J
eremy Stickles đã đúng (có lẽ ai cũng sẽ thế) khi quyết định không cho các cô gái biết về kết quả chuyến đi của mình. Buổi tối, ông dắt tôi ra một chỗ kín đáo, nói cho tôi biết về nó, sau khi bảo cả ông và tôi đều biết rằng đó không phải là việc của đàn bà. Tôi cũng hiểu rằng mình không được cho Lorna (ông chưa gặp em) biết bất kỳ điều gì liên quan đến những việc làm của ông. Tôi hoàn hoàn đồng ý với ông, không chỉ để giúp công việc của ông được tiến triển, mà bởi tôi luôn nghĩ rằng phụ nữ, bất kể thế nào, tốt nhất đừng nên can thiệp vào việc của đàn ông.
Ngài Stickles than phiền thời tiết gây bất lợi cho ông quá. Ông mất đến tám ngày cho đoạn đường từ Exeter đến Plymouth. Tại đây, ông phát hiện hầu hết các kỵ binh đã bị rút khỏi Exeter. Khi tất cả được thông báo, chỉ còn một tiểu đoàn thuộc một trong các trung đoàn kỵ binh của Đức vua và hai trung đội bộ binh; chỉ huy của họ đã ra lệnh, muộn hơn ngày Jeremy thi hành nhiệm vụ, không bao giờ được rời bờ biển phía nam và hành quân vào trong nội địa. Mặc dù họ sẵn sàng tham gia một cuộc giáp lá cà chớp nhoáng với gia tộc Doone trứ danh, nhưng không dám trái lệnh cấp trên. Tuy nhiên, họ dành cho ông một kỵ binh làm bạn đồng hành để chứng minh cho các thẩm phán của hạt và quan đại diện của Đức vua rằng Jeremy nhận được sự phê chuẩn từ họ.
Thế là ngài Stickles buộc phải nói chuyện trực tiếp với những người có thẩm quyền, dù ông thà có một kỵ binh duy nhất còn hơn hai mươi binh lính từ những trung đoàn được huấn luyện tốt nhất. Thực ra, những trung đoàn này cung cấp lực lượng binh lính tinh nhuệ trong thời gian xảy ra các cuộc nội chiến, và cả vài năm sau đó nữa. Nhưng hiện giờ, tính kỷ luật của họ không còn, vả lại thế hệ trẻ chưa được kinh qua những trận đánh thực sự. Mỗi người có một quan điểm riêng, muốn bảo vệ nó. Nếu ý kiến của anh ta không được chấp thuận, anh ta sẽ thực hiện nhiệm vụ của mình với tâm trạng hằn học, như thể muốn chứng tỏ rằng kế sách của mình mới là tối ưu.
Đó chưa phải là điều tồi tệ nhất. Jeremy tin chắc rằng với sự hỗ trợ từ người của mình, ông có thể phá được thành trì của kẻ thù, nhưng thực tế, cánh sĩ quan đồng loạt viện mọi cớ có thể để từ chối vì nhắm thấy với thời tiết tệ hại này mà tập hợp binh lính thì xem ra không hề dễ dàng. Cái cớ quan trọng nhất là Bagworthy không thuộc hạt của họ; người Devon khẳng định nó thuộc Somerset, còn người Somerset quả quyết, cả thề thốt, rằng nó thuộc Devon. Tôi thì cho rằng sông Bagworthy là ranh giới của hai hạt, cũng như của giáo xứ Oare và Brendon, nên cả hai bên đều vừa đúng vừa sai.
Về vấn đề này, ngài Stickles gợi ý hay là hai hạt hãy liên kết, hợp lực với nhau để nhổ đi cái gai gây nhức nhối cho cả hai bên đó. Nhưng một khó khăn khác lại nảy sinh
- người Devon bảo họ sẽ hành quân khi Somerset bắt đầu hành quân, còn người Somerset đáp lại rằng họ đã sẵn sàng rồi, nhưng những người anh em Devon thì đang làm gì? Thế là sứ giả của Đức vua trở lại mà không mang theo một đội quân nào ngoài lời hứa hẹn hai trăm lính khi đường sá tốt hơn. Vậy thì chúng tôi phải làm gì để tự cứu lấy mình khỏi sự tàn sát của gia tộc Doone đây? Tôi hối hận vô cùng vì đã để Tom Faggus - người có trí thông minh và lòng dũng cảm bằng cả tá đàn ông chúng tôi gộp lại - ra về. Tôi kể hết cho Stickles nghe về Lorna và những gì tôi biết về em. Ông đồng ý với tôi rằng gia tộc Doone chắc chắn sẽ tấn công nông trại Plover’s Barrows, nhất là vì bọn họ biết ông đã quay về đây. Ông cũng khen tôi biết lo xa khi đã cho đập hết lúa mì và ngô, rồi trữ ngũ cốc ở nơi bọn chúng không thể tìm ra. Ông còn gợi ý nên gia cố ngay tất cả các lối vào của ngôi nhà, và phải duy trì canh gác vào ban đêm. Ông còn nghĩ nếu có một con ngựa vượt qua được thung lũng thì tôi nên (dù đã khá muộn) đi Lynmouth ngay để đưa đoàn kỵ binh của ông (chắc giờ này đang đóng quân ở đó) về đây. Nếu tìm thấy bất kỳ người nào trông có vẻ can đảm, dù chỉ được trang bị mỗi chiếc đinh ba, tôi cũng phải cố thu nạp cho bằng được. Nhưng quận chúng tôi thưa thớt người nên tôi chả trông mong tìm được ai. Tuy nhiên, nhiệm vụ đó được giao cho tôi (vì John Fry sợ nước), nên tôi phải tiến hành ngay.
Vì biết lũ đang lên, tôi quyết định tìm chỗ cao để đi. Tôi cho ngựa bơi qua dòng Lynn, chỗ khúc sông cạn bên dưới nhà chúng tôi (nơi thỉnh thoảng có thể lội qua được), từ đó phi nước đại dọc theo những ngọn đồi. Tôi có thể nhìn thấy khắp nơi chìm trong cơn lũ tham lam. Khi xuống đồi về phía Lynmouth, tôi e chuyến đi của mình vô ích.
Dòng Lynn Đông (sông của chúng tôi) đang gầm gào, nổi trận xung thiên, tấp toàn bộ các thân cây vào đá, xé tan tành, nghiền nát chúng. Từ bờ bên kia, một dòng nước còn cuồng nộ hơn xô vào, lật nhào tất cả những gì trên đường đi của nó. Cố băng qua sông lúc này cầm chắc cái chết trong tay, vì chiếc cầu nhỏ bằng gỗ đã bị cuốn mất dạng từ lâu. Những người lính tôi đang đi tìm chắc là đang ở bên kia dòng lũ kinh hoàng, vì bên này chẳng thấy nhà cửa gì.
Tôi men theo bờ sông ra bãi biển, cách đó chừng hai, ba trăm mét, may sao lại trông thấy Will Watcombe ở bờ bên kia, đang xảm một chiếc thuyền cũ. Dù tiếng gọi của tôi bị át đi bởi dòng lũ đang gầm rú kinh hồn, tôi rốt cuộc cũng làm cho anh ta hiểu được là tôi muốn qua sông. Nhưng anh ta lại đón một người khác. Hai người họ hạ thuyền xuống, chèo thẳng ra biển, đi vòng qua cửa con sông điên cuồng. Người kia hóa ra là viên phó của Stickles, anh ta quay lại đón đồng đội mình, chỉ mang theo vũ khí và để ngựa lại. Thực ra, họ chỉ có bốn người thôi; tuy nhiên, có còn hơn không. Tôi lại phi hết tốc lực quay về nhà trước, còn những người lính đi bộ theo sau, băng qua con sông tràn nước.
Họ buộc phải đi đường vòng, lối đi khá là khó tìm, cộng thêm bóng tối dần buông, nên tôi đến Plover’s Barrows trước họ hai tiếng. Nhưng họ đã làm một việc khá là thông minh, nhờ thế mà họ có về trễ cũng đáng. Họ đã cắm cờ trên đồi, do đó đón thêm được hai lính canh từ Foreland.
May là tôi về đến nhà sớm. Cả nhà đang náo loạn cả lên; cánh phụ nữ co rúm vào nhau, run rẩy. Khi tôi hỏi chuyện gì đã xảy ra, Lorna, người có vẻ bình tĩnh nhất, đáp rằng đó là lỗi của em vì đã khiến cả nhà hoảng sợ. Chuyện là thế này. Lúc trời sẩm tối, em lén ra ngoài xem mấy cây huệ dạ hương vừa mới nhú, chúng giống như những chiếc răng sữa, bọn ốc sên chỉ chờ đến đêm là ra đánh chén. Lorna mừng rỡ khi tìm thấy kẻ háu ăn ấy, lập tức mang nó đến cho bầy vịt. Bỗng em trông thấy một đôi mắt sáng quắc nhìn em chòng chọc từ bụi cây cơm cháy ngoài suối, cùng một khuôn mặt hung tợn, trâng tráo lấp ló sau tàn lá. Là Carver Doone.
Lorna, dù quen với nỗi sợ hãi (như em đã có lần tâm sự với tôi), ba hồn chín vía bay sạch. Em không thể kêu cứu, cũng chẳng thể bỏ chạy, chỉ giương mắt ra nhìn, như thể bị bỏ bùa. Carver Doone, với nụ cười chết chóc, hả hê trước sự hoảng sợ của em, giương súng lên, nhắm vào tim Lorna. Em cố bỏ chạy trong tuyệt vọng, nhưng nỗi sợ khiến người em cứng như đá. Với bản năng ham sống, em cố đưa tay che ngực trái - vì em biết đó là đích ngắm của Carver - song hai tay em tê dại, trĩu nặng; toàn thân em như thể đã chết cả rồi, chỉ còn mỗi đôi mắt.
Nét mặt Carver Doone chẳng thể hiện chút xót thương, động lòng, chỉ có một nụ cười ngoác hả hê khi khiến nạn nhân sợ đến tê liệt, rồi gã từ từ hạ họng súng xuống, từng tấc một. Khi nó chĩa xuống đất, giữa hai bàn chân nhỏ nhắn của em, gã kéo cò, viên đạn cày lớp đất xung quanh em. Chỉ dọa thôi mà gã cũng giở thủ đoạn thật tinh vi. Đêm đó, tôi đã bí mật quỳ trước Chúa, thề với Người rằng tôi sẽ đánh cho Carver Doone một trận tơi bời, bằng không gã sẽ làm tương tự với tôi. Đồ súc vật! Có là thánh đi nữa thì cũng chẳng thể bỏ qua chuyện này.
Lorna ngã quỵ xuống thảm cỏ, khóc tức tưởi vì sự hèn nhát của mình. Em run bần bật, tự hỏi tôi đang ở đâu, tôi sẽ nghĩ gì về chuyện này. Chúa ơi! Tôi có thể nghĩ gì về chuyện này chứ? Em đã đánh giá quá cao bản tính chậm chạp của tôi.
Trong lúc em lả người trên cỏ, không thể gượng dậy, Carver đến bên mép dòng lũ, sự phân cách duy nhất giữa hai người, vuốt bộ râu quai nón đen nhánh, đợi Lorna lên tiếng. Rất có thể gã tưởng em sẽ cảm ơn gã vì lòng tốt gã dành cho em. Nhưng lúc này, tứ chi của em đang dần lấy lại cảm giác, em ngạc nhiên về sự hèn nhát của mình.
“Tôi tha cho em lần này.” Gã nói, giọng trầm đục, điềm tĩnh. “Vì tôi có kế hoạch khác, tôi không bao giờ hành động theo cảm tính. Nhưng nếu em không quay về vào ngày mai, trinh bạch, cùng với tất cả những gì em đã mang đi, chỉ cho tôi cách tiêu diệt thằng ngốc đó, cái thằng đã vì em mà xả thân, thì em sẽ chết tại đây.”
Mặc dù súng không có đạn, gã vẫn gảy khóa nòng đánh tách rồi quay người đi, không hạ cố ngoảnh lại lần nào. Lorna nhìn theo dáng người hộ pháp của gã băng qua đồng cỏ như thể những người nhà Ridd chẳng là gì, chính gã mới là chủ nhân. Cả mẹ và tôi đều cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm khi nghe kể về sự xấc láo của gã. Dòng họ Ridd đã sở hữu đồng cỏ này từ thời Alfred Đại Đế, khi vị vua anh minh đó ẩn náu ở đảo Athelney, ông cũng mang một người họ Ridd theo cùng.
Sau khi nghe chuyện, biết những gì em vừa trải qua kinh khủng đến thế nào, tôi khen em can đảm vì đã không bỏ chạy. Lorna vui ra mặt dù em thừa biết là tôi thiên vị. Chắc quý vị cũng hiểu tất cả phụ nữ đều thích được người đàn ông mình yêu khen, và không phải lúc nào cũng đủ tỉnh táo để nhận ra đó là lời khen thật hay khen nịnh.
Cho rằng đêm hôm đó sẽ có một cuộc tấn công bất ngờ - Jeremy Stickles còn tin chắc hơn sau khi nghe thuật lại những lời hăm dọa của Carver (có vẻ như gã cố tình đánh lạc hướng), chúng tôi cấp tập chuẩn bị một số lượng lớn chân giò lợn, một đùi lợn muối và một khúc thịt cừu to. Chúng tôi thà đầu hàng còn hơn là để binh lính đói. Tất cả họ lúc này đều đang rất hăng.
Trước khi các cô gái đi ngủ, Lorna đưa ra một lời nhận xét mà tôi thấy rất khôn ngoan, tôi tự hỏi thế quái nào mà tôi chưa từng nghĩ đến điều đó. Nhưng trước đó, em đã làm một điều mà tôi không thể nào ủng hộ. Em đã chạy đến bên mẹ tôi, lao vào vòng tay bà, xin phép bà cho em trở về thung lũng Doone.
“Con gái của ta, ở đây con không vui sao?” Mẹ dịu dàng hỏi. Bà đã bắt đầu xem em là con gái của mình.
“Ôi, không. Quá hạnh phúc nữa là khác, bác Ridd. Trước đây, con chưa bao giờ biết đến sự thư thái, bình yên, hay được gặp những người thực sự tử tế. Nhưng con không thể quá vô ơn, con không thể quá độc ác khi đẩy cả nhà mình lâm vào nguy hiểm chỉ vì con. Hãy để con đi. Bác không cần phải trả giá quá đắt vì hạnh phúc của con.”
“Con gái, chúng ta không trả cái giá nào hết.” Mẹ ôm lấy em. “Không phải chúng ta bị đe dọa chỉ vì mỗi con thôi đâu. Cứ đi hỏi John, nó sẽ kể con nghe. Nó biết mọi điều về chính trị, và đây là một vấn đề chính trị.”
Mẹ tôi vừa hãnh diện vừa sợ hãi khi nông trại Plover’s Barrows lúc này phải gánh vác một sứ mệnh quan trọng. Bà thường tuyên bố rằng nó sẽ nổi tiếng như Rye House hay Meal-tub. Ngay cả kiến thức chính trị của tôi cũng không thể khiến niềm tin đó của bà lung lay. “Những vụ việc như thế đã xảy ra trước đây.” Bà sẽ dẫn chứng như vậy. “Lý gì chúng lại không xảy ra lần nữa? Phụ nữ vẫn sẽ là phụ nữ, đàn ông vẫn sẽ là đàn ông, mãi mãi như thế. Nếu con bé ở vào vị trí của Lucy Water, con bé sẽ giữ im lặng giống như bà ấy.” Rồi mẹ sẽ nhìn quanh, vì sợ hai cô con gái nghe thấy. “Nào, con cho mẹ biết tại sao sự việc này lại không thể như thế được không? John, con quả quyết một cách đáng sợ, như tất cả những người đàn ông khác.” “Không.” Tôi thường đáp. “Con không thể cho mẹ biết, mẹ à. Vấn đề ở đây là, liệu sự việc có như vậy hay không, chứ không phải nó có thể là gì. Và con nghĩ, có một chứng cứ rành rành chống lại điều đó, cứ mười đàn ông Anh thì hết chín người tin tưởng vào điều mà họ bị bưng bít.” “Con lại thế nữa rồi, John.” Mẹ sẽ đáp. “Lúc nào cũng đàn ông, chẳng một lời về phụ nữ. Nếu con muốn cãi, hãy thừa nhận rằng hôn nhân là một vấn đề mà phụ nữ là những quan tòa công tâm nhất.” “Ôi!” Tôi sẽ thầm rên và bỏ đi, lúc này mẹ tôi sẽ tin chắc rằng bà đã thuyết phục được tôi. Nhưng nếu mẹ biết Jeremy Stickles đang thực hiện nhiệm vụ chống lại những âm mưu, tôi không nghĩ ông sẽ tiếp tục được phục vụ ăn uống tử tế như lâu nay, cho dù ông là khách. Tuy nhiên, bà biết rằng có chuyện gì đó rất quan trọng đang diễn ra, và bà giao phó phần còn lại vào tay Chúa. Chỉ có điều, bà từng nói với tôi rất nghiêm túc vào một tối nọ: “Thứ tối thiểu con có thể nhận được, John thân yêu, là một huy hiệu. Hãy đảm bảo rằng con sẽ không nhận thứ gì ít hơn thế nhé con trai. Nông trại đủ sức ủng hộ việc đó.”
Thôi chết, tôi đã để Lorna đợi quá lâu, trong khi em nóng lòng muốn hỏi tôi về những vấn đề chính trị. Em đến bên tôi với cả trăm câu hỏi chứa đựng trong đôi mắt. Tôi thà rót câu trả lời vào môi em hơn là làm phiền đôi tai xinh xắn của em. Thế nên tôi chẳng kể gì với em cả, ngoại trừ rằng cuộc tấn công đó (nếu có) không phải vì em, nếu em có tình cờ nghe thấy tiếng động gì đó vào ban đêm thì hãy đắp chăn thật kín và nhắm đôi mắt xinh đẹp lại. Dù thế nào cũng không được đến bên cửa sổ. Nghe tôi khen đôi mắt em, em hứa sẽ làm tốt hết sức có thể rồi dụi sát vào người tôi, khiến tôi muốn em nép sát vào tôi hơn nữa. Em ngả đầu vào ngực tôi, thỏ thẻ.
“Anh không tham gia trận đấu này không được sao, John?”
“Em yêu.” Tôi nhìn sâu vào đôi mắt em qua rèm mi đen dài. “Không sao đâu.”
“Hãy lắng nghe suy nghĩ của em, được không John? Chỉ là em tưởng tượng ra thôi, và có lẽ không đáng nói ra.”
“Em cứ nói đi, em yêu. Em biết rất nhiều về đường đi nước bước của bọn họ mà.”
“Là thế này, John à. Anh biết những con sông dâng cao như thế nào rồi đấy, cao hơn bao giờ hết, có khi còn gấp đôi, như anh đã nói với em đấy. Em tin là thung lũng Doone đã bị lũ nhấn chìm, toàn bộ nhà cửa ngập trong nước.”
“Cô phù thủy nhỏ này!” Tôi đáp. “Anh thật là ngốc mới không nghĩ đến điều đó! Đương nhiên rồi, nó chắc chắn đã bị ngập trong nước lũ, phải đến sáu mét là ít. À, nếu có một tên ngốc thì đó đích thị là anh, vì đã không nghĩ về chi tiết này.”
“Em nhớ trước đây có một lần…” Lorna nói, tính toán bằng mấy ngón tay. “Cách đây năm, sáu năm gì đấy, mưa lớn suốt mùa thu và mùa đông khiến nước sông dâng tràn bờ, ùa vào nhà đến hơn nửa mét. Mọi người phải dựng lều ở tạm bên rìa vách đá. Nhưng anh nghĩ rằng trận lũ năm nay lớn hơn, em tin là đã nghe anh nói thế, John.”
“Anh không nghĩ, kho báu của anh ạ.” Tôi đáp. “Mà anh tin chắc là thế, em có thể tin tưởng anh. Em nghĩ thử mà xem, tuyết rơi suốt ba tháng, sau đó là hai tuần mưa liên tiếp, thử hỏi lượng nước sẽ nhiều biết bao nhiêu! Lại còn những tảng băng lớn vẫn còn dưới sông nữa. Lorna, anh tin chắc chỗ trú ẩn của em đang chìm dưới ba mét nước.”
“Chỗ trú ẩn đó đã hoàn thành sứ mệnh của nó rồi.” Lorna nói, đỏ mặt khi nhớ lại những gì đã xảy ra ở đó. “Chỗ trú ẩn của em hiện giờ là ở đây, John. Em rất thương những người phụ nữ tội nghiệp đã bị chìm hết nhà cửa. Nhưng thế hóa ra lại tốt cho ta: họ không thể đương đầu với tình trạng hiện tại nếu không có đàn ông, vậy nên lực lượng được đưa đến đây chắc chắn sẽ không nhiều.”
“Đúng rồi.” Tôi đáp. “Em thông minh thật đấy! Do đó chỉ có ba người được phái đi đón lõng ngài Stickles. Chúng ta nhất định sẽ chiến đấu hết mình với chúng. Anh thách chúng đốt được nhà mình đấy: mái rạ ướt đẫm thế kia, cháy sao nổi.”
Chúng tôi cho cánh phụ nữ đi ngủ khá sớm, trừ Gwenny Carfax và vú Betty. Họ được phép thức, vì có thể giúp chúng tôi việc gì đó, nếu họ thôi cãi nhau. Tôi chẳng mấy lo lắng về kết quả của cuộc chiến, sau những gì Lorna nói. Gia tộc Doone phái đến cùng lắm là tám đến mười người chứ mấy, vì hiện giờ chúng cần phải có mặt ở nhà để chống lụt. Chúng tôi có tám người, trong đó có Jeremy và tôi được trang bị vũ khí đầy đủ, hừng hực khí thế chiến đấu, ngoài ra còn có ba người làm công nhà chúng tôi, viên thư ký giáo xứ, và người thợ đóng giày. Năm người họ có thể không đáng tin cậy lắm về sự gan dạ, dù bên bình rượu táo họ nói rất mạnh mồm. Vũ khí của họ cũng không phù hợp cho việc chém giết, trừ phi đánh giáp lá cà, mà việc này thì xem ra không khả thi. Bill Dadds có một cái liềm, Jem Slocombe thì có một cái đập lúa, người thợ giày mượn được cây gậy của viên đốc quân (người này không tham gia, vì không có lệnh), còn viên thư ký giáo xứ mang theo ống sáo, có thể đập vỡ đầu bất kỳ ai. John Fry, đương nhiên, có khẩu súng étpigôn, nhưng ai cũng biết chú mang nó chỉ để khoe mẽ.
Ước ao lớn nhất của tôi là chạm trán Carver Doone vào đêm đó, để thanh toán mối thù giữa chúng tôi, không phải bắn lén, mà đấu tay đôi. Từ khi sức mạnh của tôi đạt mức tối đa, tôi toàn gặp những kẻ bị tôi quay như quay dế, bây giờ ít nhất tôi đã tìm được một người có sức mạnh không phải dạng vừa. Tôi có thể đoán được sức mạnh đó trên gương mặt gã, cánh tay gã, sải chân và dáng đi của gã - đó chính là những thứ bộc lộ cái cốt lõi của một con người. Vì đã quá quen với trò đấu vật cũng như đánh giá đối thủ, tôi cảm thấy mình đã tìm được người ngang tài ngang sức.
Vì vậy tôi không cam tâm đợi trong nhà, hoặc đi loanh quanh chỗ này chỗ kia với cánh lính. Tôi ra sân rơm, biết rằng bọn Doone có thể bắt đầu tấn công ở đó. Bọn chúng có một thói quen “dễ thương” mỗi khi “viếng thăm” những ngôi nhà trại, đó là đốt rơm ngoài sân để lấy ánh sáng phục vụ cho việc cướp của, giết người. Dù các đụn rơm nhà chúng tôi chỉ là rạ (trừ hai đụn cỏ ba lá khô ráo), trên chóp ướt đến mức không một thanh củi đang cháy nào có thể làm tổn hại chúng; nhưng tôi vừa không muốn chúng bị đốt, vừa sợ rằng chúng có thể cháy bùng lên nếu bị châm lửa phía có gió.
Có một lần bọn Doone đã bị gậy ông đập lưng ông khi giở chiêu quen thuộc. Chúng đốt các đụn rơm của một nông trại đơn độc tên là Yeanworthy, cách Glenthorne không xa, trước khi tiến hành cướp bóc và uy hiếp chủ nhà. Người chủ nông trại mới qua đời, để lại bên trong hộp đồng hồ một khẩu súng dài đã được nạp đạn mà ông vẫn dùng để đi săn vịt và ngỗng ở bãi biển. Không quan tâm đến việc mạng sống của mình có thể bị đe dọa (có chết theo chồng cũng được vì bà dành cho ông một tình yêu sâu nặng), bà quả phụ Fisher đã lấy khẩu súng ra, gác lên bậu cửa sổ hướng ra sân rơm, tựa báng súng vào một chiếc tủ ngăn kéo bằng gỗ sồi, mở cửa sổ he hé, đặt nòng súng ở tư thế vác súng. Có năm, sáu tên Doone đang vừa đi vào vừa nhảy điệu vũ quay (như chúng vẫn vậy) giữa bà và đụn rơm bốc lửa. Bà dồn hết sức kéo cò, một viên đạn bắn vịt trời nặng trên một trăm gram xé gió phóng thẳng vào đám người. Điệu vũ quay chuyển sang lảo đảo, nhạc thì chẳng thể gọi là du dương. Một tên rơi vào đống rơm, bị thui cháy, rồi bị chôn trong một con mương vào ngày hôm sau. Mấy tên còn lại vội tót lên ngựa, phi nước đại dông thẳng. Lạ một nỗi, chúng không bao giờ trả thù cho tổn thất đó, sau khi nghe nói người bắn phát súng ghê gớm đó là một phụ nữ, chúng bảo chắc bà là người họ Doone, và hỏi bà bao nhiêu tuổi.
Còn tôi, sau khi đợi một lúc trong sân rơm cùng khẩu súng đã lên đạn và cây gậy lớn, một cơn buồn ngủ dữ dội bắt đầu tấn công tôi. Giữa tiếng nước chảy róc rách êm tai, trước mắt tôi như có một màn sương giăng ngang, não bị đặc quánh lại. Thế là tôi tựa lưng vào một đống cỏ ba lá, lơ mơ nghĩ về Lorna cùng những gì em nói về số cỏ mới cắt. Rồi đầu tôi ngoẹo ra sau, cằm nghếch lên, giấc ngủ bất thần ập tới, tôi chìm nghỉm vào trong nó.
Tôi thật quá tệ khi đi ngược lại những quyết tâm, thậm chí là thề thốt của một giờ trước. Nhưng nếu quý vị đã dầm nước như tôi, chiến đấu với nó suốt một ngày dài tất bật, rồi sau đó còn lo lắng và động não (cái này thì không công bằng cho tôi), cuối cùng là ăn một bữa tối no cành, có lẽ quý vị sẽ không quá khắt khe khi tôi trót ngủ quên, dù quý vị cảm thấy mình có bổn phận đánh thức tôi dậy.