B
ọn Doone có lẽ chờ trăng lên mới tấn công chúng tôi vì băng qua những thung lũng ngập nước trong bóng đêm là việc khá nguy hiểm. Ngoại trừ lưu ý này, đáng lẽ tôi phải cố gắng nhiều hơn để cưỡng lại cơn buồn ngủ. Nhưng ngay cả thế, bỏ gác là việc ngu xuẩn, nhất là trường hợp của tôi - ngủ như một con chuột sóc. Hơn nữa, tôi đã chọn một nơi tồi tệ nhất trên thế giới để ngủ, vì rất có thể sẽ thức dậy trên một đống lửa cháy đượm.
Sự thể chắc đã thành ra thế nếu không nhờ Lorna mất ngủ. Em se sẽ đặt tay lên cánh tay tôi để đánh thức, tôi đứng bật ngay dậy, tóm lấy cây gậy, chuẩn bị giáng xuống kẻ nào đó.
“Ai đó?” Tôi hét lên. “Lùi ra, nếu không đừng trách.” “Anh định đánh em sao, John?” Giọng nói mà tôi hằng yêu thương cất lên. “Em tin chắc mình sẽ không bao giờ dậy nổi, sau khi lãnh một cú từ anh, John.”
“Em yêu, là em đấy ư?” Tôi kêu lên. “Lại không chịu nghe lời anh hả? Vào nhà ngủ đi.”
“Làm sao em có thể ngủ trong khi bất kỳ lúc nào anh cũng có thể bị giết ngay bên dưới cửa sổ phòng em? Bây giờ là thời gian nguy hiểm thực sự, vì bọn chúng có thể nhìn thấy đường đi.”
Tôi lập tức nhận ra hiện thực. Mặt trăng lên cao, chiếu sáng rõ tất cả những thung lũng ngập nước. Ngủ thêm chút nữa có thể cầm chắc cái chết trong tay, không chỉ mỗi tôi, mà là tất cả.
“Người canh gác sau nhà đang ngủ say như chết.” Em nói tiếp. “Gwenny đã nghe anh ta ngáy suốt hai giờ đồng hồ rồi. Em nghĩ nên để phụ nữ canh gác mới đúng. Anh đoán xem Gwenny ở đâu nào?”
“Chắc chắn không phải đến thung lũng Doone chứ?” Nói vậy nhưng tôi không chắc lắm. Tôi tin một cô gái can đảm như Gwenny việc gì cũng dám làm.
“Không.” Lorna đáp. “Dù em ấy rất muốn. Đương nhiên em sẽ không đồng ý vì nước lũ nguy hiểm. Em ấy ngồi trên cái cây đằng kia kìa, nơi có thể quan sát toàn bộ thung lũng Barrow. Em ấy tin chắc là bọn chúng sẽ băng qua con suối. Bây giờ nước tràn bờ khiến nó rộng đến mức em ấy có thể thấy nó rõ mồn một dưới ánh trăng, dù cách xa nửa dặm. Nếu bọn chúng băng qua đó, chắc chắn em ấy sẽ nhìn thấy và báo cho chúng ta kịp thời.”
“Xấu mặt chưa!” Tôi kêu lên. “Đàn ông thì ngủ quên,
để các cô gái làm lính gác! Anh sẽ đích thân ngồi trên cái cây đó và bảo Gwenny về. Em vào nhà đi, tình yêu của anh, anh sẽ cố không ngủ quên lần nữa.”
“Làm ơn đừng bảo em vào nhà, John.” Em nài nỉ. “Anh và em đã bên nhau qua những hiểm nguy còn hơn thế này. Ở trong nhà chỉ khiến em lo sợ và đau khổ hơn thôi.”
“Anh không thể để em ở đây được.” Tôi nói. “Dứt khoát không thể. Em nghĩ rằng anh có thể chiến đấu khi có em bên cạnh, giữa làn tên mũi đạn sao, Lorna? Nếu em muốn như vậy thì tốt hơn hết hai chúng mình nên đi vào phòng chứa táo, khóa trái bên trong, nấp kĩ, để mặc bọn chúng đốt sạch mọi thứ còn lại.”
Lorna bật cười. “Anh nói đúng, John. Em sẽ chỉ mang lại cái hại hơn là cái lợi. Trong tất cả, em ghét nhất là đánh đấm, kế tiếp là việc không vâng lời. Thế nên em sẽ đi vào nhà, dù không ngủ được. Nhưng hãy hứa với em một điều, John thân yêu. Anh sẽ cẩn trọng hết sức nhé, vì em, được không?”
“Em có thể chắc chắn về điều đó, Lorna. Anh sẽ bắn bọn chúng xuyên qua những đụn rơm.”
“Đúng rồi, anh yêu.” Em đáp, tin chắc tôi có thể làm điều đó. “Lúc đó, bọn chúng chắc không thể nhìn thấy anh. Nhưng đừng leo lên cái cây kia nhé, John. Nguy hiểm lắm. Gwenny thì khác; em ấy không có xương để gãy.”
“Anh đoán ý em muốn nói là không một ai đáng bị gãy xương cả. Được rồi, anh sẽ không leo lên cái cây đó, anh sợ mục đích của mình sẽ bị thất bại vì anh là một mục tiêu rất dễ phát hiện. Nào, giờ thì vào nhà đi, em yêu, không nói thêm gì nữa nhé! Em càng nấn ná, anh sẽ càng giữ em lại lâu hơn đấy.”
Em bật cười khanh khách. “Cầu Chúa ban phước cho anh, tình yêu của em!” Tôi ngắm em đi băng băng qua sân, không muốn rời mắt, rồi bồng súng lên vai, quyết tâm canh gác cho đến sáng. Tôi thấy khá bực bản thân vì đã quá lơ đãng đến mức Lorna phải ra tận nơi chấn chỉnh.
Tôi đi vòng quanh những đụn rơm và chuồng ngựa, thỉnh thoảng gọi Gwenny từ dưới gốc cây. Chẳng mấy chốc, một dáng người thấp đậm rón rén đi về phía tôi, thấp thoáng trong những khoảng tối, tôi biết đó chính là cô hầu gái bé nhỏ của Lorna.
“Có mười tên đã băng qua suối.” Gwenny báo tin, cô có vẻ xem nó như tin lành hơn là tin dữ. “Lúc này, cả bọn đang leo lên hàng rào. Tôi có thể bắn chúng từ cổng, nếu có khẩu súng của anh, chàng trai.”
“Gwenny, chạy vào nhà gọi ngài Stickles và tất cả đàn ông, mau lên, còn tôi ở đây canh sân rơm.”
Có lẽ tôi sai khi chăm chăm để ý những đống rơm, nhất là vì chỉ có cỏ ba lá mới quan trọng. Một niềm khoái chí len lỏi trong người khi tôi hình dung bọn chúng sẽ khoe khoang thế nào nếu đốt được sân rơm nhà chúng tôi. Tôi điềm tĩnh đứng chờ với cây gậy cầm tay, khẩu súng bên mình.
Bọn cướp cưỡi ngựa đi vào sân nhà chúng tôi một cách trơ tráo như thể được mời, sau khi nhấc cánh cổng ra khỏi bản lề vì nó được đóng quá chặt. Rồi chúng ngang nhiên mở cửa chuồng ngựa, xua bầy ngựa ngoan ngoãn của chúng tôi ra, đưa ngựa của chúng vào thế chỗ. Chứng kiến cảnh tượng đó, tôi như đứt từng khúc ruột, vì dành quá nhiều tình cảm cho lũ ngựa. Đến lúc này, tôi có thể nhìn thấy người của chúng tôi đang đợi trong bóng râm, quanh cái góc mà từ đó bọn Doone vừa đi qua, chờ lệnh bắn. Nhưng Jeremy Stickles rất khôn ngoan; ông giữ họ trong tư thế sẵn sàng, cho đến khi kẻ thù tiến lên phía trước.
“Hai thằng lười chúng mày!” Giọng nói trầm đục của Carver Doone cất lên. “Đốt lửa đi, để cắt cổ bọn chúng. Nghe tao dặn một lần nữa. Đứa nào đụng vào Lorna, tao sẽ đâm ngay tại chỗ. Nàng thuộc về tao. Còn hai đứa con gái, chúng mày thích thì mang về. Và bà mẹ, tao nghe nói vẫn còn ngon lành lắm. Tụi mày muốn làm gì thì làm. Chúng ta chịu đựng cái bọn quê mùa láo toét này đã quá lâu rồi. Giết sạch người lớn lẫn con nít, đốt rụi nơi đáng nguyền rủa này.”
Khi Carver thổ xong những lời hồ đồ, tôi nhắm súng vào ngực gã. Nhờ ánh sáng từ khóa thắt lưng của gã, tôi trông thấy “ống ngắm” nhỏ bằng đồng lóe lên ánh sáng như nhau ở cả hai phía, nòng súng tròn bóng loáng chập chờn. Đích ngắm chính xác báo hiệu một cái chết không tránh khỏi. Tôi chỉ cần kéo cò (đạn sẽ đi rất ngọt), Carver Doone sẽ tắt thở. Thế nhưng - quý vị có tin nổi không? - tôi không thể kéo cò. Có Chúa mới biết tại sao tôi lại như vậy!
Vì tôi chưa bao giờ tước mạng sống của ai, cũng chưa bao giờ làm hại đến thân thể kẻ khác, trừ mấy vết tím bầm nho nhỏ là kết quả của một cuộc đấu vật công bằng. Tôi buông khẩu các bin, cầm cây gậy lên; nó có vẻ là một dụng cụ chính trực hơn.
Lúc này, có hai tên thanh niên tiến về phía tôi, cầm đuốc làm từ sợi gai dầu ướp nhựa thông được nhen từ cây đèn của Carver. Tên đi trước châm đuốc vào đụn rơm cách tôi một mét, khói tỏa ra, khiến hắn không thể nhìn thấy tôi. Tôi dùng tay trái nện một cú lên khuỷu tay hắn, nghe tiếng xương gãy răng rắc, rõ mồn một như tiếng gãy của một nhánh cây. Rú lên đau đớn, hắn ngã vật ra đất, khiến cây đuốc rơi xuống, làm hắn bị bỏng. Tên còn lại đứng sững, nhìn cảnh tượng đó với vẻ mặt bàng hoàng. Lúc này, y vẫn chưa thấy tôi, cho đến khi tôi giật cây đuốc ra khỏi tay y, quất nó vào mặt y. Thế là y nhảy bổ vào tôi. Tôi tóm được y, theo cách học được từ những ngày đầu tham gia đấu vật, túm lấy xương đòn của y và quẳng y lên trên tên đồng bọn.
Thành công nhỏ này kích thích tôi đến mức tôi những muốn tiến tới, thách đấu với Carver Doone. Nhưng rồi tôi nghĩ lại, rất có thể gã sẽ bắn tôi mà không cần khách sáo. Con người ta dù có mạnh đến thế nào cũng đâu thể chống lại súng ống? Hơn nữa, tôi nhớ lời hứa với Lorna. Ai sẽ bảo vệ em nếu những gã khốn này hạ được tôi?
Trong khi tôi đang phân vân, cân nhắc thiệt hơn, một đám cháy làm ngôi nhà sáng bừng lên, khói nâu tỏa ra xung quanh. Sáu người của chúng tôi được lệnh từ Jeremy Stickles đã nổ súng vào bọn Doone trong lúc những tên khốn khệnh khạng đi dưới ánh trăng, chuẩn bị tư thế hãm hiếp hoặc giết chóc. Hai tên ngã xuống, mấy tên còn lại đứng khựng ngay lập tức, điềm tĩnh nghĩ chuyện quái gì đang diễn ra. Bọn chúng không quen với kiểu này: không công bằng và cũng chẳng lịch sự.
Không thể kiềm chế được nữa (tôi nghĩ Lorna chắc lo lắng lắm khi nghe súng nổ), tôi băng ngang qua sân, chuẩn bị tinh thần đón đợi một phát súng. Tuy nhiên, chẳng ai bắn tôi cả. Tôi đi thẳng đến chỗ Carver Doone (tôi biết đó chính là gã qua vóc dáng của gã dưới ánh trăng), túm lấy bộ râu của gã và nói: “Ngươi tự cho mình là đàn ông sao?”
Trong một thoáng, gã sửng sốt đến mức á khẩu. Tôi đoán là chưa một ai dám nhìn gã theo cách đó, gã nhận thấy mình đã đụng phải đối thủ ngang tài ngang sức, hoặc có thể còn hơn gã. Rồi gã cố giương súng nhắm vào tôi, nhưng tôi nhanh hơn.
“Carver Doone, nghe đây!” Tôi ôn tồn. “Ngươi quả là ngốc khi khinh miệt ta ra mặt. Có thể ta không mưu mô bằng ngươi, nhưng dũng khí thì có đấy. Ngươi là một tên khốn ti tiện. Đồ cặn bã rác rưởi.”
Dứt lời, tôi hạ gã ngã ngửa ra sân rơm bằng cú gạt chân bất thình lình, gã không thể chống lại cú gạt đó (dù sức của gã gấp đôi tôi), trừ phi gã là một đô vật. Thấy Carver ngã xuống, số còn lại bỏ chạy, vài tên bắn vào tôi, vài tên phốc lên lưng ngựa, vài tên bỏ ngựa chạy lấy người trước khi người của tôi tới. Trong lúc tôi kiểm tra mình mẩy (vì có một vết thương nho nhỏ), thủ lĩnh Carver lồm cồm đứng dậy, vừa bỏ chạy vừa tuôn một tràng chửi thề đủ để làm bẩn ánh trăng.
Chiến lợi phẩm chúng tôi thu về là sáu con ngựa tốt, hai tù binh mà tôi đã đánh gục bên đống cỏ ba lá. Hai tên Doone mất mạng bị bỏ lại, chúng tôi mang chôn trong nghĩa trang nhà thờ mà không làm lễ gì. Về phần tôi, tôi lấy làm mừng vì đã không tự tay giết chúng. Tước đi mạng sống của đồng loại là điều khiến lương tâm ta cắn rứt khôn nguôi - bất luận người đó có đáng chết hay không.
Tôi muốn đuổi theo kẻ thù và cố bắt thêm tù binh, nhưng Jeremy chắc chắn không cho phép, vì ông bảo lợi thế sẽ nghiêng về phía bọn chúng, nếu chúng tôi cấp tập đuổi theo, chỉ có ánh trăng dẫn đường. Với lại, biết đâu chúng còn một toán nữa sẵn sàng ập đến, đốt nhà, bắt hết phụ nữ nếu chúng tôi để mặc họ không ai chở che? Nghe ông lập luận cũng có lý, tôi nghe theo. Chắc chắn một điều, bọn Doone trước giờ chưa từng “ăn trái đắng”, chuyện tối nay tựa như một cú đấm trời giáng vào uy thế tối thượng của chúng, từ thuở đầu gầy dựng quyền lực và trở thành những “ông trùm” xứ Exmoor. Tôi dám chắc Carver Doone sẽ nghiến răng trèo trẹo, chửi đồng bọn té tát vì quá tự tin và bất cẩn, trong khi kỳ thực gã mới là người phải chịu trách nhiệm về sai lầm này. Đồng thời, những tên còn lại không thể không nghĩ rằng lúc ngài Ensor còn tại thế, chưa từng xảy ra một vụ việc nào tương tự; không thể chối cãi rằng nguyên nhân chính là khả năng lãnh đạo kém cỏi của thủ lĩnh.
Tôi không xác định được ai là người làm um lên nhất về vết thương tí xíu của mình: mẹ, Annie hay Lorna. Tôi ngượng ghê gớm khi bị đối xử như một kẻ đớn hèn; nhưng xui một nỗi, không thể giấu vết thương đó đi đâu được.
Viên đạn đi sượt qua thái dương, ngay bên trên chân mày, vì bị bắn ở cự ly quá gần nên thuốc súng nhem nhuốc xung quanh. Do vậy trông nó tệ hơn rất nhiều so với thực tế. Nào là lau chùi bằng bọt biển, đắp thuốc, khóc lóc, xuýt xoa, khiến tôi ngượng đến mức không dám nhìn vào mặt ngài Stickles.
Tuy nhiên, rốt cuộc tôi cũng thuyết phục được họ rằng tôi không hề có ý định đi theo Thần Chết vào đêm đó, thế là tất cả quỳ thụp xuống, tạ ơn Chúa. Rồi ngài Stickles mới thong thả lên tiếng rằng tôi là kẻ may mắn nhất trần đời vì có mẹ, em gái và người yêu quan tâm hết mực. Còn ông thì chẳng có ai đoái hoài. Ông có thể đi bất kỳ khi nào ông muốn, bị bắn, hoặc đâm, hoặc đập vào đầu mà không khiến ai phải đau buồn. Tôi mạo muội hỏi vợ ông sẽ ra sao vì nghe ông nói đã có vợ. Ông bảo ông không biết, mà cũng chẳng quan tâm, có lẽ một ngày kia tôi cũng sẽ giống như ông. Tôi rất đau khổ khi để Lorna phải nghe những lời nói đó. Nhưng em nhìn tôi mỉm cười, chứng tỏ em coi thường tất thảy những ý nghĩ ấy. Sợ Stickles lại thốt ra những điều không thích hợp, tôi chẳng hỏi gì thêm nữa.
Sau đó, khi chỉ còn hai chúng tôi, ngài Stickles dặn tôi đừng tin phụ nữ, bất kể họ xấu tốt thế nào. Ông cam đoan với tôi rằng ông quen biết nhiều phụ nữ thuộc mọi tầng lớp, từ những phu nhân có dòng dõi cao quý nhất đến gái nhà thổ, cả mấy bà vợ của cánh nông dân. Thứ nhất, những phụ nữ hấp dẫn, quyến rũ thì đáng khinh. Thứ hai, những phụ nữ lạnh lùng, hờ hững thì đáng ghét. Thứ ba, pha trộn giữa hai kiểu là phụ nữ hội tụ những phẩm chất xấu từ cả hai. Xét về lý, không ai trong số họ có phẩm chất xấu ấy; nó như một cuốn sách phong kín đối với họ mà nếu họ cố mở, họ sẽ bắt đầu từ bìa sau.
Tôi không thích nghe những điều như thế; đối với tôi, chúng có vẻ xấc láo và thiển cận. Nếu quả đúng như lời ông nói, tại sao đàn ông, cũng như phụ nữ, không được chia thành ba loại như thế, và được tuyên bố bởi phụ nữ - những con người thậm chí còn vô tư hơn cả quan tòa? Hơn nữa, tôi biết, từ góc độ hiểu biết của chính mình, cũng như từ nhà thơ vĩ đại nhất trong tất cả các nhà thơ vĩ đại, rằng có, luôn có, nhiều phụ nữ tốt, hiền lành, giàu tình cảm, đằm thắm, đáng yêu, và trên hết là rất sắc sảo trong việc phân định đúng sai. Nói chung, tôi thích họ hơn nhiều so với người cùng giới, vì bản thân sự thiện tâm quan trọng hơn việc giải thích lý do tại sao phải có nó. Thế là tôi nói với Jeremy:
“Chắc là ngài từng bị đối xử không ra gì bởi một người phụ nữ nào đó chăng?”
“À, chính thế!” Ông chửi thề. “Người không nên đối xử với ta như thế nhất trên thế gian này chính là vợ ta. Một phụ nữ ta chưa từng đánh đập, chưa từng làm điều gì sai quấy, thậm chí chưa bao giờ để bà ta biết ta thích người đàn bà khác hơn. Nhưng khi ta ở Berwick cùng với trung đoàn, chống lại bọn cướp vùng biên giới Anh - Scotland, người đàn bà đó đã công khai chống đối nhà cầm quyền, bất kể ta đang bận làm nhiệm vụ quan trọng, và cuốn gói đi theo tên cướp sừng sỏ nhất. Chẳng phải ta quan tâm quái gì đến bà ta - ta ước gì gã ngốc kia sẽ ruồng bỏ bà ta - mà vì ta đã bị thiên hạ cười nhạo bởi việc làm nhơ nhuốc ấy của bà ta. Rồi ta trở lại London, mất một công việc tốt hơn và an toàn hơn công việc này. Tất cả đều tại người đàn bà đó. Nào, ta nói chuyện khác đi.”
Cách nhìn của ngài Stickles về vấn đề này thiếu lãng mạn đến mức tôi chẳng chút ngạc nhiên về việc bà Stickles bỏ chạy khỏi đời ông để đến với một tên cướp thích phiêu lưu. Mười phụ nữ thì hết chín người thích chút lãng mạn để cuộc sống của mình dễ chịu hơn. Khi mất đi yếu tố hấp dẫn đó, tình yêu của họ sẽ phai nhạt, trừ phi họ có con cái để mang lại cho họ những kỳ vọng trong tương lai. Mà ngài Stickles thì không có - cũng chẳng mong ước có - con cái gì hết.
Không đợi trát, chỉ tuyên bố gì đó về “captus in flagrante delicto”1 - chẳng biết tôi viết thế có chính xác chưa nữa, Stickles tống mấy tên tù binh bị trói chặt với điệu bộ thê thảm vào nhà lao ở Taunton. Tôi rất muốn thả cho họ tự do nếu họ hứa cải tà quy chính (tôi là người bắt được họ, do vậy chắc chắn là tôi có quyền thả họ), nhưng ngài Stickles nói: “Không được.” Ông cam đoan với tôi đó là một vấn đề thuộc luật pháp, đương nhiên (vì chẳng hiểu ý ông là gì) tôi không thể cãi lại dù vẫn nghĩ quyền riêng tư của tôi phải được tôn trọng. Nếu tôi đánh bại đối thủ trong một cuộc đấu vật, tôi sẽ lấy tiền đánh cược của anh ta. Nếu tôi bắt được một tù binh, theo luật, anh ta phải thuộc về tôi chứ, và tôi có quyền thả anh ta nếu tôi nghĩ điều đó hợp lý. Ấy vậy mà ngài Stickles bảo rằng tôi dốt lắm, chẳng biết gì về hiến pháp cả, trong khi đó chính là điều tôi rành hơn bất kỳ người nào trong giáo xứ!
1. Tiếng Latin, có nghĩa là bị bắt quả tang đang thực hiện một hành vi phạm tội.
Tuy nhiên, tôi không đủ khả năng và quyền hạn để cãi lại một sứ giả, nên tôi để cho các tù binh đi và chúc họ có một bản án như ý. Stickles cười ngoác miệng, đáp rằng nếu họ nhận bản án nào đó thì sẽ bị tống vào tù, rồi với nét mặt hả hê, ông đặt một bàn tay ngang cổ mình, động tác vô cùng khiếm nhã. Hóa ra ông nói đúng, vì cả hai tên cướp tội nghiệp đều bị hành quyết ngay sau những phiên tòa đại hình kế tiếp. Lorna đã cố hết sức để xin tha mạng cho họ; em thậm chí còn quỳ xuống van xin Jeremy, cả khóc lóc nữa. Tuy nhiên, dù rất cảm thương em, ông thề rằng mình không dám làm khác. Nếu ông tha cho họ thì có đền mạng mình cũng không đủ, bởi đến giờ phút này, khắp vương quốc đã biết chuyện hai tên Doone đó từng bị trói vào máy ép rượu táo ở nông trại Plover’s Barrows. Annie băng bó cánh tay gãy của tên bị tôi đánh bằng gậy với sự hỗ trợ của tôi. Rồi em rửa và bôi mỡ lợn lên mặt tên cướp bị cây đuốc quất vào, còn tôi nắn lại xương đòn của y theo khả năng của mình. Vì trước khi bác sĩ kịp đến, họ đã bị một đội hộ tống áp tải đi. Ngày hôm đó, chúng tôi được chi viện khá lớn từ những trạm dọc theo bờ biển, tới tận Minehead, đến mức chúng tôi không những chẳng ngán bất kỳ cuộc tấn công nào, mà còn bàn về việc tấn công thung lũng Doone, không cần đợi lực lượng dân quân. Tuy nhiên, tôi nghĩ thật hèn hạ nếu lợi dụng lúc kẻ thù đang khốn đốn với cơn lũ và tâm trí hoang mang. Nhiều người khác cũng nghĩ vậy. Vả lại, chẳng ai thích đánh đấm trong nước. Vì vậy, chúng tôi quyết định tiếp tục theo dõi thung lũng trong lúc đợi nước rút.