ tuyệt vọng, chẳng có gì để mất, ngoài những điền trang cần khôi phục, và không bị cản trở nhiều bởi tôn giáo - không thể nào tung hê hết tất cả sự tôn kính dành cho dòng dõi mà vì thế họ bị trục xuất để hùa theo cuộc khởi nghĩa của những tín đồ Tin lành vì động cơ trả thù và lật đổ.
Lúc này, tôi rất hoang mang, không biết tin vào đâu. Mẹ thì quá chất phác, nồng hậu và tử tế với tất cả mọi người, chẳng biết tí gì về lần tái thiết lập này của nước Anh. Tôi rất sợ mẹ sẽ bị trừng phạt vì chứa chấp quân phiến loạn. Hễ có bất kỳ kẻ đáng thương nào đến cửa nhà chúng tôi kêu van: “Quân lính đang đuổi theo tôi. Vì Chúa, hãy cho tôi nơi ẩn nấp” thì y như rằng mẹ sẽ đón tiếp, cho người đó ăn uống đàng hoàng, dù người đó từng rất hung dữ. Hai em gái tôi cũng vậy, và (thú thật) tôi cũng không ngoại lệ. Do đó, rõ ràng chúng tôi sẽ gặp nguy hiểm nếu có biến.
Trước khi tôi kịp quyết định hành động như thế nào cho đúng (vì tôi nhất định sẽ không theo dõi ông trẻ Ben, dù tôi chẳng sợ gì Wizard’s Slough hay một kẻ đội mũ trắng), một việc nằm ngoài mong đợi xảy đến. Ông trẻ Ben ra về đường đột như lúc đến, chẳng nói lý do, cũng chẳng đòi con ngựa lùn. Ông để lại Ruth, nhờ mẹ chăm lo cho cô cháu, cho đến khi ông có cơ hội đưa cô về lại Dulverton an toàn. Mẹ mừng rỡ một cách lộ liễu, Ruth cũng vui chả kém, dù cô không dám thể hiện ngoài mặt. Vì ở Dulverton, cô phải quản lý thực phẩm và những người trông coi cửa hàng - một công việc cô chưa từng yêu thích và cảm thấy thoải mái với nó. Quả thực cô đã thay đổi nhiều so với ngày mới đến đây. Cô học được tính cách thẳng thắn, lòng tốt cùng những tiếng cười vô ưu của chúng tôi.
Mùa gặt lúc này cũng vừa kết khúc, các đụn rơm đã được lợp mái, đảm bảo đương đầu được với những trận bão dữ dội từ phía tây nam. Sau khi cánh thợ gặt ra về cùng món tiền công hậu hĩnh và những lời cảm ơn, tôi bắt đầu nóng lòng muốn gặp Lorna. Tôi năn nỉ Annie nói rõ cho Sally Snowe biết rằng tôi không thể đáp lại tình cảm của cô. Đương nhiên Annie không muốn làm Sally buồn, cũng sẽ không khiến cô nghĩ rằng tôi nghi ngờ tấm thịnh tình cô dành cho tôi cũng như sự quan tâm của cô đối với công việc làm bơ và phô mai nhà chúng tôi. Tôi thiết nghĩ chúng tôi không nên để Sally lãng phí thời gian của mình thêm nữa, vì cô xinh đẹp, và có nhiều chàng trai sẵn lòng cưới cô.
Annie đã làm chuyện này tốt ngoài mong đợi. Theo như em kể sau đó thì em đã cho Sally biết chuyện tình buồn của tôi. Đương nhiên em không nói rõ người tôi yêu là ai và ở đâu. Em chỉ muốn giúp cô ấy hiểu mình không còn cơ hội với tôi nữa. Sally thay đổi sắc mặt một chút khi nghe chuyện, rồi tiếp tục công việc vắt sữa như chẳng có gì.
Ở quê tôi, người ta dùng hai loại tháng, âm lịch và dương lịch. Vì quá nóng lòng muốn gặp Lorna nên tôi cố tình tính theo tháng âm lịch để đỡ được vài ngày. Thế là đúng tám tuần sau, tôi quyết định đi tới chỗ Lorna, lòng khấp khởi hy vọng, mang theo chiếc nhẫn ngọc trai, tất cả chỗ trứng tươi có thể tìm được và gần hai chục con cá hồi nhỏ bắt được ngoài suối. Tôi bắt cá trong niềm hoan hỉ (khó có thể diễn tả được bằng lời dù đến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ mồn một), hình dung em sẽ thích đến thế nào khi nhìn thấy chúng. Tôi thậm chí còn nghĩ sau khi Lorna nhận nhẫn của tôi, và bày tỏ tình cảm em dành cho tôi nhiều đến thế nào, Nữ hoàng của tôi sẽ mời tôi ở lại dùng bữa tối cùng em. Thế nên trước khi đi, tôi dặn Annie (niềm an ủi lớn lao nhất đối với tôi lúc bấy giờ) tìm cách giải thích nếu tôi có về muộn.
Nhưng hỡi ôi, tôi thất vọng hoàn toàn vì dù đã kiên nhẫn đợi hết giờ này sang giờ khác, vừa thấp thỏm sợ bị phát hiện, tôi vẫn không thấy bóng dáng Lorna đâu. Tệ hơn nữa, chỗ cá hồi và trứng bị gã Carver Doone đê tiện, trâng tráo cuỗm mất. Chẳng đáng gì, nhưng tôi vẫn bực chết đi được. Vì muốn giữ cho chúng tươi ngon và không phải khệ nệ suốt, tôi đặt cả thảy xuống một thảm rêu bên cạnh dòng nước, phủ lá lên. Thế rồi tôi quên bẵng đi vì mải quan sát từ chỗ ẩn nấp bên dưới cây liễu (tôi không thích tự tiện đi vào chỗ trú ẩn của Lorna mà chưa có sự cho phép của em; thực ra tôi có trộm nhìn vào để biết là em không hề có ở đó). Trong lúc đang nghịch chiếc nhẫn trong túi dưới ánh trăng non vừa mới nhú, tôi phát hiện một người đàn ông to lớn đang thả bộ xuống thung lũng. Gã đội chiếc mũ rộng vành, mặc áo choàng không tay bằng da, đi đôi ủng da nặng nề cao tới đầu gối. Tệ nhất, trên vai gã là khẩu các bin dài ngoẵng. Vì chẳng có gì để đấu với gã ngoài cây gậy, đồng thời nhận thấy tránh voi chẳng xấu mặt nào, tôi lẹ làng rút lui vào kẽ nứt, quan sát từ phía sau một tảng đá qua cái lỗ nhỏ tôi đã tự đục lấy.
Gã khổng lồ xuất hiện cách tôi chừng năm mươi mét. Lúc này, trời vẫn còn sáng nên khi gã đến gần, tôi có thể nhìn rõ nét mặt gã, dù không giỏi nhìn người nhưng ở gã có gì đó khiến sống lưng tôi lạnh toát, kiểu như kinh hoàng. Chẳng phải là gã xấu xí, trái lại còn điển trai nữa là đằng khác - vạm vỡ, cường tráng, toát lên vẻ kiên cường. Từ mái tóc đen cắt ngắn bên trên vầng trán rộng, hàm râu quai nón đen dài tới chiếc cằm ngắn và vuông vức, không một đường nét nào cho thấy sự yếu đuối hay thiếu quyết đoán. Chẳng có gì khôi hài, chẳng có gì vui vẻ, chẳng có dấu hiệu của những nụ cười - chẳng có gì làm nên một người mà ta dễ dàng yêu mến. Gã có thể là một người tốt nếu không vì đôi mắt xanh sắc lạnh lóe lên sự ham muốn bất chấp và hung tợn.
Quý vị đừng vội tin rằng chỉ trong chốc lát tôi nhận ra ngần ấy thứ, vì tôi vốn chậm chạp, thường phải mất kha khá thời gian mới tiêu hóa được các sự việc. Chỉ là tôi muốn viết ra cho xong tất cả những gì tôi biết về gã, dù chẳng nhiều nhặn gì. Thực ra lúc đó tôi chỉ biết tức tối nghĩ thầm: “Cái tên có được Lorna là thế này đây!” Tôi thấy mình có quyền tức giận (dù đương nhiên đời nào tôi cho phép em đi xa như thế), gần như mong gã thò đầu vào chỗ tôi đang nấp vì tôi đã thủ sẵn cây gậy tần bì để bổ vào đầu gã khi có thời cơ. Giá như trong tay gã không có lấy một tấc sắt giống như tôi lúc này thì tôi chẳng việc gì phải sợ. Tuy vậy, gã chẳng nghi ngờ gì mà cứ điềm nhiên đi loanh quanh hệt một lính canh, và rẽ ngay chỗ mép nước.
Rồi gã quay lại, trông thấy chỗ cá hồi và trứng của tôi. Mấy cái lá úp ngược khiến gã chú ý, gã khom người giở đám lá ra. Tôi tưởng gã phát hiện ra tôi nhưng ngạc nhiên thay, gã lại có vẻ rất hả hê và bật cười gằn, vang đến chỗ tôi không một tiếng vọng:
“Ha ha! Charlie ơi là Charlie! Charlie ngư ông, tao bắt gặp mày mồi chài Lorna rồi nhé. Hóa ra cái đứa câu cá và ăn trộm trứng gà của Quân sư là mày. Charlie, hãy đợi đấy. Mày sẽ biết tay tao!”
Rồi gã ngang nhiên gói ghém chỗ cá cùng tất cả những quả trứng ngon nhất của em Annie, vừa đi vừa cười khùng khục đầy khoái trá. Thái độ trâng tráo của gã khiến tôi điên tiết đến mức suýt chút nữa nhào ra khỏi chỗ nấp để đuổi theo, nhưng sự sáng suốt đã kịp ngăn tôi lại. Ví như tôi có thể đấu tay không với gã thì đó cũng là một hành động rồ dại, vì bí mật sẽ bại lộ, đó sẽ là một trở ngại chết người giữa Lorna và tôi, hơn nữa không biết rắc rối gì sẽ đến với em. Vài ba quả trứng và mấy con cá bé teo có đáng gì đâu mà liều mạng. Tốt hơn cả là mặc kệ mối tổn thất vặt vãnh đó (dù cũng nhục và tức thật) hơn là đẩy tình yêu của mình và Lorna vào rủi ro, có khi còn toi mạng như chơi. Tôi nghĩ ai cũng sẽ đồng ý với tôi rằng rút lui vào chỗ trú ẩn, dù bị mất sạch chỗ thực phẩm một cách oan ức, là hành động sáng suốt.
Gắng đợi cho đến khi không thể đợi thêm được nữa, tôi lê chân về nhà, lòng trĩu buồn trong cơn gió đầu thu rền rĩ khắp vùng đất hoang lạnh. Tất cả vẻ đẹp của mùa gặt, tất cả niềm hân hoan đã biến mất, màn đêm buông nhanh như trút thêm sức nặng lên tôi. Kể từ hôm ấy, ngày nào tôi cũng đi, suốt những hai tuần, nuôi hy vọng công sức của mình sẽ sớm được đền đáp.
Có lần, tôi suýt bị bắn toi mạng. Là thế này. Tôi đang đợi ngay lối vào thung lũng (bây giờ tôi đã tuyệt vọng rồi nên hơi khinh suất), thay vì quan sát qua cái lỗ đục ở tảng đá như mọi khi, thình lình một viên đạn sượt qua, thổi bay vèo chiếc mũ mềm của tôi xuống nước, nhanh đến mức tôi không kịp chụp lại, nhờ cơn gió thuận và nước xuôi, trong chốc lát nó đã trôi cách xa tôi năm mươi mét. Theo phản xạ, tôi chỉ kịp lùi lại thật nhanh vào chỗ ẩn nấp, biết mình vừa thoát chết trong gang tấc, khi nghe tiếng viên đạn rít xuống kẽ nứt sâu như một con ong mật đực bị đuổi ra khỏi tổ. Khi nhìn xuyên qua vết nứt nhỏ, tôi trông thấy một cuộn khói vẫn còn lơ lửng chỗ bụi liễu gai, gã Carver Doone có lẽ vừa mới dừng lại để nạp đạn giờ đang xăm xăm tiến về phía lối vào để kiểm tra xem mình vừa bắn thứ gì.
Tôi chật vật nép mình trong chỗ trú ẩn, bên dưới là tảng đá trơn trượt có nước chảy qua. Kẻ thù của tôi sắp đến gần cái thác, nơi con sông bắt đầu cuộn sóng, gã dừng lại một, hai phút ngay chính cái chỗ tôi đã ngã xuống bất tỉnh nhân sự vào lần đầu tiên đến đây. Tôi có thể nghe gã thở hồng hộc, làu bàu như thể đang ngờ vực và bất bình, vì gã đứng cách tôi chỉ một mét. Tôi gom chặt nắm tay phải, sẵn sàng chiến đấu nếu bị phát hiện. Rồi thình lình dưới chân thác, cái mũ của tôi xuất hiện, tròng trành trong bọt trắng xóa, run rẩy hệt một con quạ bị thương. Hôm ấy, trước khi ra khỏi nhà, tôi lừng khừng không biết nên đội cái mũ nào, rốt cuộc chọn cái màu đen vì nghĩ nó đẹp nhất, đoán là nó phù hợp với Lorna.
“Rốt cuộc tao cũng giết được mày rồi nhá, con chim già kia.” Kẻ thù của tôi kêu lên đầy hả hê. “Bắn lần thứ ba mày mới chịu đi đời. Giỏi thì chế giễu tao nữa đi. Giờ thì hết quạ quạ làm tao mất giấc ngủ rồi nhá. Ha ha! Chẳng kẻ nào may mắn được Carver Doone này chiếu cố đến ba lần đâu.”
Tôi cười thầm trong bụng khi gã hí hửng bỏ đi. Thật tình, tôi thấy chán với cái việc ẩn nấp và chơi trò ú tim này quá rồi. Nếu không vì lo lắng cho Lorna thì có cho vàng tôi cũng chả thèm dẫn xác tới đây. Đã vậy còn bị ngứa mắt bởi một gã ngang sức, dù chưa có cơ hội mặt đối mặt nhưng sẵn sàng đấu tay đôi với gã vì gần đây tôi toàn gặp phải những kẻ yếu hơn mình trong các cuộc đấu vật hoặc đấu gậy. Càng ngày tôi càng sốt ruột vì chẳng thấy bóng dáng Lorna đâu. Nếu không vì Annie và những lời nguyện cầu của em, tôi đã liều một phen xông thẳng vào thung lũng Doone, mặc kệ ra sao thì ra.
Vào chính đêm ấy, hoặc đêm sau gì đó, tôi thấy Betty Muxworthy là lạ. Bà liên tục ra dấu cho tôi khi không có ai để ý, hết đưa tay lên miệng lại chỉ qua vai. Nhưng tôi chẳng thèm ngó ngàng đến bà vì đang không vui, với lại mặc định là bà chỉ muốn càu nhàu về mối bất bình nhỏ nhặt nào đó.
Rồi bà chĩa bùi nhùi vào tôi, ghé sát tai tôi thì thào như sợ người khác nghe thấy: “Larna Doo-un.”
Tôi giật mình, quay ngoắt người lại, nhìn bà trân trối, nhưng bà làm như không hay biết, bắt đầu cặm cụi cọ rửa cái bình sành bằng chổi xể.
“Ồ, Betty, để con giúp vú nào! Công việc đó quá nặng nhọc đối với vú.” Tôi kêu lên với sự hào hiệp đường đột, nhưng chỉ nhận lại một câu trả lời gọn lỏn.
“Tôi làm cái công ziệc này đã mười năm rồi Jan, có thấy nhọc nhằn gì đâu. Dưng nếu cậu chủ muốn đỡ đần bà vú dà này một tay thì cho lũ lợn ăn đi.”
Sau khi dành cho tôi một cái nháy mắt đầy ưu ái nữa (lần này thì tôi không lơ là), Betty đi lấy chiếc đèn lồng từ cái móc bên trong cửa. Rồi bà nhen nó lên, trước khi tôi kịp hỏi bà định làm gì, bà đã ra ngoài, chỉ về phía thùng đựng thức ăn cho lợn, dù thừa biết là cả Bill Dadds và Jem Slocombe phải dùng tới đòn gánh để cùng khiêng nó, bà nói với tôi bằng giọng nhẹ phớt hệt một cô gái nhờ một người mang hộ chiếc găng tay vậy. “Cậu Jan Ridd, mang cái này giúp tôi.”
Tôi lẳng lặng làm theo, tự hỏi bà định làm gì kế tiếp, liệu bà đã từng nghe đến việc ngược đãi người luôn vui vẻ nhận việc mà không nề hà gì chưa. Khi chúng tôi đến chuồng lợn, bà vẫn cầm đèn lồng, thình lình quay sang tôi, thấy tôi xách thùng thức ăn lợn bằng một tay dễ như không.
“Jan Ridd.” Bà nói. “Ở nước Anh này chưa người nào làm được như zậy. Cậu nhất định sẽ có được cô Larna.”
Trong khi tôi băn khoăn không biết làm thế nào cơ hội có được Lorna lại có thể phụ thuộc vào việc xách được thùng thức ăn lợn, và làm thế nào Betty lại có tiếng nói trong chuyện này (khi mà nó tùy thuộc hoàn cảnh và quyết định của Lorna), lũ lợn đang say giấc đồng loạt choàng tỉnh, tranh nhau gào lên đòi ăn.
“Lấy cái xô nhỏ múc đổ vào máng.” Betty hướng dẫn tôi cho lũ lợn ăn, trong khi bà cầm đèn lồng. Tôi ở với vú từ bé nên thừa biết bà sẽ không nói thêm một lời nào cho đến khi lũ lợn được cho ăn xong xuôi. Nhìn cảnh cả lũ nhao nhao lên như thế, tôi không đành để chúng đợi lâu hơn. Vài con chạy tới chạy lui, ré lên như sắp chết đói đến nơi, vài con xông vào mấy cái máng gỗ sồi, húc bừa vào nhau. Con hiền lành nhất thì cũng gác hai chân trước lên thành chuồng, hấp háy đôi mắt ti hí, ụt ịt nịnh nọt như muốn bày tỏ: “Nào, xin cho tôi thức ăn trước và ngon nhất.”
“Jan, mở cổng ra đi. Cẩn thận kẻo cái lũ háu ăn này nó táp vào tay đấy. Ụt ụt ụt! Gượm nào, gượm nào.”
“Betty!” Tôi lên tiếng khi lũ lợn đã vục mõm vào máng, chen lấn, xô đẩy, làm đổ thức ăn lên lưng nhau (cũng giống như chúng ta trong những đợt phát chẩn thôi). “Betty, vú còn để con đợi bao lâu nữa chứ? Con ngoan như một con lợn rồi đây.”
“Phải hông đó? À, nhắc mới nhớ, thứ Sáu tuần trước cậu nói cậu để râu quai nón. Cậu nhất định xẽ làm thế chứ?”
“Không, không, Betty, đương nhiên là không. Là con sai. Lẽ ra con nên nói con sẽ nuôi ria mép, để vú hãnh diện.”
“Vậy cậu nói dối rồi, Jan Ridd. Thừa nhận đi!”
“Không hẳn như thế, Betty. Nhưng đúng là con sai rồi, con xin lỗi vú. Biếu vú một đồng mua quà này.”
“Thôi, thôi!” Betty xua tay, nhưng vẫn nhận và cho nó vào trong túi. “Nghe tôi khuyên này, Jan. Cậu cưới con bé Zally Snowe đi.”
“Nếu cô ấy có của hồi môn bằng cả nước Anh này thì may ra. Ồ, Betty, vú biết như thế nào là tốt hơn cho con mà.”
“Không đâu, tệ hơn thì có, Jan à. Chuyện này xẽ làm tan nát trái tim người mẹ tội nghiệp của cậu mất. Cậu thử nghĩ mà sem! Cậu yêu cô Larna nhiều đến vậy sao?”
“Bằng cả trái tim và tâm hồn. Nếu không đến được với Lorna, chắc con chết mất, Betty.”
“Đến được hay không đến được thì rốt cuộc cậu cũng chết mà. Thế cô ấy có yêu cậu không, Jan?”
“Con hy vọng là có, Betty. Con hy vọng là cô ấy yêu con. Vú nghĩ sao về chuyện này?”
“À, vậy thì tôi không nói nữa. Tôi biết thanh niên là thế nào mà, cũng như biết lũ lợn con ấy. Tôi từng xống cái thời của các cô, các cậu bây giờ.” Betty giơ đèn lồng lên, thách tôi dám cãi lại. Mắt bà lóe lên thứ ánh sáng tôi chưa từng thấy trước giờ. “Đừng hòng qua mặt tôi.” Bà nói tiếp. “Nhưng tôi thích chứng kiến tình yêu nơi cậu vì nó khiến tôi nhớ lại thời thanh suân tươi đẹp, dù giờ đã xuýt xoát lục tuần. Nào, Jan, để tôi cho cậu biết cái này. Thật tình tôi không chịu nổi khi nhìn thấy cậu mặt ủ mày ê suốt như vậy. Cúi đầu xuống nào, như lũ lợn ấy.”
Tôi làm như bà bảo và Betty thì thào vào tai tôi: “Buổi sáng nhé, cô gái của cậu không thể ra ngoài vào buổi tối đâu. Cô ấy nhờ tôi nhắn lại cho cậu như vậy.”
Quá đỗi vui mừng, tôi kính cẩn nghiêng mình bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến Betty trước sự chứng kiến của lũ lợn. Thoạt tiên, bà không tỏ vẻ phật ý gì. Nhưng rồi bà đứng thẳng người lên hệt một cây chổi, trừng mắt nhìn tôi, vờ giận dữ.
“Hỗn. Cậu cứ tiếp tục buồn bã nữa đi, mặc cậu đấy, Jan.”