C
ư dân một vùng đất luôn tuân thủ pháp luật (nếu có một nơi như vậy) có thể vì soi mói mà lớn tiếng chỉ trích gay gắt vùng chúng tôi, nếu như họ không được cho biết toàn bộ sự thật. Vì chịu định kiến như vậy, nhiều người trong số chúng tôi xin phép được giải thích như thế nào và tại sao bọn cướp lộng hành đến thế mà chúng tôi chịu để yên được. Chúng tôi nào có muốn vậy. Chúa biết rõ điều đó. Chúng tôi cũng biết. Nhưng bọn cướp đâu phải đường đột ngang tàng chả coi ai ra gì như thế, mà từ từ từng chút, từng chút một rồi đến cực đại lúc nào chúng tôi không hay biết. Sự thể là như thế này. Nhân tiện để hầu chuyện quý vị, tôi xin kể ra đây vài sự việc mà mãi những năm sau này tôi mới được biết.
Khoảng đâu vào năm 1640 dương lịch, nước Anh trở nên hỗn loạn đến mức mất kiểm soát. Những điền trang rộng lớn ở miền Bắc đột nhiên bị sung công vì mối thù hận giữa các gia đình cùng sức ảnh hưởng lớn tại tòa án, cánh địa chủ đối mặt với sự phẫn nộ, thù địch của dân chúng và nghĩ rằng giữ được cái đầu trên cổ là may lắm rồi. Những điền trang này là đồng thừa kế, hay “cùng thuê” (tôi nghĩ họ gọi nó như vậy dù không biết nghĩa là gì). Nếu một trong hai chủ đất chết đi, người còn sống sẽ hưởng trọn, bất kể chúc thư.
Một trong hai đồng sở hữu là ngài Ensor Doone, một quý tộc có đầu óc sắc bén, còn người kia là anh họ của ông ta, Bá tước Lorne và Dykemont.
Bá tước Lorne lớn hơn người em họ Ensor Doone vài tuổi, ông ta đang tiến hành thủ tục phân chia đất để mỗi bên tự do sử dụng phần của mình thì thình lình một tai họa ập xuống bởi mưu chước và sự can thiệp của đàn bà. Thế là thay vì chia đất, họ bị chia cắt khỏi nó.
Quý ông kia vẫn còn giàu có, dù chi tiêu bị cắt xén chút đỉnh, nhưng ông em họ thì trắng tay. Ông ta nghĩ rằng người anh họ đã chơi xấu mình, tất cả là do lá đơn thỉnh cầu không công bằng của người anh họ mà ra. Nhiều người bạn khuyên ông ta nên gây áp lực với tòa án vì trước giờ ông ta không hề làm hại ai bất kể thế nào, và là một tín đồ Công giáo ngoan đạo (trong khi Bá tước Lorne thì không), chắc chắn ông ta sẽ được lắng nghe và có thể còn được giúp đỡ. Nhưng ông ta vốn tính tình nóng nảy, bốc đồng, dù đã cưới con gái của anh họ (người ông ta căm ghét vì lẽ đó). Ông ta không chịu nghe theo để vớt vát được chút đất nào hay chút nấy, mà bỏ xứ ra đi cùng với vợ, các con trai và chút tiền còn lại, sau khi chửi rủa mọi người thậm tệ. Về điều này, ông ta hẳn đã hoàn toàn sai, mà có lẽ đúng vậy thật. Nhưng tôi tin nếu lâm vào hoàn cảnh của Ensor, hầu hết chúng ta cũng sẽ làm vậy.
Vài người bảo trong lúc đau khổ và tức giận vì sự bất công, ông ta đã đoạt mạng một quan tòa vì tưởng ông này có nhúng tay vào việc chiếm đoạt đất đai của mình. Số khác lại cho rằng ông ta đã đối mặt với Vua Charles đệ nhất, theo cách không thể tha thứ được. Dù sao đi nữa, có một điều chắc chắn là ngài Ensor bị tịch thu tài sản và tước quyền công dân vì hành động quá khích.
Ông ta lùng sục khắp nơi để tìm kiếm người giúp đỡ với khá nhiều hy vọng vì nghĩ thuở còn sung túc, mình đã rất hào phóng, đối xử với ai cũng như bát nước đầy. Thực tế, thấy ông ta sa cơ lỡ vận, bọn họ cũng khuyên lơn này nọ, an ủi nhiệt tình, nhưng chẳng ai tỏ động thái gì hoặc chịu mở hầu bao để giúp đỡ ông ta. Tất cả những người ông ta đặt nhiều niềm tin, cả trong hoàng gia lẫn ngoài dân thường, khi biết chẳng hưởng được lợi lộc gì từ ông ta nữa thì thi nhau ngãng ra hết. Có lẽ điều này khiến ông ta đau lòng hơn cả việc mất đất đai và danh tiếng.
Cuối cùng, mang trong lòng nỗi tuyệt vọng ghê gớm, ông ta quyết định chuyển đến sống tại một vùng xa xôi hẻo lánh, nơi không ai biết đến mình. Thế là, một ngày kia (vận đen ập xuống chúng tôi), ông ta đến miền Tây nước Anh. Nơi chúng tôi sinh sống chẳng phải xa xôi hẻo lánh, ấy là theo cách nhìn của tôi (vì tôi chưa từng thấy nơi nào tốt đẹp hơn), nhưng đúng là cằn cỗi, rộng mênh mông và hoang vắng. Tại đây, ông ta phát hiện một nơi gần như dành cho chính mình: kín đáo, an toàn, không dễ vào. Vài người dân trong vùng mang cho ông ta ít thức ăn - lúc thì sườn lợn muối, khi thì thùng rượu táo, lần khác là thịt cừu hoặc ức thú rừng. Trong một khoảng thời gian ngắn, ông ta rất hiền lành, lương thiện. Nhưng khi việc ông ta đến đây không còn mới mẻ gì nữa, những người dân quê tốt bụng bắt đầu nghĩ rằng ngay cả một quý tộc cũng phải bỏ công sức ra làm lụng mới mong có cái ăn, hoặc nếu muốn người khác làm cho mình thì phải trả công. Thế là cánh nông dân trở nên ngán ngẩm cái cảnh chướng mắt đó, luôn miệng kêu ca với nhau rằng thật bất công khi sở hữu một thung lũng màu mỡ đến vậy mà đám trai tráng không chịu phát quang hay cày cấy chỉ bởi xuất thân từ dòng dõi quý tộc, còn bọn thanh niên họ Doone thì mỗi lúc một ngang ngược, cứ thích là lấy chứ chẳng thèm hỏi một tiếng.
Nhân đây, hãy cho phép tôi, với tư cách một người đáng tin cậy, chủ sở hữu năm trăm mẫu đất (được rào lại hay không là việc của tôi), cũng là người trông coi nhà thờ giáo xứ của mình (cho đến khi yên nghỉ tại nghĩa trang của nhà thờ), có vinh hạnh là bạn của Cha xứ - tôi chưa từng biết người đàn ông nào hút tẩu và uống rượu giỏi bằng Cha, cũng chưa người nào học giỏi bằng Cha (Cha cũng từng học tại trường Blundell) - hãy cho phép tôi được tuyên bố một lần rằng tôi là người dân ngoan đạo, mạnh mẽ, đầy nghị lực và là người ủng hộ chế độ quân chủ, không có bất kỳ nhầm lẫn nào về điều đó. Tôi phải xác nhận điều này bởi những ai có thói quen đánh giá xúc xích qua vỏ bọc của nó có thể hiểu sai tôi qua cung cách ứng xử thẳng thắn và lời ăn tiếng nói thô mộc. Tôi cam đoan với họ là tôi sống thật với lòng mình, không hối tiếc điều gì ở bản thân.
Mới đầu họ chỉ có chục người là cùng, tính cả vài hầu cận được ngài Ensor giữ lại, vậy mà chẳng hiểu làm sao chỉ trong một thời gian ngắn, con số ấy tăng lên gấp nhiều lần. Nhờ thịt thú rừng (ở đây chúng tôi gọi là thức ăn tăng lực) chăng? Hay thịt cừu Exmoor? Hay không khí trong lành của vùng đất hoang sơ này? Bất kể thế nào, quy mô gia tộc Doone tăng lên tỷ lệ nghịch với sự lương thiện của họ. Thoạt đầu, họ mang về vài người phụ nữ, lấy được tiếng thơm là có lòng nhân đức. Dần dà, họ thêm người bằng cách chiếm đoạt. Họ bắt đi con gái của nhiều nông dân lương thiện. Lúc đầu, mấy cô ấy không vui, nhưng sau một thời gian cũng quyến luyến và an cư tại đó, sinh con đẻ cái. Tôi thấy hình như phụ nữ thích đàn ông khỏe mạnh hơn là yếu ớt vì họ cần một chỗ dựa vững chắc để được bao bọc, chở che.
Cánh đàn ông quê tôi, mặc dù chắc khỏe, trong sáu mươi người chưa chắc tìm ra một người sánh bằng người của gia tộc Doone. Nếu cho hai người đứng cạnh nhau thì người của chúng tôi trông không hơn gì một gã thợ may. Chúng tôi có thể một chọi một với bọn họ (nếu chúng tôi chịu khó chọn lựa người khắp vùng và cả ngoại vi Exmoor ), cho họ thấy cú ném dùng hông làm trục để xoay đối phương có nghĩa là gì, bởi vì chúng tôi rất khỏe và dai sức, nhưng nói về vóc người, vẻ đẹp và phong cách thì không phụ nữ nào thèm nhìn chúng tôi lấy lần thứ hai. Trừ tôi, John Ridd ra nhé, dù tóc tôi đã bạc, và một, hai người quen nữa - nhưng tôi thấy tốt nhất là mình không nên khoe khoang.
Lãnh địa của họ hẳn đã bị đột chiếm, và họ hẳn đã bị đẩy ra khỏi rừng, nếu người dân đồng lòng làm điều đó ngay lần đầu tiên bọn họ giở thói cướp bóc. Nhưng vì tôn trọng dòng dõi cao sang của họ, thông cảm với những xui rủi của họ, và có lẽ cả đồng tình với sự công bằng của Chúa - rằng người bị cướp giờ đi cướp, nên cánh điền chủ, nông dân và người chăn cừu ban đầu chỉ cằn nhằn qua quýt, thậm chí cười cợt cho qua chuyện. Sau một thời gian, họ nhận thấy không thể cười xòa được nữa khi người của gia tộc Doone ngày một quá quắt, bạo ngược, hễ nghe đến họ Doone là phụ nữ nào cũng vội ôm chặt lấy con mình, đàn ông nào cũng tái mặt. Đám con trai, cháu trai của Ensor lớn lên trong sự phóng túng, cao ngạo, giữ trong lòng mối hằn thù đến mức báng bổ Chúa, miệt thị đồng loại, thô bạo với súc vật. Ở họ chỉ có một điểm tốt đẹp, đó là lòng trung thành. Nhưng đức tính đó khiến họ càng đáng sợ, vì bất kỳ ai dám đụng tới người của họ chắc chắn sẽ lãnh đòn trả thù thâm độc. Một đêm nọ, chừng mười năm trước khi tôi ra đời, lúc họ đang cướp phá nhà một người giàu gần vùng Minehead, một phát súng nã vào họ. Nhưng họ không để ý, chỉ một tên biết viên đạn đó găm vào đâu. Thế rồi cả bọn lên đường về nhà, không giết người nào, thậm chí không đốt phá một ngôi nhà nào, bỗng một tên bất thình lình ngã khỏi yên ngựa, chết không một lời trăng trối. Tên cướp đó đã bị bắn, nhưng không hé răng kêu than, có lẽ cũng chẳng để ý đến vết thương mấy vì máu chảy bên trong. Những người anh em của hắn nhẹ nhàng đặt hắn xuống rìa đám cây việt quất, phi ngựa quay trở lại xóm nhà đơn độc nơi hắn đã lãnh vết thương chí mạng. Không một người nào sống sót, không ngôi nhà nào còn nguyên vẹn, ngoại trừ một đứa trẻ mất trí1.
1. Vụ việc kinh hoàng này chính xác một trăm phần trăm. (Chú thích của tác giả.)
Câu chuyện này khiến những người thận trọng nhận thấy nên ngó lơ hơn là can dự vào việc của gia tộc Doone. Đến lúc này, họ đã trở nên quá khích, và dân số của họ tăng đến mức cần phải có một đạo quân thì may ra người ta mới dám đi vào lãnh địa của họ. Kể cả có thế đi nữa thì cũng chưa chắc làm gì được họ - rốt cuộc cũng đúng thế thật, như chúng tôi chứng kiến sau này.
Về sự kiên cố của nơi này tôi sẽ miêu tả chi tiết sau. Giờ tôi muốn hầu chuyện với quý vị về sức mạnh hơn người của gia tộc Doone. Tất cả đàn ông ở đấy đều cao to, rắn chắc, đủ khỏe để dễ dàng nhấc bổng hai trăm kí lô. Nếu con trai hay cháu trai của Ensor Doone, hoặc của bất kỳ người hầu cận nào, đến năm hai mươi tuổi mà đứng chân trần đầu không chạm tới rầm đỡ cửa nhà Ensor, hai vai không vừa khung cửa, thì cậu ta sẽ được dẫn đến cái đèo hẹp giúp thung lũng của họ khó lòng vào được từ bên ngoài, và bị đẩy xuống từ đỉnh cao nhất, mang theo sự nhục nhã, để tự kiếm sống lương thiện. Khung cửa dài hơn một mét tám, rộng sáu mươi xăng ti mét. Tuy vậy, vì ở sát cạnh họ, tôi không chỉ nghe nói mà còn biết rõ rằng không một hậu duệ nào của Ensor Doone, hoặc họ hàng của ông ta (ngoại trừ Quân sư, được giữ lại vì sự thông thái), rớt bài kiểm tra đó, cũng chỉ có hai thuộc hạ buộc phải rời khỏi thung lũng Doone để tự làm lụng kiếm ăn.
Không phải tôi xem tiêu chuẩn đó là to tát, nếu họ đặt tôi vào khung cửa ấy ở tuổi hai mươi, rất có thể tôi sẽ bước ra, khuân cả nó trên vai, dù lúc đó tôi vẫn chưa cao hết cỡ. Chỉ là tôi muốn cho quý vị thấy người của gia tộc Doone vượt xa dân quê tôi về khoản sức vóc như thế nào. Hơn nữa, họ còn được học cách bắn súng các bin cỡ lớn rất kĩ, đến cả một thằng nhóc cũng có thể bắn trúng đầu một con thỏ từ khoảng cách gần tám mươi mét. Vài người có thể xem điều này chẳng là gì khi được trui rèn; tuy nhiên, theo thiển ý của tôi, làm được như thế là việc rất cừ. Tôi không tin tẹo nào chuyện Robin Hood có thể tách chồi cây bằng một mũi tên từ khoảng cách một trăm bốn mươi mét, và những việc đại loại thế. Người nào viết ra mấy chuyện kiểu đó không biết chồi cây trơn như thế nào, ngay cả khi có người bắn trúng nó thì cũng không biết nó ra sao sau khi mũi tên đi qua. Cứ thử để anh ta găm một chồi cây xuống đất, rồi giương cung tên nhắm vào nó từ khoảng cách mười mét hay thậm chí là năm xem có trúng không thì biết.
Dông dài lan man thế nhưng chắc quý vị cũng đã biết phần nào về gia tộc Doone và không ai nghi ngờ nếu tôi nói rằng các vị đại pháp quan không dám loan báo rầm rộ, hoặc tổ chức bất kỳ buổi chất vấn công khai nào về cái chết của cha tôi. Đêm đó, họ trên đường từ chợ về nhà thì gặp chuyện gì đó, ai mà biết cho được. Hương năng thắp năng khói, người năng nói năng lỗi.
Chúng tôi lặng lẽ chôn ông - tất cả ngoại trừ mẹ tôi, vì bà không thể giữ im lặng - trong nghĩa trang nhỏ thoai thoải dốc của nhà thờ giáo xứ Oare, một nơi yên bình có dòng Lynn êm đềm chảy bên dưới. Xung quanh không có nhiều mộ bởi vì giáo xứ mở đến tận những cánh rừng và mấy con truông không có nhà ở. Nếu chúng tôi chôn cất một người, dù là đàn ông, phụ nữ hay trẻ em, chúng tôi sẽ nói với nhau về chuyện đó suốt ba tháng, nghĩ chắc mình là người kế tiếp, và không quen với mất mát đó cho đến khi một người khác ra đi.
Chúng tôi không cho Annie theo, bởi vì em khóc rất ghê. Nhưng em chạy đến cửa sổ và thấy hết, thế là em rống lên hệt một chú bê con vì quá sợ hãi, cô độc. Còn Eliza, em ra nghĩa trang cùng tôi, mỗi đứa một bên đỡ mẹ. Mắt em ráo hoảnh, nhưng nét mặt không giấu nổi vẻ sững sờ trước một sự việc xảy đến quá bất ngờ. Em nhìn cảnh tượng trước mắt một cách bất đắc dĩ pha lẫn tò mò. Tội nghiệp em gái bé bỏng! Em là đứa cực kỳ sáng dạ, người sáng dạ duy nhất trong gia đình chúng tôi - tạ ơn Chúa vì điều đó - nhưng em chưa hiểu nỗi đau mất cha là thế nào.