• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tình sử Lorna Doone - Tập 2
  3. Trang 17

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 16
  • 17
  • 18
  • More pages
  • 38
  • Sau

Chương 54

C

hẳng phải tôi hoàn toàn ngốc như Jeremy quả quyết. Tôi thích để người khác nghĩ mình chậm chạp và ra sức khai sáng cho tôi, trong lúc đó tôi có thể tự nhủ: “Người này nông cạn hơn mình rồi. Chứng kiến anh ta phơi bày những chỗ nông cạn của bản thân trong khi dạy đời mình thật thích thú!”

Câu chuyện của Jeremy khiến tôi vô cùng phẫn nộ và cảm thương, cho dù ban đầu tôi chưa thể đoán được ai là nạn nhân, huống hồ giờ đây tôi đã biết chắc rằng đứa con gái của cặp vợ chồng bất hạnh kia thực sự là Lorna. Tôi nghĩ về nỗi phiền muộn của người mẹ, niềm tin của bà đối với Thượng đế, và cái chết thảm khốc của bà trong khi vẫn chưa tìm được đứa con thất lạc. Tôi hình dung Lorna sẽ như thế nào khi nghe câu chuyện. Quý vị hãy tin rằng tôi đáp lại những câu trêu đùa của Jeremy Stickles một cách tỉnh rụi chỉ để che giấu cảm xúc đau đớn trong lòng mình.

Khi ông kể đến phần chiếc xe ngựa nặng nề bị gãy trục ở Dulverton, điểm đến của họ, cũng như thời gian và thời tiết, tim tôi bắt đầu nhói lên đau rát, tâm trí tôi lấp đầy những hình ảnh, trước tiên là cô hầu gái người ngoại quốc bên máy bơm nước ve vãn tôi, cỗ xe ngựa chật vật leo lên đồi, quý bà xinh đẹp cùng cậu con trai đội mũ đính phù hiệu, và nhất là cô bé tóc đen rất xinh, dù còn bé nhưng đã có đầy đủ những nét đặc trưng của Lorna, không lẫn vào đâu được.

Khi ông kể đến chi tiết sợi dây chuyền được tròng qua đầu bé gái và sự biến mất của em, trước mắt tôi lập tức hiện lên ánh sáng lóe của đèn hiệu, những con truông hiu quạnh, tiếng bước chân nặng nề của một đoàn người ngựa - toán cướp, và đứa bé nằm vắt người trên yên ngựa, đầu rũ xuống.

Tôi nhớ đến tiếng hét điên cuồng đầy phẫn nộ kiểu trẻ con của mình, sửng sốt trước thực tế rằng cuộc sống luôn mang lại cho ta nhiều bất ngờ. Rồi tôi lại nhớ mình đã trốn trong hố cưa để không ai chứng kiến nỗi đau mất cha như thế nào, nhớ cả những giọt nước mắt sầu muộn của mẹ tuôn chảy ra sao. Bỗng dưng tôi sực nghĩ, ngày hôm đó chính là ngày đen tối nhất và đau khổ nhất của cả tôi và Lorna.

Vì lý do gì đó, viên sứ giả của Đức vua cho rằng hiện tại, tốt hơn hết là ông không nên nói ra tên người phụ nữ tội nghiệp được cho là mẹ của Lorna. Biết rằng mình có thể dễ dàng khám phá ra điều đó mà không cần có ông, tôi tạm gác lại vấn đề đó một thời gian. Quả thực, tôi không dám tìm hiểu thêm, bởi nếu bà càng danh giá và giàu có thì tôi càng ít có cơ hội lấy được Lorna làm vợ. Không phải tôi sợ em sẽ bỏ tôi, mà tôi lo những người khác sẽ can thiệp vào, hoặc có thể chính tôi sẽ nhận thấy từ bỏ em là lẽ công bằng. Nghĩ đến đây, tim tôi đau nhói, có cảm giác như hơi thở rời khỏi mình.

Jeremy Stickles kiên quyết (ông có quyền làm thế vì chính ông là người khám phá ra sự thật) không cho tôi kể chuyện này cho Lorna, thậm chí mẹ tôi hay bất kỳ ai khác. “Hãy giữ nó kín như gắn xi, chàng trai!” Ông nói lớn kèm theo một cái nháy mắt. “Nên nhớ, câu chuyện này là của ta. Chú em hẳn phải mất năm mươi năm mới tìm hiểu được toàn bộ chuyện này, nhưng ta thì không cần lâu đến vậy. Thế này nhé, Chúa ban trí thông minh cho vài người, ban nông trại và tiền bạc cho vài người khác, và một khả năng nào đó cho những người thấp kém hơn. Mỗi người phải vận dụng tài năng đặc biệt của mình. Chú em làm việc ở nông trại, còn ta làm việc bằng trí óc. Cuối cùng, chàng trai ạ, ta sẽ đánh bại chú em.”

“Vậy thì Jeremy à, nếu ngài vắt óc để kiếm tiền thì chắc ngài phải là một tên ngốc khi mở cửa kho thóc cho tôi xem tất cả số thóc của mình.”

“Không hề, chú em ạ. Hoàn toàn ngược lại. Hai người đàn ông luôn đập lúa tốt hơn một người. Ta buộc chú em phải dùng cái đập lúa của mình, với cái của ta, nhưng với trách nhiệm đạo đức cao nhất để không làm đầy giạ cho đến khi ta bảo chú em.”

“Nhưng…” Bắt đầu cảm thấy rất thích thú khi nghe một người London sử dụng một cách bóng bẩy (dù không quả quyết) những phép ẩn dụ nông thôn đơn giản nhất, tôi lên tiếng vì ông đã hoàn toàn quên máy quạt thóc. “Chắc chắn nếu tôi làm đầy giạ, ngay cả khi ngài bảo tôi, tôi sẽ lấy một nửa số thóc.”

“Được, chú em.” Ông đáp. “Nếu chúng ta có thể đánh lừa mấy tên luật sư khốn kiếp. Chú em sẽ lấy cái đẹp, cái thanh nhã và tình yêu, tất tần tật những thứ đại loại thế - còn ta sẽ lấy tiền.”

Giọng ông tỉnh khô nhưng ngọt xớt. Tôi ngả người ra ghế, bật cười lớn, dù ẩn dưới tiếng cười đó là nước mắt.

“Nào, Jeremy, nếu tôi từ chối giữ kín chuyện này như gắn xi thì sao? Trước khi kể chuyện, ngài có đưa ra ràng buộc gì đâu. Tôi cũng không chắc kể xong thì ngài có quyền buộc tôi giữ kín.”

“Hừ!” Ông đáp. “Ta biết chú em là người khí khái. Thôi được, đúng là ta đã không đưa ra một điều kiện nào trước khi kể chuyện, vì biết chú em chẳng phải kẻ lợi dụng, như cánh luật sư. Ta thậm chí không muốn chú em phải thề. Tuy nhiên, chú em chắc chắn sẽ bị ràng buộc chặt chẽ với ta, cho đến khi ta cho buông. Hừ! Giờ này ta biết đàn ông rõ lắm rồi: một người có vẻ ngoài đáng tin đáng giá mười ngàn lời thề của kẻ khác.”

“Jeremy, ngài nói đúng.” Tôi đáp. “Ít nhất về vấn đề này. Mặc dù có lẽ ngài đã sai khi đưa tôi vào một cuộc mặc cả như thế này khi tôi chưa đồng ý hoặc hay biết gì. Nhưng nếu như cả hai chúng ta đều bị bắn trong cuộc tấn công quy mô lớn ở thung lũng (vì bây giờ tôi muốn đi với ngài, toàn tâm toàn ý), chẳng lẽ Lorna không được biết điều sẽ làm thay đổi cả cuộc đời của cô ấy hay sao?”

“Cả hai đều bị bắn!” Jeremy Stickles kêu lên. “Trời đất ơi, không được nói như thế chứ! Quân vàng sẽ đi trước; ta nghĩ chúng ta sẽ tấn công mạn Somerset. Ta sẽ lên một ngọn đồi do thám, còn chú em cắm chốt đằng sau một cái cây, nếu chúng ta có thể tìm được một cái cây đủ to để che chắn cho chú em. Chú em bảo hai chúng ta sẽ bị bắn khi mọi thứ đã được chuẩn bị đâu ra đó hay sao?”

Tôi bật cười, vì tôi biết ông dũng cảm và can trường. Quả thật, không một tên hèn nhát nào dám nói như thế.

“Nhân tiện nói luôn.” Ông nói tiếp, cười tủm tỉm. “Thực phẩm cần được dự trữ. Ta sẽ viết công khai toàn bộ các mệnh lệnh. Không bàn cãi gì thêm nữa nhé, chú em. Để ta uống chút rượu sơ náp, hút điếu thuốc rồi đi gặp “các chàng trai vàng” của ta nào.”

“Các chàng trai vàng”, cụm từ ông dùng cho lực lượng dân quân Somerset, lúc này đang đi xuống thung lũng từ đường London. Lực lượng của họ chẳng có kỷ luật gì cả, họ cũng chẳng vờ vịt nguyên tắc làm gì. Đó là ưu điểm của họ. Họ thậm chí còn chế nhạo những ai tỏ vẻ như thế. Mặt khác, binh lính của ngài Stickles nhìn xuống dân bản xứ từ một độ cao mà tôi hy vọng là họ không bị ngã lộn nhào, vì thể nào cũng gãy cổ.

Lực lượng dân quân xuất hiện, ca hát om sòm. Bài hát của họ mà viết ra đây thì chỉ có nước khiến những người đứng đắn tránh cuốn sách của tôi như tránh tà, và thể nào cũng có người nói: “Thằng cha này mà đòi yêu Lorna.”

Nên tôi chỉ nhắc đến thế thôi.

Hát xong bài ca để lên tinh thần, cả đám đứng nghiêm, giơ tay chào viên sứ giả của Đức vua. “Sao hả, sĩ quan của các anh đâu?” Ngài Stickles hỏi. “Các anh chẳng có sĩ quan thì biết làm thế nào?” Nghe thế, cả đám ngoác miệng cười. “Các anh có định nói cho ta biết hay không?” Jeremy tiếp tục. “Chuyện gì xảy ra với sĩ quan của các anh rồi?”

“Thưa ngài!” Cuối cùng, một người nhỏ thó lên tiếng, sau khi những người khác gật đầu ra hiệu, bởi họ đều biết khả năng ăn nói của anh ta. “Không ai đi cùng chúng tôi cả. Chúng tôi tự đến đấy.”

“Ý anh là…” Jeremy kêu lên, không biết nên cười, chửi thề, hay làm gì khác. “Sĩ quan của các anh để các anh tự đi mà không có họ?”

“Họ đi làm gì chớ?” Người đàn ông nhỏ thó kia lý lẽ. “Đây có phải là việc của họ đâu. Không đi họ càng mừng.”

“Được lắm!” ngài Jeremy đáng thương quay sang tôi. “Hay hớm thật đấy, John! Sáu mươi thợ giày, nông dân, thợ trát vữa, thợ may… và không có người chỉ huy nào, trừ cái thân già khốn nạn này! Ta nghĩ không người nào trong số họ có thể làm nên cơm cháo gì. Bọn Doone sẽ dần chúng ta tơi tả mất.”

Tuy nhiên, niềm hy vọng của ông được nhen nhóm khi lực lượng dân quân Devon (quân đỏ) xuất hiện. Họ đến sau đó khoảng một giờ - những chàng thanh niên sung sức, hăng hái muốn chứng tỏ bản thân. Họ không thải hồi sĩ quan chỉ huy, mà đi hành quân răm rắp theo lệnh của các sĩ quan ấy, sẵn sàng đánh người Somerset (nếu cần) cộng với bọn Doone.

“Ngài Jeremy Stickles.” Tôi thất kinh, các cô gái đứng bên cửa sổ trên lầu cũng trố mắt. “Ý ngài là chúng tôi, mẹ chúng tôi - một quả phụ, và tôi - một thanh niên sở hữu một điền trang nhỏ, phải cung cấp chỗ ở và thức ăn cho lực lượng dân quân của cả hai vùng cho đến khi họ chiếm được thung lũng Doone?”

“Chết chửa!” Ông đặt một ngón tay lên miệng. “Không, không, ta nào có cái lệnh đáng khinh đó, khi ta có những ràng buộc từ phía chính phủ. Hãy giết cừu với giá cắt cổ, nhào bột để làm những ổ bánh mì có hình dạng thể hiện sự nhọc nhằn, gian khổ của mùa đông khắc nghiệt vừa rồi. Hãy để Annie kê hóa đơn mỗi ngày, đến ban đêm ta sẽ kê gấp đôi nó lên. John, chắc chắn vụ xuân này sẽ mang lại cho chú em gấp ba lần vụ thu. Hãy tin ta. Nếu ở thành phố, chú em đã bị lừa thì giờ đến lượt chú em lấy lại công bằng rồi đấy. Đi lấy hóa đơn và viết nhanh lên.”

Việc làm này không đúng với quan điểm của tôi về những gì người lương thiện nên làm, nhưng tôi vẫn đi hỏi ý kiến mẹ, bởi tất cả các bản kê khai phải do bà đứng tên.

Mẹ nghĩ rằng nếu Đức vua chỉ trả một nửa số những người khác phải trả thì có lẽ đây là điều đúng đắn: trung thành một nửa thôi. Và bà trích dẫn một câu ngạn ngữ cổ rằng:

“Đức vua và tùy tùng của người

Là đồ bỉ ổi xấu xa!”

Câu ngạn ngữ này, theo đánh giá của bà, có tác động mạnh đến cách xử lý vấn đề hiện tại. Vì biết tranh cãi với bà không những vô ích mà còn có thể dẫn đến hậu quả tồi tệ, tôi chỉ bảo Annie soạn hóa đơn thấp hơn một phần ba giá thị trường để kết quả cuối cùng sẽ công bằng hơn. Em hứa với tôi sẽ làm vậy, nhưng kèm theo một cái nháy mắt, chắc là học được từ Tom Faggus. Hình như phụ nữ không hiểu về sự sòng phẳng trong vấn đề tiền bạc.

Quân vàng và quân đỏ gộp lại lên đến một trăm hai mươi người, hầu hết ngủ trong các kho thóc và trên các đụn rơm nhà chúng tôi. Ngoài ra còn có mười lăm lính chính quy. Cuộc sống người dân nơi đây bị đảo lộn hết cả, quý vị có thể tin như vậy. Dân chúng nô nức kéo đến xem họ luyện tập - những bài tập không cần thiết - thậm chí còn đông hơn cả quân lính. Cánh sĩ quan của Devon cũng gây phiền nhiễu đến mức chúng tôi gần như ước gì lính của họ thải hồi họ quách đi cho rồi, như lính Somerset đã làm với sĩ quan của họ vậy. Chúng tôi không thể đuổi họ ra khỏi nhà được vì tất cả đều có xuất thân danh giá. Đã vậy, trong nhà lại có ba cô gái dễ thương (kể cả Lizzie vì em đã biết ăn nói dễ nghe hơn). Mẹ và tôi bực mình không chịu nổi. Tôi không chợp mắt được lấy một chút nào khi cánh sĩ quan đáng nguyền rủa cứ tụ tập bên dưới cửa sổ, huýt sáo inh ỏi. Tôi phải đích thân ra ngoài để xua họ đi, nhưng chẳng thấy gì ngoài một con mèo.

Thế nên tất cả chúng tôi (có lẽ trừ bác Snowe, vì chúng tôi đã mua lương thực của bác với giá hời) đều mừng rỡ khi Jeremy Stickles ra lệnh hành quân, và chúng tôi bắt đầu cố gắng làm điều đó. Binh lính đi thành hàng dọc theo con đường làng, những cái đĩa lớn, dày đựng rau má mơ nhô ra giữa các tảng đá, sẵn sàng chữa lành những vết bầm của họ. Ca đoàn của giáo xứ và đoàn hát đến từ Countisbury lên tinh thần cho binh lính của chúng tôi bằng những bài thánh ca hùng hồn nhất. Cha xứ Bowden dẫn đầu đoàn, hứa sẽ đi cùng chúng tôi một đoạn. Chúng tôi hùng dũng tiến về phía trước, bọn trẻ con ùa ra xem. Tôi tự hỏi hiện giờ ông trẻ Reuben đang ở đâu. Ông chắc sẽ chỉ huy khẩu đội đại bác (chúng tôi có ba khẩu), nếu Stickles có thể tìm ra ông. Rồi tôi nghĩ về Ruth, dù chẳng có lỗi gì, tôi vẫn thấy tim mình chùng xuống.

Mấy khẩu đại bác được lũ ngựa kéo đi. Thỉnh thoảng lũ ngựa nhìn quanh quất, tai cong vểnh, mũi ngúc ngoắc vẻ nôn nóng, thắc mắc không biết thứ mà người ta hoan hỉ bắt chúng kéo là loại cày gì. Con người ấy mà, luôn có những ý tưởng nảy ra bất chợt với sự điên cuồng mà chúng không bao giờ hiểu nổi. Tuy nhiên, chúng ráng kéo hết sức có thể (lũ ngựa của chúng tôi luôn như vậy), và cứ như thế, mấy khẩu đại bác được đưa lên đồi mà chúng tôi không cần phải quất roi hay la hét gì. Khi chúng tôi lên đến đỉnh đồi, lực lượng dân quân Devon tiếp tục hành quân băng qua con đường mòn dẫn vào cổng lãnh địa gia tộc Doone, để đi vòng qua bên mạn tây, tấn công bằng súng đại bác từ các vách đá, chỗ tên lính gác đã ra lệnh cho tôi “Đứng lại” vào cái đêm tôi đi vào lãnh địa gia tộc Doone qua lối cổng chính. Trong khi đó, đội vàng chốt tại cao nguyên phía đông, nơi dạo nọ ông trẻ Reuben và tôi đã đi trinh sát, và là nơi tôi trượt xuống thung lũng lúc tuyết rơi dày. Họ không được lộ diện mà phải giấu khẩu đại bác trong rừng, chờ đội đỏ xuất hiện ở phía bên kia thung lũng.

Khẩu đại bác thứ ba được giao cho mười lăm người lính chính quy cộng với hai mươi người được chọn ra từ hai đội vàng và đỏ, mỗi bên một nửa, tổng số là ba mươi lăm người, tấn công lối cổng vào sào huyệt gia tộc Doone, trong lúc chủ nhân của nó bị đặt giữa hai luồng hỏa lực từ vách đá phía đông và phía tây. Jeremy Stickles và tôi đi cùng lực lượng này vì nắm rõ lối đi này nhất. Vì vậy, nếu để ý miêu tả của tôi, quý vị sẽ nhận thấy gia tộc Doone phải đương đầu cùng lúc ba cuộc tấn công, một trăm ba mươi lăm người cả thảy, đó là chưa kể các sĩ quan Devon.

Cuộc tấn công được lên kế hoạch bài bản và chi tiết, đó là nhờ tài thao lược của Đại tá Stickles. Tôi, cũng như mọi người, không ngớt tán dương ông. Jeremy thừa nhận mình xứng đáng với những lời khen tặng, nhưng ông cũng bảo mình không chắc chắn về sự thành công vì phe chúng tôi phần đông là lực lượng dân quân non nớt, hầu như chẳng biết gì về kỹ thuật bắn đại bác. Trong khi đó, bọn Doone đã được huấn luyện để trở thành những tay thiện xạ.

Ước gì tôi có thể kể lại toàn bộ diễn biến trận chiến ngày hôm đó, nhất là vì gần như tất cả dân chúng quanh vùng, những người chưa từng thấy súng nổ bao giờ, đã hiểu sai câu chuyện. Thậm chí có vài người tới đứng trước gia đình tôi đối chất lớn tiếng hết mức có thể, cho dù tại thời điểm trận đấu diễn ra, họ còn chưa ra đời, cha họ thì vẫn còn ẵm ngửa. Nhưng làm sao tôi có thể làm vậy khi mình không có mặt ở khắp các tuyến?

Nhóm chúng tôi đóng chốt tại một lối rẽ nằm trên con đường mòn dẫn đến cổng lãnh địa gia tộc Doone. Súng đại bác đã được nạp đầy đạn; chúng tôi hồi hộp và lo lắng khi biết nó có thể nổ bất kỳ lúc nào. Dù quân kỵ binh chưa đến (theo sự sắp xếp), ngoài bọn ngựa kéo đang bắt đầu khụt khịt gí mõm vào khẩu súng đại bác, chúng tôi còn có mấy con ngựa do vài người cưỡi tới. Những người đi xem sẽ trông coi lũ ngựa giúp chúng tôi, ngay khi chúng tôi vào trận, bởi vì tất cả bạn bè và hàng xóm của chúng tôi ban đầu cũng hăng hái lắm, song đến phút cuối lại quyết định không tham gia, chỉ đứng ngoài xem và tung hô phe chiến thắng.

Cuối cùng, chúng tôi nghe tiếng nổ lớn, chứng tỏ quân Devon và Somerset đang rót sự phẫn nộ của mình vào sào huyệt bọn cướp, hoặc ít nhất là chúng tôi nghĩ thế. Do đó, chúng tôi tiến quân nhanh gấp đôi qua lối rẽ có vách đá che chắn, hy vọng nhìn thấy cổng vào không được bảo vệ và bắn tung tất cả rào chắn. Thoạt tiên, đúng là như thế thật, lối cửa đá hẹp trông vắng vẻ, đìu hiu. Vì vậy chúng tôi lớn tiếng hò reo, chắc mẩm mình sẽ có một chiến thắng dễ dàng.

Tiếng reo hò còn đang dội lại khắp các vách đá cheo leo bên trên chúng tôi thì một tiếng huýt sáo rõ và đanh cất lên, xé toạc không gian, rồi một tá súng các bin rú lên, đạn bay rào rào về phía chúng tôi. Vài người lính nằm rạp xuống, số còn lại tiếp tục xông lên, Jeremy và tôi ở đằng trước, nghe thấy tiếng ngựa kéo súng đại bác chạy theo ngay đằng sau mình. “Anh em ơi!” Jeremy kêu to. “Hãy xông lên cùng một lúc cho bọn chúng hết đường trở tay nào.” Ông đã thấy kẻ thù trong chỗ nấp ở bụi cây bên trên.

Tất cả đồng thanh hét lớn đáp lại ông, noi theo tấm gương dũng cảm của ông, nhất loạt tiến lên trước khi kẻ thù kịp nạp đạn trở lại. Nhưng toán dẫn đầu vừa đi qua, một tiếng nổ lớn vang lên đằng sau chúng tôi, kèm theo tiếng la hét của binh lính, tiếng va chạm của kim loại và tiếng hí kinh hoàng của lũ ngựa. Thân cây bên trên đã được thả xuống, rơi thẳng vào chúng tôi. Khẩu đại bác và hai người lính bị đè bên dưới. Một con ngựa đáng thương bị gãy sống lưng. Một con khác gắng gượng đứng dậy trong tuyệt vọng, xương đùi bị gãy, thòi cả ra.

Chứng kiến cảnh tượng đó, tôi mất hết bình tĩnh vì thương hai con ngựa quá. Tôi thét lên và lao thẳng vào hang. Chừng năm, sáu người lính chạy theo tôi, người trước nhất là Jeremy, đúng lúc một cơn bão đạn rít lên xung quanh kèm theo một luồng sáng cùng tiếng gầm buốt óc. Tôi nhảy bật lên như một kẻ điên, lao vào một pháo thủ, hất hắn văng ngang qua khẩu súng đại bác. Những kẻ khác đã bỏ chạy, đằng sau chúng, một cánh cửa gỗ sồi nặng trịch đóng sầm lại. Thế là tôi như người mất trí, chẳng còn gì ngoài sức mạnh, ôm lấy khẩu đại bác bằng cả hai tay, đẩy nó thẳng vào cánh cửa, phần đuôi của nó hướng về đằng trước. Cánh cửa vỡ tung, khẩu đại bác kẹt cứng như gióng ngang của thợ xây.

Tôi nhìn quanh trong vô vọng, tìm kiếm đồng đội. Nhờ chút ánh sáng ít ỏi, tôi thấy chẳng có bóng dáng nào di chuyển suốt chiều dài đường hầm đằng sau, nhưng tôi nghe có tiếng rên nặng nhọc, cảm thấy toàn thân lạnh toát. Tôi vội vã chạy ngược lại tìm Jeremy, nơm nớp sợ ông đã bị trúng đạn.

Y như rằng. Tôi tìm thấy ông và ba người nữa. Hai trong số họ đã chết. Jeremy và người còn lại vẫn rên khẽ. Lúc đó, tôi chỉ biết dồn mọi chú ý lên họ chứ không quan tâm gì đến đánh đấm nữa.

Có quá nhiều người bị thương và chết; chúng tôi đứng quanh miệng hang nhìn nhau, ao ước có ai đó bảo cho chúng tôi biết mình cần làm gì. Nhưng chẳng ai đến cả. Tôi thương và lo lắng cho Jeremy, nhưng vì trước giờ chưa từng biết đến súng đạn, giết chóc nên tôi chỉ biết giữ đầu ông thật thẳng, cố cầm máu cho ông. Có lẽ đầu óc ông đã mụ mị hết cả, ông ngước nhìn tôi thảm thiết, như một con bê nhìn kẻ đồ tể.

Chắc chắn ông bị bắn trúng miệng vì hai chiếc răng rơi ra lẫn trong râu, một bên môi bay đâu mất. Tôi đặt khuôn mặt nát bấy của ông lên ngực mình, vỗ về ông như cách phụ nữ thường làm. Nhưng ông đột ngột nhìn tôi, và tôi nhận ra ông cần yên tĩnh.

Trong khi chúng tôi an toàn ở đó (vì mấy tên cướp chỗ bụi cây chắc chắn không thể bắn chúng tôi, cho dù chúng còn ở đó, và cánh cửa gỗ sồi đã bị chặn lại bởi khẩu đại bác), một cậu bé không biết từ đâu xông tới chỗ chúng tôi, vẻ ngông nghênh xấc láo - đặc trưng của bọn nhóc hỉ mũi chưa sạch mà học đòi ta đây.

“Không xong rồi!” Thằng bé la lớn. “Các chú, các anh tốt hơn hết là ra khỏi đây đi. Quân Somerset và quân Devon đang choảng nhau rất hăng; còn bọn Doone thì tương cả hai. Anh Ridd, ngay cả anh rồi cũng bị tương cho mà xem.”

Chúng tôi, nhúm người còn sót lại của lực lượng tấn công cổng Doone, đưa mắt nhìn nhau hệt những kẻ ngốc. Thế là chút hy vọng mong manh về chiến thắng và khôi phục thanh danh đã tiêu tan. Chẳng thể hiểu nổi tại sao quân Devon và quân Somerset, ban đầu cùng phe, giờ lại quay sang đánh nhau.

Không còn đánh đấm gì được nữa, chúng tôi lăn khẩu đại bác xuống sông, đặt ngài Stickles tội nghiệp và hai người bị thương nữa lên cỗ xe chở khẩu đại bác lúc nãy, đóng yên cương cho những con ngựa còn sống, giải thoát những con bị thương khỏi đau đớn, thất thểu trở về. Ai nấy đều mang trong lòng nỗi ê chề của sự thất bại thảm hại, nhưng kiên quyết giữ quan điểm rằng thất bại này chẳng phải lỗi của chúng tôi. Về mặt này, cánh phụ nữ cũng đồng tình, vì quá mừng rỡ và biết ơn khi đón chúng tôi còn sống trở về.

Chúng tôi đã thất bại nên tôi cũng không muốn dài dòng thêm làm gì. Tôi chỉ muốn nhắc đến mối bất hòa là mấu chốt của sự thất bại đó. Nó xuất phát từ sự ghen tỵ giữa quân đỏ và quân vàng. Tôi sẽ kể ra đây hết sức vô tư, vì tôi chẳng thuộc Somerset hay Devonshire; tôi sống ở chính giữa hai hạt, nguyên quán ở hạt này hoặc hạt kia đều được. Ban đầu là một bên kể cho tôi nghe, sau đó là bên kia kể. Rồi cả hai bên kể cùng lúc; họ thi nhau tuôn ra những lời lẽ mắng nhiếc thậm tệ, hùng hổ chực đánh nhau lần nữa cho ra môn ra khoai. Ghép các chi tiết lại với nhau, tôi thấy câu chuyện có vẻ như thế này:

Lực lượng dân quân Devon với quân phục đỏ đi một đoạn đường dài vòng quanh các ngọn đồi cho đến khi tập kết tại vị trí quy định ở mạn tây thung lũng Doone. Biết rằng lực lượng dân quân vàng sẽ giành toàn bộ chiến thắng nếu được phép nổ súng trước, họ không chịu nhắm đích chính xác mà cứ thế chĩa đại bác vào hướng vu vơ nào đó, phó mặc việc ấy cho Chúa, rồi cứ thế bắn. Vậy là cái hỗn hợp của bất kỳ đồ vật nào được xem là cứng (chẳng hạn như đáy lọ và núm cửa) - những thứ gây chết người - được phóng thẳng vào giữa đám quân vàng ở quả đồi phía đối diện, làm chết một và bị thương hai.

Thay vì đợi bên kia gửi sang một câu xin lỗi, bên Somerset lại chĩa họng súng về phía họ, bắn luôn, không thèm mảy may suy nghĩ. Không chỉ có thế, họ còn hò reo vang dội khi trông thấy bốn, năm người áo đỏ ngã rạp. Nếu không có hẻm núi ngăn chính giữa thì chẳng ai còn sống để mà kể lại.

Còn gia tộc Doone, sau khi triệu hồi lực lượng từ trong đường hầm, bèn xông ra lối cổng của Gwenny (hoàn toàn bị bỏ ngỏ), tấn công quân Somerset từ phía sau, giết bốn người bên cạnh khẩu đại bác. Thừa lúc những người còn sống sót bỏ chạy trối chết, bọn chúng chiếm lấy khẩu đại bác vẫn còn nóng hổi, lăn nó vào thung lũng của mình. Nghĩa là, trong ba khẩu đại bác được đưa đi, chỉ còn một trở về, đó là khẩu của quân Devon. Họ tự kéo nó về hòng có cái để mà khoác lác.

Ra quân rầm rộ là thế, nhưng lại thu về một kết cục đáng buồn, mọi người đổ lỗi cho nhau. Nhiều người trong chúng tôi muốn làm lại, tin chắc sẽ có một kết quả khác. Nhưng có một điều tất cả đều thống nhất, bởi một lý do nào đó tôi không biết, rằng cội rễ của thảm họa là do Mục sư Bowden đã đi lên đồi, đội mũ mà không mặc áo thầy tu.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 16
  • 17
  • 18
  • More pages
  • 38
  • Sau