T
háng Mười một đến, trong khi chúng tôi đang gieo lúa mì thì một vị khách xuất hiện.
Đó là ngài Jeremy Stickles, người bạn tốt của tôi ở London, cũng là người mà mẹ tôi mang ơn sâu sắc. Có vẻ như ông tận dụng hết mức điều ấy vì đã biến nhà của chúng tôi thành cơ quan đầu não của mình, muốn chúng tôi lúc nào cũng sẵn sàng chờ lệnh ông. Buổi tối, ông muốn ra ngoài lúc nào thì ra, buổi sáng, ông muốn về lúc nào thì về, chúng tôi phải chuẩn bị ngựa hay thực phẩm bất kỳ lúc nào ông cần. Chúng tôi biết ông đang lo việc Đức vua giao, toàn quyền sử dụng quân đội và lính liên lạc. Chúng tôi cũng biết bất kỳ khi nào ra ngoài, ngay cả lúc ngủ, ông luôn mang bên mình khẩu súng nạp đầy đạn cùng một thanh kiếm sắt nằm trong tầm tay. Ông còn có bằng phong cấp sĩ quan, có dấu của hoàng gia hẳn hoi. Có nghĩa là tất cả thần dân tốt, tất cả sĩ quan thuộc bất kỳ cấp bậc nào, nhất là các thẩm phán, bắt buộc phải hỗ trợ ông hết sức mình bất chấp hiểm nguy.
Đương nhiên, ngài Jeremy Stickles hiểu tính phụ nữ nên không dám để lộ thực chất công việc của mình. Nhưng sau một thời gian, nhận thấy có thể nhờ cậy tôi được, và việc không để tôi tham gia là một thiệt thòi lớn, ông bèn đưa tôi đến một nơi vắng vẻ, kể tôi nghe gần như tất cả sau khi buộc tôi phải thề là không được tiết lộ với bất kỳ ai nếu không được phép của ông cho đến khi xong việc.
Lúc này - tức là lúc tôi đang viết câu chuyện này - đương nhiên sự việc đã chấm dứt từ lâu và cũng đã bị lãng quên, ngoại trừ những ai từng chịu đau khổ. Vì vậy tôi có thể kể lại toàn bộ mà không hề mang tiếng bội tín. Một đêm nọ, ngài Stickles đang trên đường thực hiện nhiệm vụ gì đó của mình như thường lệ thì gặp tôi về nhà. Khi tôi nửa đùa nửa thật về hành tung bí mật của ông, Stickles đưa mắt nhìn quanh, dắt tôi đến một khoảnh đất trống trên cánh đồng cỏ ba lá bên cạnh.
“John này!” Ông nói. “Chú em có quyền biết tất cả chuyện này vì chú em có được niềm tin từ ngài thẩm phán tòa án tối cao rồi. Chỉ có điều, ngài thấy chú em còn thiếu mềm dẻo, không được trời phú cho đầu óc tinh nhạy.”
“Tạ ơn Chúa vì điều đó.” Tôi đáp.
Ông buộc tôi phải thề giữ kín bí mật trước khi tiếp tục, giọng nghiêm trang, ra vẻ vô cùng quan trọng.
“Có vài người chuyên lập mưu, vài người khác là nạn nhân của âm mưu đó, lại có những người khác nữa chuyên làm sáng tỏ những âm mưu. Ta thuộc nhóm thứ ba, đó là một công việc rất bạc bẽo, chẳng mang lại lợi lộc gì, dù đòi hỏi khá nhiều tâm trí, sức lực. Công việc này quá nguy hiểm nên người thực hiện cần gan góc, bình tĩnh, nhạy bén, nhân phẩm trong sạch. Ta đã được chỉ định làm nhiệm vụ cao cả này. Jack à, mặc dù chú em ở London lâu hơn mong đợi, nhưng lại hoàn toàn mù tịt những vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia và nhân dân.”
“Vâng, đúng vậy.” Tôi đáp. “Tôi thấy không biết gì hóa ra lại hay. Mặc dù tôi nghe rất nhiều về chúng vì ai ai cũng nói, và chuẩn bị tinh thần đón đợi những bất trắc. Thế nhưng người thì nói thế này, kẻ thì bảo thế khác, họ nói quá nhiều về Birminghams, Tantivies, đảng Whig, đảng Tory, vũ khí tự vệ của tín đồ Tin lành và đại loại thế, đến mức tôi chỉ muốn bịt hai tai để chẳng phải nghe thứ gì.”
“Đúng thế, John, chú em làm thế là đúng. Hãy để Đức vua làm theo ý của ngài. Ngài có quá nhiều nhân tình để trở thành người đứng đầu nước Anh. Không ai cần sợ ngài, vì ngài không giống như vua cha, ngài sẽ có cách riêng của mình mà không ngăn người khác đi theo cách riêng của họ. Ngài biết rõ phụ nữ là thế nào, vì ngài không bao giờ hỏi họ điều gì. Hồi ở London, chú em có nghe nhiều về Công tước Monmouth rồi chứ?”
“Không nhiều lắm.” Tôi đáp. “Không bằng một nửa ở Devonshire. Tôi chỉ biết ngài là một người tốt bụng, rất hào phóng, đã bị đảng Tory trục xuất. Đa số mọi người mong ngài quay lại, thay vì Công tước xứ York - người đang thử dụng cụ tra tấn hình giày ống ở Scotland.”
“Nhiều việc đã thay đổi kể từ khi chú em rời thành phố. Đảng Whig đang trỗi dậy, qua hành động điên rồ là giết ngài Russell đáng thương của đảng Tory. Hiện giờ là ngài Sydney (nếu bị Đức vua kết tội); sự việc sẽ lại tồi tệ hơn. Bất mãn dấy lên khắp nơi, sớm muộn gì bạo động cũng sẽ nổ ra. Đức vua có lực lượng quân đội hùng hậu ở London, dự định điều thêm lính ở Tangier. Nhưng ngài không thể ra lệnh tại những vùng nông thôn, và lực lượng dân quân không thể giúp ngài nhiều, cho dù họ có nhận lời đi nữa. Giờ thì chú em hiểu ta rồi chứ, John?”
“Thực sự là không ạ. Tôi không biết Tangier có liên quan gì đến Exmoor, cũng không biết Công tước Monmouth có liên quan gì đến Jeremy Stickles.”
“Cái đồ nhà quê cục mịch này! Jeremy Stickles liên quan nhiều đến Công tước Monmouth chứ. Sau khi đạo luật Loại trừ bị thất bại và Đảng Whig bị trừng phạt một cách cay đắng vì những vụ đẫm máu họ gây ra, họ sẵn sàng thực hiện bất kỳ hành động bạo lực nào. Lợi thế đang nghiêng về phía họ. Kéo cưa luôn luôn là mốt của đất nước này, Đảng Whig sẽ sớm là thợ cưa đứng ở trên cao.”
“Nhưng…” Tôi vẫn còn mù mờ. “Đức vua là thợ cưa đứng ở trên cao mới đúng chứ, theo một câu ngạn ngữ của chúng tôi. Sao lại là Đảng Whig được?”
“Chú em đúng là ngốc hết thuốc chữa rồi, John. Khâu một hạt dẻ còn dễ hơn nói cho chú em hiểu về hiến pháp. Thôi bỏ qua, bỏ qua. Ta đã từng chứng kiến một cậu bé năm tuổi còn hiểu biết về chính trị hơn cả chú em đấy.
Thôi, đừng có tự ái thế chứ, chú em. Lỗi của ta vì đã quá chi tiết. Lẽ ra ta nên xem xét trí năng của chú em.”
“Đừng, ngài Jeremy, đừng xin lỗi. Tôi mới là người phải xin lỗi, nhưng, có Chúa biết, tôi không có lòng tin hay quan điểm chính trị gì cả.”
“Cứ thế đi!” Ông đáp. “Chú em sẽ dễ đi đời hơn đấy. Thôi, nói tóm lại là thế này (không đảng phái gì hết, kẻo cái đầu của chú em lại làm việc quá sức), ta nằm vùng tại đây để theo dõi một âm mưu bí mật chống lại Đức vua, hơn cả là sự kế vị đúng với quyền được hưởng.”
“Cuối cùng thì tôi đã hiểu. Mà này, ngài Stickles, sao ngài không nói ra ngay từ đầu luôn cho rồi, cách đây gần một giờ ấy?”
“Ừ, có lẽ vậy.” Ông đáp, giọng thông cảm. “Cái mũ của chú em gần rơi khỏi đầu rồi kìa, vì chú em bắt não làm việc nhiều quá đến mức nó sưng phồng lên luôn. Trước giờ chú em quen với việc đánh đấm rồi, nên đây là cái lợi của chú em. Nó cũng không khiến cái đầu to của chú em phải nạp nhiều thứ. Bây giờ ta cầu chúc cho chú em mạnh khỏe, đạt được mục đích của mình - nghiêng về phe chiến thắng, và đừng quan tâm gì đến phe kia.”
Tôi vội nói: “Đó chính là điều tôi muốn làm, giá như tôi biết bên thắng là bên nào, vì lợi ích của Lorna - à không, ý tôi muốn nói là, vì lợi ích của người mẹ yêu quý cùng hai đứa em của tôi, cả nông trại nữa.”
“Ha!” Jeremy Stickles kêu lên, cười vào khuôn mặt đỏ dừ của tôi. “Lorna, chú em vừa nói đến Lorna nào thế? Tên một cô gái, hay ánh sáng-của-tình yêu?”
“Không phải việc của ngài.” Tôi vênh mặt, đáp. “Ngài cứ thu thập thông tin bí mật bao lâu cũng được, và dùng nhà chúng tôi để làm việc đó, không cần báo trước hay xin phép gì hết. Nhưng nếu tôi phát hiện ra ngài dò la những chuyện riêng tư của tôi thì dù có huy động tất cả quân lính của Đức vua ở London cùng đoàn kỵ binh của ngài cũng chẳng cứu được ngài khỏi tay tôi đâu.”
Mất bình tĩnh bởi kiểu nói khó nghe của Jeremy về Lorna, tôi nhìn ông trừng trừng, lớn giọng hằm hè khiến cho sự gan góc và nhân phẩm trong sạch của ông lặn đâu mất tăm. Ông co rúm người lại, cứ như thể tôi sắp sửa đánh một người nhỏ bé như ông vậy.
Rồi tôi bỏ ra đồng làm việc để đẩy cơn giận bừng bừng ra khỏi người trước khi gặp mẹ. Thú thật, lúc bấy giờ sức mạnh của tôi đang đạt đỉnh, bị bủa vây bởi hàng loạt rắc rối. Trong khi đó, mọi người thường lợi dụng tính khí nóng nảy của tôi. Mỗi khi tôi tức giận, một luồng khí nóng chạy khắp người, tất cả cơ bắp nóng rực lên, tôi cứ thấy bứt rứt, muốn dùng hết sức ném đi một vật gì đó. Sau đó, tôi luôn rất xấu hổ, buồn cho bản thân, vì biết sức mạnh thể xác quá tầm thường so với sức mạnh trí óc, chỉ có kẻ hèn nhát mới viện đến nó để ứng phó với kẻ yếu hơn mình. Giờ đây lại có thêm mối bất hòa nho nhỏ với ngài Stickles, tôi không ngớt trách bản thân về điều đó vì nhớ lại lúc ở London ông đã tử tế và tốt bụng với tôi như thế nào. Kỳ thực, tôi cũng nhiều lần xin lỗi ông vì cơn giận ngu ngốc của mình, sẵn sàng chịu mọi hình phạt, ông chỉ nói chuyện chẳng đáng gì, chẳng có gì để mà tha với thứ cả. Thường khi người ta nói thế, sự thật là họ không hề tha thứ gì cả.
Tuy nhiên mối bất hòa ấy đối với tôi mà nói chẳng gây tổn thất gì lớn lao bởi lẽ nhờ thế mà tôi tránh được sự liên quan đến bất kỳ việc làm ám muội nào của Stickles - những việc mà tôi không có chút gì ham thích. Tôi chỉ sợ mình trở thành kẻ vong ân bội nghĩa trong mắt ông; nhưng khi ông không cần đến tôi, tôi biết làm thế nào? Tuy nhiên, vài ngày sau, tôi đã làm cho ông một việc có ích. Rồi quý vị sẽ biết.
Lúc này, tôi lại rơi vào một tình cảnh khốn khổ khác khiến tâm trí rối bời, không thể nghĩ được gì. Chưa khi nào trong đời mình tôi thấy khó che giấu sự bồn chồn bằng khi đó. Đột nhiên, chẳng hề báo trước, tất cả những tín hiệu của Lorna mà tôi vẫn quen được nhìn thấy hằng ngày, xem đó như nguồn vui sống của mình biến mất. Hết ngày này đến ngày khác, những dấu hiệu của Lorna vẫn bặt tăm, lòng tôi mỗi lúc một thắc thỏm, trĩu nặng.
Tôi đến ba lần, đợi rất lâu dưới chân thung lũng, nơi dòng suối giờ đã ngả nâu, chảy cuồn cuộn sau những trận mưa mùa thu, còn rừng cây trơ trụi lá chìm trong trầm mặc. Nhưng cho dù tôi có đợi cả ngày, nhiều khi đến tận đêm, tuyệt nhiên không có tiếng bước chân êm ái nào tiến lại gần tôi, không có giọng nói ngọt ngào nào thoảng đưa trong không khí. Xung quanh yên ắng, u ám, chìm trong cô tịch. Như thể người yêu tôi đã chết, và những cơn gió đồng loạt rủ nhau đi viếng em.
Có lần tôi mon men tiến sâu vào thung lũng, thậm chí còn xa hơn khu rừng nơi Lorna tìm thấy và rồi mất đi người họ hàng gan dạ của mình ngay sau đó. Đi ngược theo dòng nước, nhờ sương mù che khuất, tôi đến được một cái góc nằm không xa ngôi nhà cách biệt so với những ngôi nhà khác. Ấy là một khối kiến trúc được xây thô sơ bằng gỗ và đá, vuông vức, thấp tè, không có chút ánh sáng nào hắt ra từ các cửa sổ. Biết đây là chỗ ở của Carver (tôi đoán vậy theo lời kể của Lorna), tôi thấy tò mò (chắc vì ghen tuông) muốn nhìn gần hơn xem thế nào. Thế là tôi bò ngược lên dòng suối, nỗi sợ vơi đi phân nửa vì bị lấn át bởi sự háo hức muốn tìm hiểu. Kỳ thực là chẳng có gì phải sợ bởi trời lúc này đã tối đến mức một người đi săn chim khó lòng nhắm trúng mục tiêu. Vốn tự hào mình có sức mạnh hơn người, tôi chỉ sợ mỗi súng.
Tuy nhiên, tôi vẫn rất thận trọng, vì ý thức được tình cảnh của mình hiện giờ có thể ví như rơi vào hang rắn. Đằng sau nhà Carver là con suối nước chảy xiết. Phát hiện ra một lỗ thông khí vừa họng súng hỏa mai, tôi ghé mắt nhìn vào nhưng không thấy động tĩnh gì. Vậy là chẳng có ai bên trong, tôi mừng như mở cờ trong bụng vì có thể suy ra là Lorna không hề ở chỗ Carver. Rồi tôi thận trọng xem xét ngôi nhà, các ô cửa sổ và cửa ra vào, cứ như một tên cướp đang tìm cách đột nhập tư gia bất hợp pháp. Sau này, quý vị sẽ thấy tôi làm thế không thừa chút nào cả.
Tôi cố ghi nhớ tất cả điểm mạnh, điểm yếu của nơi này, cả con suối chảy đằng sau nó cùng những bụi cây gần cửa ra vào. Tôi định bụng tìm hiểu toàn bộ ngôi làng, bỗng bị cản lại bởi một luồng ánh sáng đỏ quét từ bờ bên kia ngang qua dòng nước, hệt một sợi xích bên trên đầu tôi chừng bốn mươi mét. Trong ngôi nhà thứ hai, một tốp những kẻ sống ngoài vòng pháp luật đang chè chén ầm ĩ, nói cười rộn rảng, chẳng biết trời cao đất dày là gì, cứ như mình chẳng phải cướp vậy. Một vài tên còn thuyết giảng đúng sai một cách hùng hồn như thể bọn chúng biết được thế nào là phải trái. Dù lạnh và bồn chồn, tôi suýt nữa phì cười.
Đêm hôm đó, trước khi về nhà, giải thoát cho mẹ khỏi tình trạng sốt ruột vì trông ngóng, thắp lên những nụ cười trên khuôn mặt tái đi vì âu lo của mẹ, tôi đã hạ quyết tâm sẽ xâm nhập vào thung lũng Doone từ thượng nguồn để tìm hiểu tất cả những gì liên quan đến Lorna. Đúng ra tôi có thể đi vào từ lối dòng thác mà không bị nghi ngờ gì như đã từng làm, nhưng không có thời gian để cân nhắc. Lúc bấy giờ, có bao nhiêu nỗi bất an chất chồng lên tôi. Nào thì Jeremy Stickles bí mật rình rập mọi người. Nào thì ông trẻ Reuben âm mưu thứ quái quỷ gì chỉ có quỷ Satan mới biết. Nào thì người đàn ông đội mũ trắng ngoi lên từ huyệt mộ. Nào thì em Annie đem lòng yêu một tên cướp đường, khiến mẹ rối bời tâm trí, không biết phải tính sao. Nhất là Lorna rất có thể đang bị nhốt vào ngục tối, không chừng còn bị làm nhục cũng nên. Thế thì tôi còn đầu óc nào mà tính toán thiệt hơn, đi lối này hay lối kia. Nếu tôi bỏ mặc Lorna, nếu tôi để mặc em bị những tên ác ôn tâm địa xấu xa cưỡng bức, tôi còn mặt mũi nào sống trên đời này nữa.
Mớ ý nghĩ đó cứ chạy tới chạy lui loạn xạ trong cái đầu đang trở nên mụ đi của tôi. Trước khi đi ngủ, tôi quyết định ngày mai sẽ bắt tay thực hiện từng việc một. Chẳng gì có thể ngăn được tôi.