S
ợ rằng chuyến đi đến thung lũng Doone sắp tới lành ít dữ nhiều, tệ hơn nữa là tôi thậm chí chẳng thể bảo toàn được mạng sống, tôi tìm đến một luật sư có tiếng ở Porlock. Tôi chẳng có của nả gì nhiều, nhưng nông trại và đàn gia súc cũng không thể gọi là ít, nhỡ đâu tôi chết bất đắc kỳ tử thì ai mà biết phải xử lý chúng thế nào. Tôi không khỏi tủm tỉm cười mỗi khi nhớ lại hôm ấy. Tôi đánh đố ông luật sư già khi thông báo để lại gần như toàn bộ quần áo, mũ và tất cả đồ đạc của mình cho Lorna mà không cho ông biết em là ai, sống ở đâu. Kỳ thực, tôi khá là tự mãn vì đã khêu gợi được sự hiếu kỳ nơi ông ta, nhưng cái miệng cười móm mém và cách nói nửa đùa nửa thật của ông ta trước khi tiễn tôi ra về khiến tôi không khỏi bứt rứt.
“Một di chúc rất xuất sắc, chàng trai. Cậu đúng là một chàng trai tốt vì đang còn trẻ mà đã biết lo xa như vậy. Cậu ý thức được việc làm tròn bổn phận của một người con và trọng trách của một người anh trai. Còn người tên Lorna, ta đoán đó là tên một thiếu phụ mà cậu muốn thể hiện lòng tôn kính khi để lại một kỷ vật nho nhỏ. Xét về lý, người này và cậu không có mối quan hệ pháp lý rõ ràng, do vậy không thể nói được việc cậu yêu cầu có thể có hiệu lực hay không. Ha ha! Ta biết, ta biết! Đàn ông con trai các cậu cũng ong bướm lắm. Tiền công là hai guinea cho một di chúc hiếm có. Cậu rất cẩn thận đấy, chàng trai. Ái chà, chúng ta ai rồi cũng chết; người trẻ đôi khi ra đi trước người già ấy chứ.”
Tôi không chỉ nghĩ cái giá hai guinea cho mười lăm phút làm việc của một nhân viên là quá cao, mà còn thấy khó chịu với câu kết của ông luật sư nọ - chất giọng ông ta the thé như điềm báo chết chóc từ tiếng kêu rợn người của một con quạ. Tuy nhiên tôi vẫn giữ vững quyết tâm dấn thân vào lãnh địa gia tộc Doone để tìm hiểu chuyện gì đã xảy đến với Lorna. Trong chuyện này, tôi không tự cho mình là can đảm hay gì cả; đây chỉ đơn giản là sự chọn lựa giữa hai điều xấu, và đương nhiên điều xấu hơn nhiều là đánh mất Lorna.
Chuyến đi vòng quanh những quả đồi phía nam rồi đi lối cổng chính của gia tộc Doone dài hơn rất nhiều so với việc băng qua vùng đất thấp hơn và lén lút lẻn vào thung lũng ngay chỗ thác nước. Tuy nhiên, tôi không dám đi ngựa (vì sợ người của gia tộc Doone có thể ra ngoài làm công việc hằng ngày của họ). Tôi khởi hành vào buổi tối để không vội vã hoặc lãng phí bất kỳ sức lực nào trên đường. Thế là tôi men theo con đường chính của bọn cướp, bước đi thận trọng, không quên quan sát khắp các ngọn đồi và mọi ngóc ngách của thung lũng để xem có dáng người nào chuyển động không.
Mặc dù bóng tối bắt đầu lan dần, mặt trời lặn đã được một giờ hay hơn, nhưng vẫn còn đủ ánh sáng để tôi nhìn thấy con đường ngoằn ngoèo của bọn cướp ở đằng trước, giữa những ngọn đồi nhấp nhô, nơi con suối đổ xuống từ những ngôi làng cao hơn, hai bên bờ mọc đầy kim tước. Lúc này, tịnh không một bóng người, chẳng đồn bốt hay lính canh; nhưng tôi nghĩ đợi một chút đến khi trời tối hẳn thì sẽ an toàn hơn. Cuối cùng, tôi thấy mình đứng trên con đường dẫn vào cổng chính của gia tộc Doone.
Con đường thẳng tắp, kiên cố như được xẻ ra từ đá, có nước róc rách chảy dọc theo hai bên trơ trụi của nó. Không tìm thấy cây cối hay bất kỳ bụi rậm nào để nấp vào tránh đạn - tất cả đều toát lên vẻ lạnh lùng, đáng sợ, ngay cả trong đêm tốt mịt mùng. Đã vậy, có mùi gì như mùi đất nghĩa địa gây cảm giác như bị nhốt vào một hộp kín làm tôi muốn quay trở ra ngay lập tức.
Thật đúng lúc! Ngay khi tôi rón rén, thận trọng tiến đến gần lối ra vào, vầng trăng bình thường vẫn là bạn tốt của tôi nay hệt kẻ thù đột ngột hiện ra trên rặng núi đá phía tây, rót xuống thứ ánh sáng vằng vặc. Tôi vội lùi lại, nép vào chỗ khuất ở vệ đường bên phải để tiện quan sát cổng chính gồm ba lối ra vào.
Gác bên trên mỗi cái cổng vòm thô sơ là một thân cây sồi to chắc, toát lên vẻ hăm dọa. Nghe nói nó có thể được thả rơi xuống bất thình lình để nghiền nát hai chục người và ngăn ngựa tiến vào. Phía sau thân cây sồi là lối vào bằng đá, hai bên rậm rạp cây bụi và gỗ chất đống, với một rìa đá chìa ra bên trên. Chắc phải đến ba mươi người có thể nấp ở đó cùng lúc mà không bị phát hiện để nã súng vào bất kỳ kẻ nào xâm nhập. Không cách nào đánh bật họ được, vì bên dưới họ sáu mét hoặc có khi hơn, vách đá trở nên thẳng đứng, trong khi phía trên đầu họ, nó nhô lên cao vút chừng chín mươi mét, lại còn chìa ra đến mức không ai có thể ném gì vào họ, dù cho có người nào leo được độ cao ấy. Để vào đến sào huyệt gia tộc Doone là phải xuyên qua những căn phòng bằng đá mà chỉ chủ nhân mới biết.
Nhưng điều thông minh nhất ở họ, khiến kẻ thù hoang mang nhất là thay vì chỉ có một lối vào thì lại có đến ba cái na ná nhau, chẳng lấy gì để phân biệt cái nào ra cái nào - tất cả đều không rào chắn, há miệng đen ngòm dọa nạt. Nghe đồn là mỗi khi có nguy hiểm, ngày nào họ cũng thay đổi lối ra vào, chuyển hướng hai cái còn lại bằng cách trượt những cánh cửa mở ra những kẽ nứt sâu và vực thẳm.
Giờ tôi có thể nhìn thấy ba cổng vòm thô ráp, xù xì, đen ngòm, đáng sợ, và tôi biết chỉ một trong ba cái có thể dẫn tôi đến thung lũng. Không cách gì xác định được cái nào là lối đi chính xác, cái nào gần như là cửa tử - vì giữa những vách núi đứng sừng sững và dòng nước sâu không đáy, không chút ánh sáng nào lọt vào, liệu ai có cơ may sống sót? Thực lòng, tôi những muốn bỏ về, quên phắt chuyện này cho xong.
Tuy nhiên, tôi biết chắc một điều là tôi càng đứng lâu cân nhắc thiệt hơn thì lại càng thối chí. Tôi sực nhớ đến một ngạn ngữ Latin, có nghĩa là “con đường chính giữa là con đường an toàn nhất”.
Thế là tôi dứt khoát tiến thẳng vào lối chính giữa, quơ cây gậy tần bì dài đầu bịt thép dò đường. Xung quanh tối đen, tôi mò mẫm dọc theo bức tường, thấy sợ ghê gớm, nhất là khi ngoái đầu lại, tôi chẳng tìm thấy chút ánh sáng nào. Rồi tôi vấp phải thứ gì đó cứng và sắc lạnh, khiến tôi thấy chân đau đến mức phải viện đến hết sự có học và khiếu hài hước của mình để không thốt lên một tiếng chửi thề, như người London vẫn làm. Khi sờ vào nó, tôi nhận ra đó là một khẩu súng thần công và thấy khá an tâm, vì nếu đây không phải lối ra vào chính xác thì đời nào họ cho đặt loại vũ khí này.
Tôi tiếp tục đi, đau hơn và mệt hơn. Thật may là cú va chạm đó nằm trong ngưỡng chịu đựng của tôi, chứ nếu tôi cứ thế hét lên oai oái thì có thể đã đánh động bọn lính gác và ăn đạn ngay tắp lự rồi. Tôi gần như không có thời gian để lùi lại khi rẽ vào một khúc cua bên trên họ. Nếu đèn lồng được treo đúng chỗ, họ có thể đã phát hiện ra tôi, chỉ có điều tôi đã thấy ánh sáng trước khi rẽ.
Hình như chỉ có hai tên, tướng tá và vóc dáng đạt chuẩn Doone. Nếu chúng tay không như tôi thì chẳng việc gì tôi phải sợ. Nhưng xui cho tôi là mỗi tên trang bị một khẩu các bin dài, nặng, dựng sát ngay cạnh. Do vậy tôi cần phải hết sức thận trọng, nhưng ngay cả có thế chăng nữa thì cũng chẳng nên cơm cháo gì nếu may mắn không mỉm cười với tôi. Tôi bèn lùi lại chỗ khúc cua, áp má vào bề mặt đá, thận trọng ghé một bên mắt nhìn ra, ước lượng tình hình.
Hai tên gác cổng trông hơi say - một điều cấm kỵ đối với lính canh. Chúng ngồi trong một hốc đá, chiếc đèn lồng được đặt trong góc. Hai tên tu ừng ực rượu hay bia gì đó trong khi chơi trò búng ghim hoặc cờ của cánh chăn cừu, hoặc bài baxet, hoặc một trò chơi vặt vãnh nào đó na ná. Cả hai đều hút ống tẩu bằng đất sét dài ngoằng, khá là thời thượng ở London lúc bấy giờ. Tôi biết vì cái bóng được hắt ra rất rõ. Tên nào cũng cười ha há hết lần này đến lần khác, vì tưởng là mình thắng. Một tên ngồi co gối, tay trái đặt lên đùi, tên kia xoay lưng lại với tôi, trông béo hơn. Tên kia, mặc quần yếm bằng da như thể mới đi cưỡi ngựa về, tựa người vào đá, nửa ngồi nửa nằm. Tôi có thể thấy mặt y khá rõ nhờ ánh sáng của chiếc đèn lồng. Y khá điển trai, khiến tôi thấy không vui khi nghĩ đến việc y ở quá gần Lorna.
“Mình phải nấp thế này bao lâu nữa đây?” Cuối cùng, tôi tự hỏi vì quá chán khi nghe chúng hô “một điểm nhé”, “hai điểm này”, “Không, Charlie”, “Không, Phelps”. Tuy nhiên, tôi chỉ có thể lẻn đi mà không bị phát hiện nếu đợi cho đến khi chúng cãi nhau đến mức sinh ẩu đả. Rồi khi tôi quyết định rón rén đi ngang qua chúng (vì chỗ đó khá rộng), Charlie hay Charleworth Doone, tên trẻ hơn và cao to hơn, với tay lấy tiền vì chắc mẩm ván này mình thắng. Thấy thế, tên kia giật tay y lại, tuyên bố y không có quyền, thế là Charlie hắt ngay chỗ rượu đang uống vào mặt tên kia, xui thế nào lại trúng vào cây đèn, lửa xanh lóe lên (có lẽ do chất cồn) rồi tắt phụt. Một tên chửi đổng, tên còn lại phá lên cười. Trước khi chúng kịp làm gì, tôi lẹ làng đi ngang qua chúng, rẽ vào góc cua.
Và rồi, như một tên ngốc phù phiếm, tôi giả giọng cú kêu (được John Fry dạy) để làm chúng giật mình chơi. Tiếng kêu vọng lên mái nghe hãi hùng đến mức một trong hai tên đánh rơi hộp bùi nhùi, tên còn lại chộp lấy khẩu súng, lên cò nghe lách cách. Đến lúc ấy (đã quá muộn), tôi mới nhận ra mình điên rồ đến thế nào, vì nếu chúng nổ súng, chắc chắn cả thung lũng sẽ náo loạn lên, đổ xô đến vây bắt tôi. Tuy nhiên, may cho tôi, một tên bảo tên còn lại:
“Mẹ kiếp, Charlie, cái gì thế? Làm tao sợ chết khiếp, đến mức đánh rơi cái hộp. Đá lửa đâu mất rồi, các thứ nữa? Lưu huỳnh có bắt lửa từ ống tẩu của mày không đấy?”
“Tẩu tao ngóm rồi, Phelps, lâu rồi. Mẹ kiếp, tao đếch sợ cú kiếc gì đâu. Đưa tao cái đèn lồng, ở yên đây. Tao chưa xong với mày đâu, bạn hiền.”
“Ừ! Này, đi thẳng đến chỗ Carver nhé! Tụi kia chắc kéo bễ hết rồi vì tối nay không có gì. Đừng rề rà bên dưới cửa sổ của Thủ lĩnh nhé. Nữ hoàng chẳng có gì để nói với mày đâu, coi chừng Carver nện cái bấc mới vào đầu mày đấy.”
Thế là sau vài câu đùa cợt tục tĩu, cười hô hố và chửi thề, tôi nghe tiếng Charlie loạng choạng tiến về phía mình. Tôi đứng im không nhúc nhích, dù sau khi nghe y nói về Lorna, tôi chỉ muốn túm lấy y, nện cho một trận. Rồi chiếc áo khoác có viền của y chạm vào ngón tay cái của tôi, đôi ghệt da sượt qua đầu gối tôi. Nếu y tinh ý hơn thì hẳn đã quay lại và ngay lập tức xong đời dưới tay tôi; nhưng sự say xỉn đã cứu y.
Vì y vô hại nên tôi để y lảo đảo đi tiếp. Rồi tôi sực nghĩ dịp may đã đến - y chắc chắn sẽ đi ngang qua nơi tôi muốn đến, bên dưới cửa sổ nhà Lorna. Do vậy, tôi cứ thế đi bừa theo y; ngay sau đó, tôi mừng rỡ khi thấy dáng người của y nổi bật lên trên nền trời tràn ngập ánh trăng. Ngài Charlie nhà ta loạng choạng đi (đúng hơn là trượt) xuống một lối đi dốc, quanh co, có lắp lan can nơi những góc cua (giống ở Ilfracombe); y chắc phải lanh lẹ lắm mới không bị ngã. Tôi theo sau y, hy vọng (là vì y thôi) y đừng có quay lại và trông thấy tôi.
Nhưng may cho Charlie là thần Bacchus (tôi đọc được ở trường và ngạc nhiên ghê gớm - về thần Venus cũng ngạc nhiên không kém) đã bảo vệ cho y vì đã thờ phụng mình, nên y dẫn tôi đi rất đàng hoàng. Tôi có thể nhìn thấy rõ sào huyệt của bọn cướp, rải rác đây đó là những bụi cây, nhưng không có quá nhiều khoảng tối. Mặt trăng tròn vành vạnh khoác lên mọi thứ tấm áo choàng màu bạc.
Theo miêu tả của Lorna, cộng thêm những gì mẹ kể, tôi biết căn nhà đầu tiên là của Thủ lĩnh. Tôi càng tin chắc hơn khi trông thấy Charlie nấn ná ở đó một lúc rồi vội co chân bỏ chạy sau khi huýt sáo lảnh lót một giai điệu. Tôi chưa từng nghe bao giờ nhưng ở nó có một điều gì đó thật mới mẻ, ấn tượng. Tôi vô thức khẽ lặp lại giai điệu đó trong khi định vị các căn nhà và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ngôi làng. Dòng suối, thay cho đường sá, sáng lấp lánh, chảy thong thả giữa những ngôi nhà, róc rách vỗ về giấc ngủ của cư dân. Điều đó, cộng với địa thế ấm áp nhờ được bao quanh bởi bức tường đá và đồng cỏ xanh ngát, khiến nó tựa như một thiên đường nho nhỏ chìm trong ánh trăng tĩnh lặng. Tôi nghĩ về tất cả những con người ở đó, đang yên giấc nồng với lương tâm thanh thản, sau khi khiến người khác làm việc cho mình, hưởng thụ cuộc sống không cần lao động nhiều nhưng lại được tiếng tăm lừng lẫy.
Charlie đi xuống ngôi làng, còn tôi thận trọng theo sau, cố hết sức có thể để ẩn mình trong những bóng râm, quan sát cửa sổ mọi ngôi nhà phòng khi có người thình lình thắp đèn. Khi tôi đi ngang qua nhà của Ensor, tim tôi nhảy vọt lên, vì trông thấy ánh sáng yếu ớt hắt ra từ ô cửa sổ cao hơn những cái còn lại. Chắc chắn đây là phòng của Lorna rồi vì tên cướp mặt dày nọ nhìn chằm chằm lên đó trong khi chu mồm huýt sáo. Giờ thì tôi chẳng còn sợ thứ gì nữa, trái lại còn can đảm hơn gấp mười lần vì nếu Lorna chịu cưới tên Carver vô lại thì em đã không còn ở với ông nội, mà chuyển đến sống tại căn nhà đáng nguyền rủa của gã rồi.
Nhẹ người với suy nghĩ đó, tôi vội chạy theo Charleworth Doone, thầm nghĩ giờ chưa phải lúc tấn công y, trừ phi mạng sống của mình bị đe dọa. Nấp sau một cái cây để tiện quan sát, tôi trông thấy cánh cửa của ngôi nhà xa nhất mở ra. Đó chính là Carver. Gã đứng ở cửa, đầu trần, không mặc áo. Tôi có thể thấy vòm ngực lớn rậm rạp cùng cánh tay của gã nhờ ánh sáng từ cây đèn trên tay gã.
“Đứa phải gió nào đến tìm tao vào giờ này vậy?” Gã làu bàu, giọng bực bội. “Thằng chó nào đêm hôm khuya khoắt mà chịu khó rình mò kiếm gái quá hử?”
“Bọn gái đẹp dành hết cho đại ca, không phải sao Carver?” Charlie đáp, cười ha ha. “Mấy thằng chó bọn em phải dùng bọn gái hạng hai mà đại ca không thèm chứ còn biết sao nữa.”
“Thế à?” Tên cướp hộ pháp lầm bầm giận dữ. “Tao sẵn sàng đợi thời cơ nhưng không lâu lắm đâu. Nghe cho rõ đây này, Charlie. Tao sẽ quẳng mày xuống sông bất tỉnh nếu còn thấy bản mặt đần của mày ở đó lần nữa.”
“Em biết rồi, đại ca. Tối nay đại ca hơi khó ở nhỉ? Em không phiền đại ca nữa. Em chỉ muốn nhờ thắp cây đèn thôi, và xin một ly rượu sơ-náp, nếu đại ca có.”
“Đèn của mày bị gì thế? Hên cho mày là hôm nay tao không đi gác.”
“Em và thằng Phelps đang gác thì một con cú lớn bay qua giữa hai đứa em. Nó hoảng sợ trước cặp mắt sáng dữ tợn của bọn em đến mức rơi phịch xuống, làm tắt đèn luôn.”
“Thật hay xạo đó mày, Charlie? Ngày mai chúng ta sẽ biết sự thật thôi. Đốt đèn lên và phắn đi. Tất cả những người đức hạnh giờ này ngủ yên hết rồi.”
“Vậy thì em cũng sẽ thế, sao đại ca còn chưa ngủ? Mà em uống rượu sơ-náp chưa nhỉ?”
“Nếu rồi, mày đã trả một món nợ xấu đấy. Mày nốc nhiều rồi. Biến đi! Tao hết kiên nhẫn rồi.”
Rồi gã đóng sầm cửa lại trước mặt Charlie sau khi y kịp đốt đèn. Charlie đi ngược lên chỗ gác, miệng lầm bầm lúc khật khưỡng ngang qua chỗ tôi nấp. “Thật là xui xẻo khi tên súc sinh già khó ưa đó là Thủ lĩnh. Đếch có chút máu tử tế nào trong người, chẳng hiếu khách, thậm chí chả bao giờ thèm ăn nói cho vừa lỗ tai.”
Tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực khi tôi đứng trong bóng râm bên cửa sổ phòng Lorna, khẽ gọi tên em. Ngôi nhà này có một tầng như những ngôi nhà khác, với các đầu hồi và chỉ hai ô cửa sổ thô nhám ở phía tây, có lẽ cả hai đều thuộc phòng của Lorna. Gia tộc Doone tự xây nhà vì không muốn ai biết về chỗ ở của họ. Đương nhiên tay nghề của họ rất vụng về. Hầu hết cánh cửa sổ họ cướp từ những ngôi nhà lân cận. Dù cách cửa sổ hơi xa, tôi không dám kêu to vì trông thấy một tên khác đang đứng gác trên đỉnh vách đá phía tây, bao quát khắp thung lũng. Tên này (vì không có đồng bọn để uống rượu hay chơi bạc cùng nên còn tỉnh táo) phát hiện ra bóng tôi in lên bức tường của ngôi nhà, bèn tiến về phía trước, lớn tiếng quát.
“Mày là ai? Nói mau! Một, hai, ba. Nói, không tao bắn bây giờ.”
Nòng súng chĩa thẳng về phía tôi rõ mồn một dưới ánh trăng. Hắn chỉ cách tôi năm mươi mét là cùng. Gần như tuyệt vọng, tôi bắt đầu huýt sáo. Một cách vô thức, giai điệu nghe được từ Charlie thoát ra khỏi đôi môi tôi. Âm thanh không được tròn đẹp vì tôi sợ đến run cả người, nhưng trước sự ngạc nhiên của tôi, gã lính canh lùi lại, hạ súng và chào. Ồ, thế gian này không một giai điệu nào ngọt ngào bằng giai điệu này!
Giai điệu đó là “thẻ thông hành” của Carver Doone (sau đó rất lâu tôi mới nghe nói đến), rồi Charleworth Doone bắt chước để tán tỉnh Lorna. Tên lính canh tưởng tôi là gã Carver đê tiện chuyên lén lút tới đây để tìm cách nói chuyện riêng với Lorna nhưng không muốn để lộ danh tính khi không cần thiết. Tên lính canh, có lẽ không muốn xâm phạm sự riêng tư của Carver, lui về vách đá một khoảng cách khá xa.
Tiếng quát vừa rồi của tên lính canh hóa ra lại giúp ích cho tôi vì Lorna lập tức xuất hiện bên cửa sổ, xem thử có chuyện gì, ngập ngừng kéo rèm. Rồi em mở tấm lưới xù xì, đưa mắt quan sát vách đá và cây cối, rồi thở dài buồn bã.
“Lorna, em không nhận ra anh sao?” Tôi né sang một bên, thì thầm vì sợ sự xuất hiện đường đột của tôi làm em giật mình.
Dù vốn nhạy bén, em vẫn không nghe được tiếng thì thầm của tôi nên vội đóng cửa. Tôi kịp chặn lại và ló mặt ra.
“John!” Em kêu lên, nhưng đủ bình tĩnh để không la lớn. “John, anh điên rồi.”
“Không điên mới lạ.” Tôi nói. “Em bặt vô âm tín như thế, hỏi sao anh không phát điên? Em biết anh sẽ đến, đúng không?”
“Vâng, em biết. Thôi, đừng cằn nhằn em nữa. Anh có thấy họ cho lắp những song sắt đáng ghét này không?”
“Thấy chứ. Anh sẽ giật tung chúng ra trước khi về. Nào, cho anh nắm tay em một chút.”
Tôi tham lam cầm cả hai bàn tay em, cảm thấy chúng run rẩy khi tôi áp chúng lên trái tim mình.
“Ồ, John, anh khiến em khóc mất thôi...” Em đã khóc lâu nay rồi còn gì nữa. “… Nếu anh cứ tiếp tục thế này. Anh biết chúng mình không thể có nhau, ai cũng phản đối tình yêu của chúng mình. Tại sao em lại đẩy anh vào đau khổ chứ? Hãy cố đừng nghĩ về em nữa.”
“Và em cũng sẽ cố như thế chứ, Lorna?”
“Ồ, vâng, John. Nếu anh thống nhất như vậy thì em sẽ cố.”
“Vậy em không cần cố bất kỳ điều gì như thế cả.” Tôi vội kêu lên vì giọng em vừa dễ thương vừa buồn bã. “Điều duy nhất ta sẽ cố là thuộc về nhau. Nếu chúng ta làm hết sức mình, Lorna, chỉ có Chúa mới chia cách được chúng ta.”
Thấy tôi nói quá hùng hổ, em vội rút một tay ra để làm dấu thánh giá trên ngực mình. Hình như nơi cổ họng nhỏ xíu của em có gì đó chặn lại, ngăn em trả lời.
“Nào, hãy cho anh biết.” Tôi nói. “Tất cả những việc này nghĩa là gì? Tại sao em không ra hiệu cho anh? Có phải ông nội em la mắng em không? Có phải em đang gặp nguy hiểm không?”
“Ông nội em đang ốm rất nặng. Em e là ông sẽ không sống được mấy nữa. Quân sư và con trai ông ta hiện là bá chủ thung lũng. Em không dám đi đâu cả vì sợ họ gây khó dễ. Khi em ra ngoài để gửi tín hiệu cho anh, Carver cố bắt em nhưng em nhanh hơn hắn. Gwenny giờ không được phép rời thung lũng nữa nên em cũng không thể gửi thư. Em rất khổ tâm vì sợ anh nghĩ em phản bội anh. Những kẻ bạo chúa giờ đây kiểm soát em rất chặt. Anh phải canh ở đây cả ngày lẫn đêm nếu muốn cứu em. Không gì có thể ngăn được họ nếu ông nội đáng thương của em... Ôi chao, em không thể chịu được khi nghĩ đến việc ông chết đi mà không có con trai vuốt mắt và con gái khóc thương.”
Ông có đủ con trai mà, nhiều nữa là đằng khác ấy chứ. Tôi toan nói vậy nhưng kịp dừng lại. “Tại sao không có ai túc trực bên ông?”
“Em không biết nữa. Ông rất lạ, gần như chưa một ai từng yêu quý ông. Mới chiều nay thôi, ông giận Quân sư đến điên người. Nhưng mà em không được phép giữ anh lại. Anh quá can đảm, John. Còn em thì quá ích kỷ. Ối, cái bóng đen kia là gì thế?”
“Chỉ là một con dơi đi tìm bạn tình thôi. Anh không ở lâu đâu. Em run bắn người lên thế kia, anh bỏ em đi sao đành hả Lorna?”
“Anh phải đi. Đi đi anh!” Em hối thúc. “Em chết mất nếu họ làm gì anh. Em nghe tiếng chân bà vú. Chắc ông nội cho gọi em. Anh tránh xa cửa sổ đi nhé!”
Hóa ra chỉ là Gwenny Carfax. Lorna đưa cô ấy đến bên cửa sổ và giới thiệu cô ấy với tôi.
“Ôi, em vui quá, John ạ. Gwenny, chị rất vui vì em đến. Chị đã muốn giới thiệu em với chàng trai của chị từ lâu rồi. Trời hơi tối, nhưng em có thể nhìn thấy anh ấy đấy.”
“Oa!” Gwenny vô cùng bất ngờ kêu lên, kiễng chân nhìn chằm chằm như thể đánh giá tôi. “Anh ấy hơn gia tộc Doone về khoản to con rồi đấy! Nghe nói anh ấy đã đánh bại quán quân đấu vật người Cornwall chúng em. Không ngang sức! Chơi vậy không đẹp!”
“Đúng rồi, Gwenny.” Tôi đáp, vì quả thực trận đấu đó không công bằng đối với nhà vô địch Bodmin. “Trận đấu đó không cân sức. Tôi thừa nhận điều đó.” Nghe tôi nói vậy, cô gái Cornwall không thắc mắc gì nữa.
“Vâng.” Gwenny đáp, gật đầu vẻ bề trên. “Nào, tiểu thư, hai người tiếp tục “ve vãn” nhau đi, để em ra ngoài canh cho.” Dù cách ăn nói không được tinh tế cho lắm, nhưng lời đề nghị này cho thấy Gwenny cũng khá là ý tứ, và tôi rất biết ơn vì cô bỏ ra ngoài.
“Em ấy là người tốt nhất quả đất.” Lorna nói, khẽ bật cười. “Lạ lùng nhất, chân thật nhất. Không gì có thể mua chuộc được Gwenny chống lại em. Nếu em ấy có vẻ nghiêng về phe kia, anh cũng đừng bao giờ nghi ngờ em ấy. Giờ thì chúng mình qua giai đoạn “ve vãn” nhau rồi, John nhỉ? Em yêu anh nhiều lắm, John. Chỉ có điều, anh hãy đi đi, John yêu quý, người hùng của lòng em. Nếu anh yêu em, hãy đi mau đi!”
“Làm sao anh đi được khi mọi việc còn ngổn ngang thế này?” Tôi lý sự. “Làm sao anh biết khi nào em gặp nguy hiểm chứ? Hãy nghĩ cách gì đó đi, em vốn lanh trí mà. Cách gì cũng được, rồi anh sẽ đi, không làm em lo sợ nữa.”
“Lâu nay em cũng đã nghĩ đến rồi.” Lorna đáp, giọng rành rọt, trong veo như tiếng nhạc. “Anh có thấy cái cây sát vách đá kia không? Trên đó có bảy tổ quạ. Anh có thể đứng chỗ nào đó an toàn để đếm được chúng không?” “Chắc chắn rồi, anh sẽ làm được. Anh sẽ sớm tìm được chỗ an toàn.”
“Gwenny rất giỏi leo trèo, em ấy đã lên đó vào mùa hè để ngắm nhìn bầy chim non, hết ngày này sang ngày khác, thách thức tụi con trai dám mó tay vào chúng. Giờ thì đương nhiên chẳng có chim hay trứng ở đó. Nếu một ngày anh thấy chỉ còn sáu cái tổ, có nghĩa là em đang gặp nguy hiểm và cần anh. Nếu còn năm thì em đã bị Carver đưa đi.”
“Trời ơi!” Tôi kêu lên thảng thốt, khiến Lorna hoảng sợ. “Đừng sợ, John!” Em thì thầm buồn bã, toàn thân bỗng lạnh toát. “Em có cách để ngăn hắn ta, hoặc ít nhất tự cứu lấy mình. Nếu anh có thể đến trong vòng một ngày sau khi hắn bắt được em, anh sẽ tìm thấy em bình an vô sự. Nếu trễ hơn, anh sẽ tìm thấy em chết hoặc sống, tùy theo tình hình, nhưng em cam đoan với anh một điều là em sẽ không bao giờ để mình bị làm nhục.”
Khuôn mặt xinh xắn của em ánh lên niềm tự hào, ngay cả trong tình cảnh u ám. Tôi sẽ không lợi dụng thời khắc nhạy cảm này để âu yếm em. Thay vì thế, tôi chỉ nói: “Chúa phù hộ cho em, em yêu!” Và em cũng nói điều tương tự với tôi, giọng buồn buồn. Rồi tôi nhanh chóng rời đi, men theo bóng tối của vách đá phía tây. Giờ thì tôi đã nắm được các đặc điểm quan trọng của lãnh địa gia tộc Doone và tôi khá hài lòng về điều đó. Tôi đến con đường quen thuộc để ra khỏi thung lũng, không phải xuống thác nước (trời tối thế này không an toàn), cũng không phải ngược lên chỗ trú ẩn của Lorna, mà là một lối đi do tôi tự khám phá, không cần phải kể dông dài.
Tâm trí tôi được cởi bỏ khỏi những âu lo nặng nề, dù trắc trở vẫn còn đó. Nhưng tôi chắc chắn một điều rằng nếu Lorna không thuộc về John Ridd thì không kẻ nào có được em. Mẹ tôi đồng ý rằng đó là nguồn an ủi lớn lao.