T
ôi chưa từng nhìn thấy đóa hoa nào, trong ánh sáng, trong bóng râm hay ướt đẫm sương mai, có thể sánh được với khuôn mặt của Lorna khi đủ mọi cảm xúc dâng trào, hết lượt này đến lượt khác, điểm tô thêm và làm tôn lên vẻ đẹp của nó. Lorna lắng nghe chăm chú, gần như không nói một lời, cũng không cử động, chỉ có những tiếng thở dài, ánh mắt và những cái bóp tay của em là đủ khiến tôi biết từng lời tôi kể ra khiến em xúc động đến thế nào.
Nghe xong chuyện, em quay mặt đi, khóc thương cho số phận buồn thảm của cha mẹ mình. Nhưng lạ là em không cất một lời oán thán hay thù hằn. Có vẻ như em xem đấy là số phận an bài.
“Lorna!” Một lúc sau, tôi lên tiếng, vì đàn ông ít kiên nhẫn hơn phụ nữ. “Em thậm chí không muốn biết họ của mình là gì sao?”
“Điều đó có ý nghĩa gì với em hả John?” Em đáp, mặt buồn rười rượi khiến tôi thành ra giống như một kẻ bông lơn. “Biết họ của mình để làm gì cơ chứ, khi mà nhà em bây giờ không còn một ai.”
“Tội nghiệp em!” Tôi chỉ nói được ngần ấy bằng giọng xót xa. Trước sự ngạc nhiên của tôi, em xoay người lại, ôm ghì lấy tôi, khuôn mặt rạng ngời vẻ yêu thương.
“Anh yêu, em có anh.” Em thốt lên. “Anh, chỉ mỗi anh thôi, tình yêu của em. Có anh rồi, em không cần ai khác nữa. Cả đời này, em thuộc về anh.”
Mặt đỏ bừng vì khóc và trăn trở, nhưng em không giấu đôi mắt mình, cứ nhìn tôi đăm đắm không rời.
“Anh không tin nổi…” Trong sự hãnh diện và vui mừng, tôi khẽ nói vào một bên tai nhỏ xinh của em. “… rằng em có thể yêu anh đến vậy, có thể từ bỏ thế giới vì anh.”
“Anh sẽ từ bỏ nông trại vì em chứ, John?” Lorna lùi lại, nhìn tôi. “Anh sẽ từ bỏ mẹ, các em, nhà cửa, tất cả những gì anh có trên thế gian này và mọi hy vọng về cuộc đời mình vì em chứ, John?”
“Đương nhiên rồi. Không chút đắn đo. Em biết mà, Lorna.” “Thì em cũng thế mà.” Giọng em buồn bã. “Chính sức mạnh tình yêu của anh khiến em yêu anh nhiều đến vậy.
Nhưng thế thì chỉ dẫn đến kết cục tồi tệ thôi. Chúa không cho phép chúng ta ích kỷ.”
Vừa nghe em nói, tôi vừa ngắm những đường nét trên khuôn mặt em (nét nào cũng hoàn hảo), không chỉ vì tình yêu và sự ngạc nhiên, mà còn cả sự nể trọng.
“Em yêu.” Tôi nói. “Lại gần anh thêm chút nữa đi! Hãy cho anh sức mạnh để chống lại điều đó. Vì Chúa, đừng bao giờ làm anh sợ với ý nghĩ rằng Người sẽ chia lìa chúng ta.”
“Anh sợ nhiều đến vậy sao?” Em thì thầm, lại gần bên tôi. “Em biết điều đó, anh yêu. Em đã biết điều đó từ lâu rồi, nhưng nó chưa bao giờ làm em sợ. Nó làm em buồn và rất cô đơn. Thế rồi em chợt nhớ...”
“Em nhớ gì?” Tôi hỏi, rùng mình vì chúng tôi vốn rất mê tín.
“Em chợt nhớ rằng anh sẽ sớm trở về với em, sẽ là của em mãi mãi. Đây là điều em luôn nghĩ đến và hy vọng.”
Dù đôi mắt em ngời sáng long lanh, nhưng tôi không thích kiểu hạnh phúc “xa vời” như thế này. Tôi muốn tình yêu phải được thể hiện qua những điều rất thật - tôi muốn có một người vợ bằng xương bằng thịt, và những đứa con ra đời đúng thời điểm nếu Chúa ban. Tôi sẽ nuôi nấng chúng như cách cha đã nuôi nấng tôi. Ngoài ra, tôi không tin mình sẽ phù hợp với thiên đường, nơi không có cái cày, không có gia súc, trừ bò bị hiến tế đưa lên đó.
Vì vậy tôi nói: “Hôn anh đi, Lorna, đừng nói vớ vẩn nữa.” Và em vâng lời một cách dễ thương.
“Em yêu!” Tôi nói, xiêu lòng trước thái độ ngoan ngoãn của Lorna. “Em có nghĩ anh bằng lòng rời bỏ em cho đến khi em lên thiên đường không?”
“Làm sao em biết được anh bằng lòng về điều gì chứ?”
“Em, và chỉ em thôi.” Tôi nói. “Tất cả nằm trong một âm tiết. Giờ em biết anh muốn điều gì rồi đấy, và điều mà anh mong muốn đấy sẽ đem lại cho anh sự thoải mái.”
“Nhưng chắc chắn nếu em giàu có, xuất thân cao quý, anh sẽ không bao giờ dám nghĩ đến em.”
Em hít sâu kiêu hãnh, nhìn tôi bằng ánh mắt khinh mạn, quay người đi như thể bước lên cỗ xe ngựa lớn hoặc tiến vào cung điện nguy nga, trong khi tôi ngỡ ngàng và đau đớn (em vừa mới đáng yêu và dạt dào tình cảm thế cơ mà) đến mức không nói được lời nào, chỉ nhìn chằm chằm và nghĩ: “Ý em là gì?”
Nhìn thấy nét mặt đau khổ và ánh mắt bối rối của tôi, Lorna rời khỏi cỗ xe ngựa và tòa cung điện tưởng tượng, lao vào tôi hệt một cô gái vắt sữa chân quê.
“Ôi, chàng John ngốc đến đáng sợ của em, anh ngốc hết phần người khác rồi đấy.” Em quàng hai tay quanh cổ tôi, áp môi lên trán tôi. “Anh vẫn tự gọi mình là gã khờ, cơ mà em chưa khi nào tin. Nhưng giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa. Anh sẽ không bao giờ biết lòng em thế nào phải không?”
“Không, Lorna, anh sẽ không bao giờ biết. Anh có thể dễ dàng hiểu mẹ, và ít nhất là một trong hai cô em gái, cả hai chị em nhà Snowe nữa, nhưng anh chưa bao giờ hiểu em, anh chỉ càng yêu em hơn vì lẽ đó.”
“Nếu thế thì đừng bao giờ cố hiểu em, John. Nhưng em là người đơn giản nhất trong tất cả những người đơn giản, ngốc nghếch. Không, em sai rồi; về khoản này em chịu thua anh đấy. Ai đời lại nghĩ em có thể hành động như vậy! Thảo nào họ muốn em ở London, làm vật trang trí cho sân khấu.”
Sau này, mỗi khi nghe người ta nói về Lorna như người giàu nhất, cao quý nhất, xinh đẹp nhất ở London, tôi thường nghĩ về cảnh tượng đó, nhớ lại mọi lời nói và cử chỉ của em, tự hỏi điều gì ẩn sâu bên dưới. Ngay cả bây giờ, dù không thể nào (kể cả là chỉ một lần thôi) nghi ngờ đôi mắt sâu trong veo ấy, đôi môi đỏ tươi run rẩy ấy, tôi vẫn cảm thấy thế giới này sẽ phải cần đến chúng; và những người tốt nhất, chân thật nhất không thể trốn chạy. Tuy nhiên, vào lúc đó, tôi rất hãnh diện và phô bày niềm hãnh diện ấy.
Hẳn ai cũng biết rằng thực tế luôn khác với tưởng tượng, những sự việc xảy đến với chúng ta đều khác so với những gì chúng ta mong đợi. Thực tế được vận hành bởi một ngàn bánh xe, trong khi tưởng tượng chỉ có hai bánh, đó là khát khao và sợ hãi. Niềm hy vọng đương nhiên chỉ là sự khao khát đi kèm một cái kính viễn vọng, thổi phồng lên các vấn đề ở khoảng cách xa, bỏ sót những thứ ở gần; chỉ nhìn các sự vật bằng một con mắt, còn con mắt kia thì nhắm tịt. Nếu hy vọng là thời tương lai của khát khao, vậy thì thời tương lai của sợ hãi chính là tôn giáo - ít nhất là đối với rất nhiều người trong số chúng ta.
Bất kể những gì tôi nói ở trên là đúng hay sai, vào thời trẻ, chắc chắn niềm hy vọng là vị du khách nhanh nhất. Do vậy, tôi hy vọng Lorna có thể được chứng minh rằng em có một gia đình trong sạch, thuộc tầng lớp giàu sang, cao quý, và dù có thế, em vẫn yêu tôi, thuộc về tôi. Vậy nên tôi dẫn em vào nhà, em ngã vào vòng tay mẹ tôi. Tôi để họ khóc cho thỏa thuê, với Annie bên cạnh, sẵn sàng giúp đỡ khi cần.
Nếu ngài Stickles vẫn chưa thể nói được để kể cho chúng tôi nghe tất cả những gì ông biết, tôi buộc phải đi ngựa đến Watchett, và thuê một cỗ xe ngựa có bánh ở đó. Ở Exmoor thời ấy, chúng tôi chỉ dùng con lăn chứ không dùng bánh xe, vì nhiều người vẫn còn xem đó là một phát minh ma quỷ.
Nhưng tình trạng của Đại tá Stickles cứ mỗi lúc một tệ hơn, dù tất cả chúng tôi tận tâm chăm sóc ông bằng thức ăn đủ dinh dưỡng và thảo dược, chứ không phải thuốc tây độc hại. Chuyện này không phải lỗi của chúng tôi, mà là tại ông. Ông đã lên cơn sốt nặng, không thể ngủ nổi sau khi biết được từ Lizzie điều mà mẹ và Annie đang cố hết sức giấu ông. Chuyện là thế này, Trung sĩ Bloxham, tự thấy mình có trách nhiệm, đã gửi về London một bản tường trình đầy đủ về những gì đã xảy ra và tình trạng sức khỏe của viên chỉ huy, kèm theo lời thỉnh cầu chi viện khẩn cấp một tiểu đoàn và một chỉ huy toàn quyền.
Trung sĩ Bloxham đã sốt sắng tiếp quản nhiệm vụ chỉ huy trong khi cấp trên của mình bất lực. Rồi, với khao khát được phục vụ đất nước và thể hiện kiến thức của mình, anh ta ngồi gần ba đêm để viết bản tường trình với sự hỗ trợ của chiếc đèn lồng treo ngoài chuồng bò. Bản tường trình rất thú vị, ba người được anh ta bí mật đọc cho nghe đều nói vậy. Lẽ ra chuyện chỉ dừng lại ở đấy, nhưng rồi nghe nói Lizzie nổi tiếng về tài phê bình văn học, anh ta quên mất ý tứ, đem bản tường trình nhờ em đánh giá.
Lizzie ngồi trên một khúc gỗ, chăm chú lắng nghe, sau khi đưa ra điều kiện là không ai được làm gián đoạn. Em thêm một từ vào chỗ này, chỗ kia, có lúc lại bỏ bớt. Rồi em tuyên bố bản tường trình đã ổn - văn phong súc tích, không quá cầu kỳ nhưng sắc sảo. Nghe thế, viên trung sĩ đánh rơi ống tẩu, làm nó vỡ làm ba, và phải lòng em ngay tắp lự.
Bản báo cáo được hai viên công lại của tòa Đại pháp quan chuyển giúp đến London. Họ đã lưu lại đây ba ngày, được chúng tôi cung cấp quần áo và thực phẩm. Đúng ra họ tính ở thêm một tuần nữa vì theo họ, dù có công việc khẩn cấp đang đợi nhưng nán lại một tuần cũng chẳng chết ai. Tuy nhiên, viên trung sĩ đã viết xong bản tường trình và không phải là người thích trì hoãn, nên họ đành giã từ tất cả, về lại London.
Annie chuẩn bị hai gùi thức ăn cho họ. Họ mượn hai con ngựa nhà chúng tôi, cưỡi đến Dunster, để chúng ở đó, rồi thuê xe đi thẳng về London. Thời gian không đủ nhiều để chúng tôi quý mến họ, nên chúng tôi cũng không nhớ gì họ, nhất là trong lúc cả nhà đang bận lo lắng cho ngài Stickles đáng thương.
Jeremy nằm giữa lằn ranh của sự sống và cái chết trong ít nhất là hai tuần. Nếu viên đạn nhích lên trên chỉ một phân thôi, ông không cần ai khác ngoài Cha Bowden. Nhưng nó đi vào theo chiều ngang, hơi xiên một chút, và ra từ cổ ông.
Giờ đây gỉ sét nằm lại trong vết thương, hay ít nhất chúng tôi nghĩ như vậy, dù từ khi nói chuyện với một bác sĩ, tôi không chắc về điều đó. Mục đích chính của chúng tôi là gột sạch chỗ gỉ sét đó; trong khi lẽ ra chúng tôi nên để cho vết thương lành lại.
Cuối cùng, tôi thuyết phục được ông bằng lập luận rằng ông phải khỏe lên để không bị thế chỗ một cách nhục nhã, bất công. Tôi còn sỉ vả Trung sĩ Bloxham không tiếc lời, nếu Jeremy mà chửi được chắc cũng không dữ dội bằng, đến độ Jeremy gần như tha thứ cho anh ta và trở nên ôn hòa hơn. Sau đó, cơn sốt cũng như sự viêm tấy ở vết thương của ông giảm đi rất nhanh chóng.
Tuy nhiên, vì không biết chuyện gì có thể xảy ra, hoặc chừng nào Lorna bị giằng ra khỏi vòng tay che chở của chúng tôi, rơi vào tay cánh luật sư, một ngày kia, nhân dịp vài người lính từ tiền đồn đến chơi, có thể bảo vệ nhà tôi an toàn, tôi khởi hành đến Watchett. Tôi cưỡi ngựa một mình, tâm lý vững vàng, không chút lo âu. Thiên hạ kháo nhau rằng gia tộc Doone bắt đầu sợ tôi, vì tôi quẳng khẩu đại bác của chúng qua cổng (như tôi đã kể ở trên), và tin chắc rằng tôi có bùa ngăn đạn vì tướng tá dềnh dàng thế mà cả súng thường lẫn đại bác đều không chạm tới được. Tuy nhiên, tôi biết Carver Doone không thuộc típ người mê tín dị đoan, và tôi luôn có nỗi sợ hãi mang tính bản năng đối với gã, mặc dù luôn sẵn sàng đối mặt cùng gã.
Vừa cưỡi ngựa, tôi vừa trầm ngâm suy nghĩ về cuộc đời của Lorna. Biết bao nhiêu là chuyện trước đây vẫn chìm trong bóng tối giờ bắt đầu được phơi bày! Chẳng hạn như ngài Ensor Doone đã đồng ý, hoặc nói đúng ra là dửng dưng, đối với việc em cưới một tiểu điền chủ, khiến cả hai chúng tôi vô cùng kinh ngạc. Giờ ngẫm lại, em rốt cuộc chẳng phải cháu gái của Ensor, thậm chí còn là hậu duệ kẻ thù của ông, cho nên hà cớ gì ông phải cảm thấy đó là mối nhục của dòng họ? Hơn nữa, từ tiếng kêu của mẹ Lorna khi bà trông thấy thủ lĩnh của toán cướp, tôi có thể suy ra rằng cha của Lorna từng là kẻ thù của gia tộc Doone. Sự thật đó là động cơ để bọn chúng bắt đi đứa con gái nhỏ bất hạnh, nuôi em lớn lên như người nhà và không cho em biết thân phận thật sự của mình. Em là “quân bài lớn” trong trò chơi bài All-fours vào dịp lễ Giáng sinh. Nếu một trong số họ có thể cưới được em trước khi em còn chưa hay biết gì về nguồn cội của mình, số tài sản khổng lồ đủ để mua lệnh tha cho một ngàn người Doone sẽ về tay họ.
Lorna càng lớn càng xinh đẹp khiến Carver Doone mê đắm, không cho bất cứ ai khác được cầu hôn em, thế là tất cả dạt ra vì sợ gã. Có một điều dường như đi ngược lại các quy luật của bản chất con người, và là điều tôi mong được biết nhưng không dám gặng hỏi Lorna. Làm thế nào một cô gái xinh đẹp nhường ấy có thể thoát khỏi những tình cảm xấu xa của một nhóm người vô pháp?
Nhưng giờ đây việc này đã rõ. Nếu bất kỳ hành động bạo lực nào được chứng minh thì tất cả các đòi hỏi về điền trang rộng lớn của em chắc hẳn sẽ bị vô hiệu hoàn toàn; đương nhiên những đòi hỏi ấy phải được trình lên tòa. Do đó tất cả những kẻ lớn tuổi hơn (nhăm nhăm vào tài sản của em) luôn canh giữ sát sao những kẻ ít tuổi hơn vốn chỉ quan tâm đến con người em.
Tôi đứng nơi ngưỡng cửa đầy sạn và cát, gõ vào cánh cửa nhỏ, đợi một lúc thật lâu nhưng không thấy ai đáp hoặc mở cửa cho tôi vào. Không muốn bị xem là vô giáo dục, tôi tiếp tục đợi, ngắm biển cùng những đợt sóng liên tiếp xô bờ - dù thủy triều đã rút phân nửa - và tận hưởng làn gió ngoài khơi thổi vào mơn man cho người tỉnh táo. Một lát sau, tôi lại gõ cửa, vì ngựa đã đói. Lại đợi thêm lúc lâu nữa. Rồi một giọng nói xuyên qua lỗ khóa:
“Ai đấy?”
“Cậu bé ngoài máy bơm, khi xe ngựa bị hỏng ở Dulverton đây. Cậu bé đó sống ở… và chị bảo một ngày kia sẽ đến tìm cậu ấy.”
“Ồ, đương nhiên là tôi nhớ rồi. Cậu bé có làn da trắng sáng. Tôi vẫn mong gặp cậu ấy, mong suốt.”
Vừa nói chị vừa mở cửa, và giật mình lùi lại, chết sững vì cậu bé năm xưa nay đã thành gã khổng lồ.
“Cậu không thể là cậu bé đó được. Hoàn toàn không thể. Tại sao cậu lừa tôi?”
“Tôi không chỉ là cậu bé bơm nước giúp chị cho đến khi chị có được ly nước ưng ý, mà tôi còn đích thân đến đây để kể cho chị nghe hết về cô gái bé nhỏ của chị.”
“Mời vào, cậu bé khổng lồ.” Chị đáp, đôi mắt đen lấp lánh. Tôi vào nhà và nhìn chị. Giống như tôi, chị cũng đã thay đổi. Những đường nét thanh mảnh, duyên dáng đã biến mất. Không phải là tôi nhớ bất kỳ điều gì về thân hình của chị đâu, xin quý vị đừng hiểu lầm. Con trai ở tuổi mười hai chưa có xu hướng để ý đến hình dáng phụ nữ, chẳng qua là dáng đi thẳng của chị đã khiến tôi kinh ngạc vì không giống dân quê chúng tôi. Thời thanh xuân của chị qua rồi, giờ đến lượt con chị. Tuy nhiên khuôn mặt chị vẫn chưa phai nét đẹp, và sự thông minh vẫn còn. Tôi nhìn chị chăm chăm, chị cũng vậy, chúng tôi tin chắc mình đã gặp đúng người.
“Bây giờ cậu muốn ăn gì nào?” Chị liếc nhìn miệng tôi. “Chẳng phải đó là câu đầu tiên dân nhà quê các cậu vẫn hỏi hay sao?”
“Rồi tôi sẽ nói cho chị biết sau.” Tôi không thích cách nói mỉa mai đó của chị. “Cho tôi một lít bia trước đã.”
“Dĩ nhiên rồi. Mang một lít bia nhé!” Chị cất tiếng gọi một cô gái nhỏ, chắc chắn là con gái cả của chị. “Có gì bất ngờ đâu nào. Đàn ông Anh các cậu chỉ có bia, bia và bia suốt ngày thôi.”
“Không, không phải suốt ngày, xin chị thứ lỗi. Chỉ nửa lít vào bữa sáng, hai phần ba lít lúc mười một giờ, và một bình vào bữa trưa. Rồi không uống gì nữa cho đến chiều, và hai lít rưỡi vào bữa tối. Không ai có thể phản đối điều đó.”
“Ái chà, tôi nghĩ là đúng vậy.” Chị nói vẻ cam chịu. “Chỉ có Chúa mới biết. Còn tôi thì không hiểu. Thói quen đó “tốt cho công việc”, như các cậu nói, để ngăn ngừa các thứ.”
“Nó tốt cho chúng tôi.” Tôi bực lên vì bia là thức uống ưa thích của tôi. “Tôi tin vào bia, thưa chị; tất cả chúng tôi đều tin vào nó.”
“Chứ còn gì nữa, chàng trai. Nếu bia biến cậu thành khổng lồ thế này, tôi sẽ cho con cái của mình tập uống, chứ tôi thì quá muộn để bắt đầu rồi. Tôi không chịu được mùi bia.”
Người nước ngoài ngoan cố thế đấy. Họ chỉ uống mấy thứ kém chất lượng của mình thôi, những thứ họ gọi là rượu vang đỏ, rượu vang Medoc hoặc Bordeaux, nếu không thì là loại nước uống kiểu như men dịch vị chua lè, được trộn đều với táo ép nhuyễn, rồi lọc qua cái phễu của vú Betty. Thứ này rất tốt đối với họ, chắc chắn là họ xứng đáng với nó. Có lẽ đây là ý Chúa, với những con người bất hạnh đó. Nhưng họ lại mang nó đến Anh và đem nó so với bia ủ tại nhà của chúng tôi (đó là chưa kể rượu vang từ Bồ Đào Nha), bán nó với giá gấp mười, như một liều thuốc dành cho mật của người Anh, và coi đó là một sự khai sáng lớn lao. Đó chính là đặc tính ghê tởm nhất của thời đại chúng tôi.
Phu nhân Benita Odam - vì tên của người đàn ông làm đồ gốm là John Odam - đưa tôi vào một căn phòng nhỏ có hai chiếc ghế và một chiếc bàn gỗ linh sam, chị ngồi xuống một chiếc ghế ba chân, nhìn tôi không rời mắt. Chị có quyền làm điều này, còn tôi hiện đang mặc quần áo tử tế nên không có gì phải bối rối. Tôi sẽ không lặp lại lời bình phẩm điềm nhiên của chị về ngoại hình của tôi cứ như thể tôi là một con lợn ngoài chợ, và chị hãnh diện như thể tôi là con lợn nhà chị vậy. Chị hỏi tôi đã xóa mấy vết chàm trên ngực chưa.
Không muốn nói về bản thân dù rất muốn, tôi dẫn dắt chị trở về cái đêm đáng sợ vào ngày tôi lần đầu tiên gặp chị. Chị không muốn nói về nó vì bầy con nhỏ của mình. Tuy nhiên, tôi dần dà khơi gợi chị nhớ về Lorna, về đứa bé trai đã chết và người mẹ tội nghiệp được chôn cùng với nó. Thế rồi, chị kể cho tôi nghe chính câu chuyện mà chị đã có lần kể cho ngài Jeremy Stickles, chỉ có điều lần này chị kể chi tiết hơn. Với trực giác của phụ nữ, chị kể tôi nghe về bé gái kĩ hơn lúc kể cho Jeremy.
“Chị sẽ nhận ra cô ấy khi gặp lại chứ?” Tôi hỏi, xúc động bởi những miêu tả về Lorna hồi năm tuổi. “Bây giờ cô ấy đã lớn rồi, liệu chị có nhận ra không?”
“Chắc là có.” Chị đáp. “Khó có thể nói ta nhận ra được người nào không cho đến khi gặp mặt, nhưng nhờ vào đôi mắt của con bé, tôi nghĩ chắc chắn tôi sẽ nhận ra. Ôi chao, con bé thật đáng thương! Tôi cứ tin là bọn ăn thịt người đã nhai nuốt con bé mất rồi! Ôi, dân quê các cậu thật là! Thịt, thịt, thịt!”
Chị giơ hai tay lên, trợn mắt kinh tởm trước thói quen ăn thịt của chúng tôi, và rõ ràng đã kết luận sự mất tích của Lorna liên quan đến thói quen đó. Tôi không thể nhịn được cười, dù không đúng lúc. Hiện tại và cả sau này, chắc chắn mọi người sẽ cho rằng gia tộc Doone đã từng ăn thịt một đứa bé trên đồi Porlock sau trận đánh nhau ở chợ, nhưng tôi cam đoan chuyện đó hoàn toàn sai. Chúng hung hăng và tàn bạo thật, nhưng ăn uống đàng hoàng, kĩ lưỡng, thậm chí có thể nói là kén cá chọn canh. Tuy nhiên, tôi không tranh cãi với chị chuyện đó vào lúc này.
“Bé gái đó không bị ăn thịt hay gì hết.” Tôi nói. “Cô ấy giờ đã lớn, và vô cùng xinh đẹp. Nếu tôi ngủ lại quán trọ ấm cúng của chị vào đêm nay, sau khi đi đến thị trấn Watchett, ngày mai chị sẽ đi Oare cùng tôi để gặp bé gái của chị chứ?”
“Tôi muốn lắm, nhưng sợ. Nơi này quá man rợ. Chúa ơi, tôi thế này dễ bị ăn thịt lắm!”
Chị ngắm nghía bản thân bằng ánh mắt vừa thương hại vừa ngưỡng mộ. Kể ra chị nói cũng đúng, thịt trên người chị chắc phải mất một tuần mới lóc đến xương, có vẻ như chị thậm chí còn nghi ngờ rằng cả tôi cũng có khuynh hướng ăn thịt đồng loại. Tuy nhiên, cuối cùng tôi cũng thuyết phục được chị hứa đi cùng tôi vào ngày mai, sau khi đoán chừng thể nào ông Odam cũng đi cùng vợ cho đúng phép tắc. Tin chắc ông Odam là người chiều vợ, tôi xem như chuyện này đã được giải quyết xong xuôi, bèn khởi hành đến Watchett để viếng thăm mộ người mẹ đáng thương của Lorna, và thuê một chiếc xe cho ngày mai.
Tôi dễ dàng thuê được xe ở Watchett. Nhưng việc còn lại tưởng dễ hóa ra lại không hề đơn giản. Khi nghe Benita bảo cha của Lorna là Bá tước Dugal, tôi đinh ninh rằng ai nấy trong thị trấn đều biết phần mộ bá tước phu nhân đặt ở đâu. Thực tế hoàn toàn ngược lại. Ngài Dugal chưa từng sống ở Watchett Grange, cũng chẳng ai biết ông là chủ nhân của nó. Bởi lẽ trang trại này được chuyển giao cho ông bằng chúc thư, theo chế độ thừa kế theo thứ tự khi người cuối cùng của dòng họ Fitz-Pains qua đời. Dù muốn nhưng ông đã ra nước ngoài mà không nhận quyền sở hữu đất vĩnh viễn. Khi nghe tin ông chết, John Jones, một quý ông giàu có từ Llandaff, đã giành quyền sở hữu, với tư cách là người kế tiếp trong danh sách kế thừa theo thứ tự, và ém nhẹm toàn bộ câu chuyện. Cho dù có là thời kỳ tồi tệ nhất thì một phu nhân thuộc giai cấp thượng lưu và giàu có cũng không thể bị cướp cũng như bị sát hại, rồi được chôn cất tại một nơi tầm thường mà không khiến công chúng chú ý, nên sự thật đã bị bóp méo, câu chuyện được lan truyền với một phiên bản hoàn toàn khác, rằng đó chỉ là một phụ nữ nước ngoài đi du lịch dọc theo bờ biển nước Anh. Vì con người đáng thương đó không thể nói được nữa, mấy người hầu và hành lý của bà trông rất lạ, chiếc váy bà mặc trên người lúc qua đời có cổ bằng ren không giống kiểu người ta thường mặc ở Anh, nên dân chúng Watchett tuyên bố ngay bà là người nước ngoài. Còn hai người hầu Anh, một nam một nữ, hẳn đã dọn dẹp mọi thứ, hoặc là bị mua chuộc bởi ngài Jones, hoặc tự ý chuồn mất cùng với những hành lý còn sót lại. Vì vậy Bá tước phu nhân Dugal, chỉ còn cách ngôi nhà lớn một quãng ngắn, được chôn tại một nghĩa trang vô danh cùng với hai đứa con mà không hề có bia mộ (một điều tệ hơn tất thảy), không hề có giọt nước mắt nào tiếc thương, ngoại trừ từ cô hầu gái người Ý.
Chắc chắn Lorna đáng thương của tôi xuất thân từ một gia đình xấu số.
Giá như tôi đưa Benita đi cùng, hoặc nói cho chị biết tôi muốn gì, hoặc nài xin chị chỉ đường, thì hẳn đã dễ dàng hơn rồi. Nhưng quý vị cũng biết rồi đấy, tôi đâu có đủ sáng trí để nghĩ được như vậy. Chưa hết, tôi đã sai lầm khi tự mình đi tìm hiểu sự việc thay vì cử một ai đó vô danh. Điều này còn khiến tôi bực bội hơn. Vì thời đó (và cả bây giờ) tôi khá là nổi tiếng, trong vòng bán kính bốn mươi dặm quanh nhà tôi, cứ mười người thì hết chín người biết John Ridd. Chẳng phải vì tôi kiệt xuất hay gì, đơn giản là bởi tôi giỏi đấu vật. Đây là một môn thể thao tinh tế, đòi hỏi một chút lanh trí cũng như sức mạnh cơ bắp. Võ sĩ buộc phải chừng mực, thanh bạch, tự trọng, nhất là điềm đạm và tử tế. Tôi đã đánh bại những người khỏe hơn mình (khi tôi vẫn còn là một thanh niên mới lớn, lúc sức khỏe chưa đạt đỉnh) là nhờ họ mất bình tĩnh. Dù võ thuật là một môn thể thao công bằng, nhưng chắc chắn những người trội hơn có quyền đối với cuộc sống riêng tư của bản thân họ.
Thôi, tôi sẽ không dông dài nữa vì sợ nuông chiều tính nết cáu bẳn của mình. Vắn tắt là cả thị trấn Watchett rất muốn nhìn thấy John Ridd cũng như để anh ta thấy điều mình muốn. Tôi được đưa đến nhà sinh hoạt chung thay vì nghĩa trang nhà thờ; và hai mươi chiếc bàn sẵn sàng cho tôi thay cho một bia mộ. “Cậu là người Zummerzett, Jan Ridd, và cậu xẽ là ngườiZummerzett. Cậu tự nhận mình là người Devon? Ùi, cậu xống ở Zummerzett, và cậu xinh ra ở Zummerzett.” Cứ thế cho đến khi tôi mệt lử; dù rất biết ơn họ. Về nghĩa trang nhà thờ, không ai nghe đến nó.
Nhưng làm sao tôi dám nhìn mặt Lorna lần nữa khi chưa thực hiện được điều đã hứa với em? Tôi không thể nào nói với em rằng tôi được rất nhiều người yêu mến và thán phục, họ muốn thết đãi tôi, vì thế tôi không thể lo việc của mẹ em được. Tệ hơn cả, làm sao tôi có thể nói rằng ở Watchett, ai ai cũng biết John Ridd, nhưng chẳng ai nghe nói gì đến Bá tước phu nhân Dugal?