• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tình sử Lorna Doone - Tập 2
  3. Trang 20

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 38
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 38
  • Sau

Chương 57

S

au khi nghe Benita Odam miêu tả đầy đủ về nơi bà chủ đáng thương của chị yên nghỉ và những dấu hiệu để nhận biết, tôi vội đến Watchett vào sáng hôm sau, trước khi mặt trời mọc, hoặc bất kỳ ai thức dậy. Thế là nhờ không bị gián đoạn, tôi có mặt ở nghĩa trang nhà thờ lúc bình minh.

Ở nơi xa nhất, tối tăm nhất, cỏ mọc tràn, có một cái cây có cành rủ xuống một ụ đất nhỏ, đó là chốn yên nghỉ của một cuộc đời bất hạnh. Chẳng có gì cho thấy địa vị, sự giàu có, tình yêu hay thậm chí sự xót thương. Chỉ có hai chữ viết - một chữ L thô sơ và một chữ D còn thô sơ hơn - có thể là do Odam (được vợ dạy) khắc trên hòn cuội lớn lấy từ bờ biển, dựng lên làm mộ chí.

Tôi lấy một ít cỏ cho Lorna và một cành con từ cái cây rủ bóng, rồi quay về Forest Cat, tên quán trọ đơn độc của Benita. Vì đoạn đường từ Watchett đến Oare khá xa, cho dù quý vị phi ngựa nhanh như gia tộc Doone vào cái đêm tai ương đó thì đi bằng xe với chỉ một ngựa vẫn cần có thời gian và sự cẩn trọng. Vì vậy, chúng tôi khởi hành khá sớm - ba người lớn và một em bé (vì nó còn quá nhỏ nên không để ở nhà được). Vợ của người chủ xe ngựa nhận coi sóc quán và lo cho lũ trẻ ở nhà, với điều kiện là có chìa khóa của tất cả các vòi rượu.

Đường sá trong truông đã được miêu tả khá nhiều từ đầu câu chuyện đến giờ, nên tôi sẽ không nhắc lại. Chúng tôi đến Plover’s Barrows an toàn trước chạng vạng. Chị Benita phấn khích vì được thay đổi không khí, thoát khỏi cuộc sống vất vả, tẻ nhạt của mình.

Người đầu tiên ra cổng đón chúng tôi là Lorna. Em mặc chiếc đầm dài màu trắng có viền, tôn dáng người hoàn hảo của em. Em không đội gì trên đầu (vì đang là mùa hè), để suối tóc đẹp xõa quanh người. Em hớn hở chạy thẳng đến xe ngựa, rồi khựng lại nhìn Benita chằm chằm. Mới nhìn là cô hầu gái cũ đã nhận ra em ngay. “Ôi, đôi mắt, đôi mắt!” Chị kêu lên, nhảy qua tay vịn xe ngựa luôn, bất chấp thân hình tròn trịa. Lorna nhìn chị ngờ vực và kinh ngạc. Nhưng khi người phụ nữ nước ngoài nói gì đó bằng tiếng Ý và phủi cỏ khô từ xe ngựa bám trên mình, như thể gợi nhắc lại một ký ức nào đó của tuổi thơ, Lorna reo lên: “Ôi, Nita, Nita!” và lao vào lòng chị, khóc nức nở, sau đó đưa mắt nhìn quanh chúng tôi.

Vậy là thân phận của tiểu thư Lorna đã được chứng minh, không còn nghi ngờ gì nữa, vì dù chúng tôi đã đánh mất sợi dây chuyền - nhờ vào “trí khôn” của Annie - thì vẫn còn chiếc nhẫn cổ, được Lorna xem là vật đính ước với tôi. Benita biết chiếc nhẫn này rõ như bàn tay mình, vì đã nghe một câu chuyện dài về nó, và hình con mèo hoang trên chiếc nhẫn chính là biển tên ngôi nhà của gia đình Lorna.

Cha Lorna thuộc dòng dõi quý tộc đã đành, mẹ em thậm chí còn là hậu duệ của một dòng họ cổ và lừng danh hơn, là người cuối cùng trong dòng dõi trực hệ từ những người có địa vị cao nhất thuộc xứ Lorne. Họ là một dòng giống dữ dội, ương ngạnh, bằng mọi giá phải có mọi thứ theo cách của mình. Dòng máu nóng nằm trong người họ, vương quyền của họ (đã hơn một lần thách thức vua Scotland) mất dần và sa sút bởi liên tục xảy ra tranh cãi. Cũng vì lẽ đó, gia tộc Doone nảy sinh xích mích với Bá tước Lorne, người cuối cùng mang tước hiệu ấy.

Rồi ái nữ của ngài Bá tước cưới Ensor Doone, việc này thay vì hàn gắn những rạn nứt lại dẫn đến xung đột dữ dội hơn. Tôi chẳng bao giờ hiểu cặn kẽ những chi tiết phức tạp mà chỉ luật sư mới có thể thấu suốt.

Nói ngắn gọn, Lorna chính là người thừa kế trực tiếp và duy nhất khối tài sản khổng lồ của gia tộc mình. Vì mối thù hận không gì hóa giải nổi với gia đình mà em là người cuối cùng còn sót lại, gia tộc Doone rắp tâm bắt em đi, hòng mai sau dựng lên được một cuộc hôn nhân hợp pháp. Nếu như người kế tục là bọn chúng, chắc chắn đứa bé đã bị quẳng xuống thác nước để trừ hậu họa. Thế nhưng vẫn còn một gia đình nào đó thuộc nhánh rất nhỏ trong cây phả hệ được kế thừa số tài sản đó nếu Lorna chết, và bọn chúng sẽ có rất ít cơ may giành phần. Chỉ có cách bắt Lorna và cưới được em thì khối tài sản kia mới chắc chắn về tay chúng. Chúng sẽ vui sướng thay khi một tên Doone đáng nguyền rủa được kế vị ngài bá tước già!

Về sự coi thường pháp luật, những vụ cướp lớn và những tên cướp tài ba của chúng, chính đứa trẻ đó hiện giờ chắc chắn biết rằng có tiền là mọi chuyện được dàn xếp êm xuôi. Cho dù chúng có giết người có địa vị cao đi chăng nữa thì cũng chỉ tốn tiền gấp hai lần là chứng minh được những động cơ của chúng là vì lòng trung thành. Nhưng chúng không bao giờ giết bất kỳ ai ở địa vị cao hơn tiểu điền chủ; thậm chí người ta còn nói rằng cha tôi là nạn nhân có địa vị cao nhất trong số những nạn nhân của chúng; và chúng không phải là thủ phạm gây ra cái chết của mẹ và em trai Lorna.

Bất kỳ ai cũng cảm thấy thích thú một cách thuần túy khi nhớ lại tất cả những điều này. Chúng ta nhận thức về công lý mới đúng đắn làm sao, và chúng ta đối phó với nó mới hay ho làm sao. Nếu bất kỳ người nghèo nào có mười đứa con đói khát, rách rưới mà lỡ ăn cắp một con cừu, có nghĩa là anh ta tự dắt mình đến giá treo cổ. Nếu một người có địa vị tự ý đạp đổ cửa, xông vào nhà người khác, nện vào đầu chủ nhà, nhưng lại thể hiện sự kính trọng và ân cần với người vợ, thì đó là một điều đáng để biết ơn.

Trong khi bao nhiêu sự việc liên tục xảy ra, chúng tôi đang tự hỏi kế tiếp sẽ là gì hoặc chúng tôi phải làm gì, thì có một chuyện khiến chúng tôi phải để tâm. Đó chính là việc Annie kết hôn với ngài Faggus. Chúng tôi đã cố trì hoãn nó lần nữa, vì bất luận cuộc hôn nhân này thuận lợi thế nào, mẹ và tôi đều không thực sự mặn mà lắm. Chẳng phải là chúng tôi quá xét nét những khiếm khuyết của Tom hoặc cái quá khứ cướp đường của cậu, vì tất cả những điều đó đã được khỏa lấp bằng lệnh tha của Đức vua cùng với sự tôn trọng của hết thảy dân chúng trong vùng. Mà là bởi chúng tôi rất lo, càng nói lại càng lo hơn, không biết tương lai sau này của cậu có ổn định không.

Hai mẹ con tôi thường nói với nhau rằng thật đáng tiếc khi một cô gái xinh xắn, giỏi giang, hoạt bát, tốt bụng, có số tiền hồi môn năm trăm bảng, lại giao phó đời mình cho một người có khuynh hướng rượu chè. Nếu Annie nghe nhắc đến việc Faggus rượu chè này nọ, em sẽ rất căm phẫn, hai má đỏ ửng lên, hỏi lớn rằng đã có ai từng trông thấy Faggus bị làm sao vì rượu chưa? Theo em, sau tất cả những công việc nặng nhọc, cưỡi ngựa đường xa, leo lên những quả đồi, cậu xứng đáng được uống bao nhiêu tùy thích! Nếu em có quyền và không ai bức xúc với việc cậu uống rượu, em sẽ lo liệu cho Tom đáng thương được ăn những món bổ dưỡng, trị ho và tốt cho phổi.

Hai lá phổi của cậu cũng khỏe như của tôi, việc này không có gì phải bàn cãi; vì vậy mẹ và tôi nhìn nhau, như thể muốn nói: “Để em ấy lên lầu, em ấy sẽ khóc và nguôi ngoai, rồi biết phải trái hơn.” Trong lúc em đi khỏi, chúng tôi cứ nói tới nói lui mỗi một chuyện đó mà không tìm được cách gì giải quyết cho phải. Chúng tôi gần như luôn kết thúc bằng những suy diễn, có lúc từ mẹ, có lúc từ tôi: “Hây da, thôi không nói nữa. Ai biết được người ta thay đổi như thế nào sau khi lấy vợ đâu. Giá như chúng ta có thể bắt được em Annie hứa rằng sẽ cứng rắn hơn một chút với cậu ấy!”

Tôi lo rằng những cuộc nói chuyện như vậy chỉ càng đẩy Annie lại gần Faggus hơn, mỗi lần chúng tôi tỏ ra thương xót em thì Annie lại càng cương quyết. Cuối cùng, Tom Faggus đến, cất tiếng dõng dạc, chĩa một khẩu súng vào đầu tôi, khẩu kia vào đầu mẹ tôi. “Không dông dài hay úp mở nữa. Tôi yêu cô ấy, cô ấy yêu tôi, chúng tôi sẽ có nhau, bất kể hai người cho phép hay không. Tôi phải bao nhiêu lần nữa lóc cóc trên những ngọn đồi kinh khiếp kia, bỏ mặc công việc chỉ để nhận lại một tiếng thở dài hoặc một nụ hôn, và câu nói “Tom à, em phải chờ ý kiến của mẹ”? Hai người nổi tiếng là thẳng thắn mà. Hãy cứ đối xử với tôi như tôi đối xử với hai người bây giờ đi.”

Tôi nhìn mẹ, chỉ cần một ánh mắt từ bà thôi là Tom sẽ bay vèo qua lối cửa sổ ngay. Nhưng bà đưa tay cản tôi lại, bảo: “Cậu kêu ca như thế cũng có cơ sở, tôi sẽ không phủ nhận. Bây giờ tôi nói thẳng với cậu, như cách của nhà Ridd từ xưa đến giờ. Con trai tôi và tôi suốt từ bấy đến nay vẫn không ưng thuận chuyện cưới xin của cậu với Annie. Không phải vì quá khứ của cậu, mà vì không biết tương lai cậu ra sao. Hãy kiên nhẫn, một lúc thôi, xin cậu. Chúng tôi không sợ cậu quay về cuộc sống của một tên cướp đường, vì cậu quá lanh lợi, và giờ đây ít nhiều đã có tài sản trong tay. Chúng tôi sợ rằng cậu sẽ sa vào thói rượu chè, phung phí tiền bạc. Có nhiều tấm gương tày liếp quanh đây, và chúng tôi biết số phận của người vợ sẽ như thế nào. Thật khó để nói ra với cậu điều này, dưới mái nhà của chúng tôi, và với…” Nói đến đây, mẹ tôi ngập ngừng.

“Rượu mạnh, rượu táo và bia.” Tôi chen vào. “Cứ nói tiếp đi mẹ, vì cậu ấy sẽ uống tất cả những thứ đó.”

“Rượu mạnh, rượu táo và bia nhà chúng tôi.” Mẹ lặp lại theo tôi một cách kiên quyết, rồi mẹ nhượng bộ, nói. “Cậu biết không Tom, cậu luôn được thết đãi nồng hậu tại đây, và còn hơn thế nữa.”

Tom giờ này hẳn đã bình tĩnh hơn mức tôi có thể đòi hỏi. Nếu là tôi, tôi đã đẩy ly của mình ra, không bao giờ uống thêm một giọt nào nữa. Nhưng thay vì thế, ngài Faggus mỉm cười, đáp:

“Tôi biết tôi luôn được chào đón, để chứng minh điều đó, tôi muốn uống thêm một ít nữa.”

Dứt lời, cậu tự pha cho mình một ly rượu gin Hà Lan với chanh và nước nóng.

“Ồ, ít quá - thêm một chút nữa đi, Tom.” Mẹ nói, đưa cái chai cho cậu.

“Vâng, thêm một chút nữa đi.” Tôi nói. “Cậu pha nhạt quá, Tom.”

“Nếu có một người tỉnh táo…” Tom làm theo lời chúng tôi. “Nếu ở Christendom từng có một người đàn ông hoàn toàn tỉnh táo, đó chính là kẻ đứng trước mặt hai người lúc này đây. Chúng ta thống nhất một tuần nữa tính từ ngày mai nhé, mẹ? Nó sẽ phù hợp với ngày giặt quần áo của mẹ đấy.”

“Cậu quả là sâu sắc, Tom! John chắc không nghĩ được điều đó, cho dù thằng bé không say.”

“Đương nhiên là không rồi.” Tôi hãnh diện đáp. “Đến lúc con cưới Lorna, con sẽ không học vú Betty Muxworthy đâu.”

Bằng cách này, ngài Faggus đã chiến thắng chúng tôi. Ngay sau đó, bác Nicholas Snowe được mời đến để bàn bạc với mẹ tôi về chuyện này, và thống nhất với hai cô con gái nhà bác về khoản may vá.

Gần đến ngày cưới, không khí rộn ràng, náo động chưa từng thấy ở giáo xứ Oare kể từ đám cưới của cha tôi, vì vẻ đẹp và sự tử tế của Annie đã làm em trở thành niềm tự hào của vùng này. Quà được gửi đến tới tấp từ khắp nơi, đủ để mở một cửa hàng. Ngài Stickles, giờ đã có thể nói, đương nhiên mang ơn em bởi đã tận tình chăm sóc ông trong thời gian chữa thương. Ông chúc phúc cho Annie, tặng em một cuốn Kinh thánh lớn có khóa bạc, đẹp ăn đứt cuốn của Cha xứ. Ông đã gửi mua nó tận Taunton. Ngay cả cánh lính trơn, đã nhiều lần thưởng thức những món ăn của em (bù cho khẩu phần ăn nghèo nàn của họ), họp nhau lại, chắc đã góp ít nhất mỗi người một tuần lương để mua quà tặng em. Đó là một cái bình bằng bạc, thiết kế đẹp, nhưng chắc chắn phù hợp với sở thích của chú rể hơn là cô dâu. Nói tóm lại, ai cũng có món đồ gì đấy để tặng em.

Lorna đến tìm tôi, nước mắt ngắn nước mắt dài tuôn ra từ đôi mắt đẹp mê hồn của em - vì em vẫn còn hơi trẻ con, hoặc đúng ra là, em trẻ con hơn cái thời em sống trong đau khổ. Em đặt bàn tay nhỏ nhắn của mình vào tay tôi, không dám lên tiếng, chỉ cụp mắt xuống, chờ tôi hỏi.

“Chuyện gì thế, em yêu?” Tôi hỏi khi thấy hơi thở em gấp gáp, vì chuyển động nhỏ nhất cũng làm thân người em rung lên.

“John, anh có thể… có thể cho em vay ít tiền không?”

“Cho em hết luôn ấy chứ.” Tôi đáp. “Em muốn bao nhiêu nào?”

“Em tính rồi, e rằng mười bảng mới đủ, John.”

Nói xong, em ngước nhìn tôi, sợ sệt vì số tiền lớn, không biết tôi nghĩ gì về điều đó. Nhưng tôi không nhìn em. “Mười bảng!” Tôi vờ hạ giọng thật thấp để khiến em hồi hộp. “Em muốn làm gì với mười bảng thế?”

“Đó là việc của em.” Lorna lấy hết can đảm, nói. “Khi một cô gái hỏi vay tiền, không quý ông nào tọc mạch lý do.”

“Nói thế không được.” Tôi đáp vẻ phán xét. “Mười bảng hay hai mươi bảng không quan trọng. Nhưng anh phải biết mục đích.”

“Vậy thì anh sẽ không bao giờ biết, John. Em rất tiếc vì đã hỏi vay tiền anh. Cũng chẳng sao. Ôi dào, chẳng sao cả.” Nói xong, em toan bỏ chạy.

“Có chứ sao không.” Tôi đáp. “Rất nhiều nữa là đằng khác. Và anh hiểu. Em muốn tặng quà mừng cho Annie ngốc nghếch, người đã làm mất của em một trăm ngàn bảng và sẽ kết hôn trước chúng mình - chỉ có Chúa mới biết lý do, bởi đó là em gái của anh. Em sẽ làm điều đó, em yêu, vì em là người tốt bụng. Em không biết tước vị của mình hay sao, tình yêu của anh? Em thật khiêm nhường với những người hèn mọn nhà anh. Em là tiểu thư Lorna gì đấy, theo những gì anh tìm hiểu được. Em thậm chí không cần phải nói chuyện với nhà anh. Em sẽ bỏ đi và khinh thường nhà anh.”

“Xin anh đấy, đừng có nói như thế, John.”

“Để rồi xem.” Tôi nói. Rồi em thề rằng em sẽ không thế nọ, thế kia. Ngay sau đó, chúng tôi không nói về địa vị và dòng dõi nữa.

“Em có thể tặng cô ấy món gì được nhỉ? Em thật sự không biết.” Em nói. “Cô ấy quá tử tế và tốt với em, cô ấy luôn được mọi người yêu mến. Làm sao em không tặng quà cô ấy được chứ! Hình như anh nghĩ một ngày nào đó không xa, em sẽ giàu có hả John?”

“Dĩ nhiên rồi. Giàu như vua nước Pháp ấy. Liệu ngài quan chưởng ấn có lao tâm khổ tứ vì em nếu em nghèo không?”

“Vậy nếu em giàu, anh sẽ cho em vay hai mươi bảng nhé John? Giàu mà mua quà có mười bảng thì keo kiệt quá.”

Tôi đồng ý, với điều kiện là tôi sẽ đích thân mua quà vì tôi sẽ không cho Lorna biết giá trị thực sự của món quà là bao nhiêu cho đến lúc em trả tiền cho tôi. Về khoản này, em rất dễ bị lừa. Thế còn hơn lừa em vì lợi ích của gia đình tôi. Vậy là, tôi khởi hành đến Dulverton, mang nhiều nhiệm vụ hơn, nhiều thông báo hơn, và nhiều câu hỏi hơn so với một người có trí nhớ tốt gấp ba lần tôi có thể mang tới góc cua có hố cưa. Tệ hơn nữa, mấy cô gái cứ chạy đến bên tôi, thậm chí chạy theo (khi tôi đã đi được một quãng), dặn tôi mua hộ thứ gì đó vừa mới sực nghĩ ra, buộc tôi phải nhớ cứ như đó là thứ quan trọng nhất trong tất thảy.

Còn mẹ, gần như không để tâm đến những món đồ lặt vặt, dặn tôi phải mời cho bằng được ông trẻ Reuben. Nếu làm tốt việc mẹ giao, có thể tôi sẽ quên sạch mấy thứ tạp nhạp của các cô gái. Giá như mẹ sáng suốt hơn, dặn tôi trong lúc họ ở ngoài tầm nghe thì đã chẳng phải khó xử. Tôi để mẹ đơn thương độc mã chống chọi với mấy cô gái, phì cười trước tình thế nan giải của mẹ, rồi hứa sẽ không bỏ sót thứ gì, miễn là trí nhớ của tôi không tạo phản.

Ông trẻ Reuben không có nhà, chỉ có Ruth, cô đón tiếp tôi rất tử tế, dù chẳng có vẻ gì là vui mừng. Cô đảm bảo ông sẽ về vào buổi chiều, thuyết phục tôi đợi. Lúc tôi làm xong hết việc được giao với sự hỗ trợ của một mảnh giấy, ông cưỡi ngựa vào sân, nhìn thấy tôi, ông biểu lộ sự ngạc nhiên hơn là vui mừng. Nhưng nếu ông ngạc nhiên, tôi còn hơn thế - tôi sững sờ trước sự thay đổi diện mạo của ông kể từ lần cuối cùng gặp ông. Từ một người tráng kiện, hồng hào, ông trở nên teo tóp, nhăn nheo, gần như lụ khụ. Thay vì những lọn tóc xoăn và đẹp, tuy đã hoa râm nhưng dày dặn, giờ chỉ còn vài sợi tóc bạc phất phơ trước trán. Nhưng thay đổi lớn nhất là ánh mắt - đã từng rất tinh anh, linh hoạt, sáng và hơi mai mỉa. Thực ra chúng vẫn sáng, nhưng đó là một thứ ánh sáng yếu ớt, chậm chạp; nét tinh anh đã biến thành ủ rũ, sự linh hoạt thành lờ đờ. Sự hóm hỉnh đã bị giành chỗ bởi ánh nhìn chòng chọc của nỗi kinh hãi, hồ nghi và chùn bước. Không một chút quan tâm đến nhân loại, điều rất cần thiết cho sự châm biếm.

“Thế này là thế nào?” Tôi thầm nghĩ. “Có phải ông đã mất hết của cải rồi không, hay uống quá nhiều rượu?”

“Vào nhà đi, John Ridd.” Ông nói. “Ta sẽ nói chuyện với cháu. Ngoài này lạnh đấy, lại quá sáng nữa. Vào nhà đi nào.”

Tôi đi theo ông vào căn phòng tối nhỏ xíu, hoàn toàn khác với phòng của Ruth Huckaback. Nó được tách biệt khỏi cửa hàng bằng một tấm ván cũ, treo bằng vải bạt màu đồng thiếc, rất u ám, ngột ngạt. Có một chiếc bàn, hai cái ghế và một cái ghế đẩu chân dài.

“Ngồi ghế đẩu đi.” Ông trẻ Reuben lặng lẽ đưa tôi vào và nói. “Nó hợp với chiều cao của cháu hơn, John. Đợi một lúc nhé, không việc gì phải vội.”

Rồi ông lách ra bằng một lối cửa khác, đóng lại ngay sau lưng, bảo người quản đốc và những người phục vụ rằng việc hôm nay thế là xong rồi. Họ nên về nhà ngay lập tức, việc khóa cửa để ông lo. Đương nhiên họ chỉ đợi có thế, mừng húm ra về. Tôi không hiểu sao ông lại đột ngột bảo họ nghỉ như vậy vì ít nhất hai giờ nữa mới hết ngày làm việc.

Mà thôi, đó chẳng phải việc của tôi. Tôi ngồi đợi, thắc mắc không biết Ruth có bao giờ bước chân vào căn phòng bẩn thỉu này không, nếu có, làm sao cô ấy chịu đựng được khi không dọn dẹp. Nếu là Annie, thể nào em ấy cũng xới tung mọi thứ lên trong vòng hai phút, cọ rửa, chùi chà, phủi bụi cho đến khi nó trông như một nơi khác.

Ông trẻ Ben lảo đảo đi vào, không phải vì rượu, mà vì người ông đờ đi do ngồi ngựa lâu, và mệt mỏi do công việc cùng sự lo âu.

“Kệ ta, John, cứ mặc ta.” Ông nói, khi tôi định giúp ông. “Chỗ này u ám, ngột ngạt thật, nhưng chứa nhiều trăm đồng vàng đấy, John.”

“Chắc chắn rồi, ông ạ.” Tôi đáp, giọng vui vẻ. “Chúc ông có nhiều trăm đồng vàng khác nữa, và sống lâu để hưởng chúng!”

“Cậu bé của ta, cháu mong ông chết đi à?” Ông đến gần ghế tôi ngồi, nhìn tôi chòng chọc qua đôi mắt mờ đục. “Nhiều người mong đấy. Cháu có không, John?”

“Ông ơi!” Tôi nói. “Đừng hỏi vớ vẩn. Ông biết rõ hơn thế mà, ông trẻ Ben. Nếu không, cháu rất tiếc cho ông đấy. Cháu muốn ông sống càng lâu càng tốt, vì lợi ích của…” Nói đến đây, tôi ngưng bặt.

“Vì lợi ích của thứ gì, John? Ta biết chẳng phải vì lợi ích của bản thân ta. Vì lợi ích của ai hả?”

“Vì lợi ích của Ruth.” Tôi đáp. “Ai trông nom cô ấy khi ông ra đi chứ?”

“Nếu cháu biết rằng ta có vàng, hoặc cách để có vàng, hơn nhiều so với đám thủy thủ ra khơi trên những con thuyền buồm lớn, hơn nhiều so với tất cả những gì từng được nghe nói đến, và bí mật nằm trong tay cháu chứ không phải ai khác, vậy thì cháu sẽ mong ta chết, John.” Nói đến đây, ông nhìn tôi như thể một hạt bụi trong mắt tôi cũng không thoát khỏi ông.

“Ông sai rồi, ông trẻ Ben, sai hoàn toàn. Cháu chưa từng nghĩ đến việc mong ông chết sớm, dù chỉ một lần.”

Cuối cùng, ông rời mắt khỏi tôi, nhưng không trả lời, cũng không thở dài, để thể hiện là ông tin hay không. Rồi ông đi đến bên một chiếc ghế, ngồi gác cằm lên bàn như thể cái nỗ lực thăm dò tôi là quá sức đối với trí óc rệu rã của ông. “Từng mơ đến! Tất cả số vàng từng được mơ đến! Như thể đó chỉ là một giấc mơ vậy!” Ông lầm bầm, rồi khép hai mắt, trầm ngâm.

“Ông trẻ Reuben.” Tôi nói. “Hôm nay ông đi nhiều rồi. Để cháu lấy cho ông ly rượu ngon nhé! Em họ Ruth biết chỗ cất.”

“Làm sau cháu biết ta đi bao xa?” Ông hỏi, nhìn tôi hằn học. “Lại còn em họ Ruth nữa chứ! Cháu biết rõ tên cháu gái của ta quá nhỉ!”

“Ông à, làm sao mà cháu không biết tên em họ của mình chứ?”

“Được. Bỏ qua chuyện đó đi. Cháu đối xử rất tệ với Ruth. Con bé yêu cháu, mà cháu thì chẳng yêu nó.”

Tôi ngớ người - không phải vì điều đó, mà vì không hiểu sao ông lại biết - không thể thốt được lời nào, đương nhiên mặt đực ra.

“Cháu có thể xấu hổ, chàng trai.” Ông kêu lên, với chút hả hê. “Cháu là thằng ngốc nhất trong tất cả những thằng ngốc, và là một kẻ hợm hĩnh, tự cao tự đại. Ruth như thế, cháu còn đòi hỏi gì nữa chứ? Đúng là vóc dáng con bé nhỏ thật, nhưng có những người còn to lớn hơn cháu, John Ridd, mà vẫn cưới những cô gái nhỏ con hơn kìa. Này, một phân của Ruth đáng giá bằng hai mét của cháu đấy.”

Tôi ghét nhất ai lôi chiều cao, cân nặng của tôi ra nói. Những lúc như thế, tôi rất khó chịu. Lần này, tôi giữ im lặng là vì Ruth. Nhưng ông trẻ Ben (già nua và kiệt lực) bực mình vì không nhận được hồi đáp, cứ như phụ nữ ấy.

“Cháu muốn ta nói tiếp…” Ông nhìn tôi khinh miệt. “… về tình cảm cháu gái Ruth đáng thương của ta dành cho cháu, để thỏa cái tính kiêu căng, tự phụ đáng nguyền rủa của cháu. Vì một lũ lừa gọi cháu là người đàn ông to lớn nhất nước Anh, chẳng cô gái nào (ta đoán vậy) không phải lòng cháu. Ta tin cháu cũng có chiều sâu bằng chiều cao của mình, John Ridd. Liệu ta có thể đo được lòng cháu không nhỉ?”

Thế này thì hơi quá rồi. Tôi có thể (sẵn lòng) nhận bất kỳ lời xúc phạm nào từ một người lớn tuổi, và là người họ hàng của tôi; trừ phi nó đụng chạm đến tình yêu tôi dành cho Lorna, hoặc đức tính khiêm tốn, nhún nhường của tôi. Bây giờ, cả hai điều này đều bị đụng chạm ghê gớm bởi những câu nói của ông trẻ Ben. Vì vậy, tôi không nói lời nào, chỉ cúi chào ông, lẳng lặng đi ra.

Nhưng khi tôi lên ngựa (chở theo một cái rương đựng lỉnh kỉnh đủ thứ), Ruth đáng thương nắm dây cương, nước mắt tuôn lã chã, đến mức bộ yên cương muốn gỉ sét.

“Chào tạm biệt!” Tôi nói khi cô quay đi, cúi đầu. “Để tôi đỡ Ruth lên ngựa nhé?”

“Anh họ Ridd, anh đừng bận tâm.” Ruth quay lại, đối mặt với tôi. “Rất có thể anh đúng, theo bản chất của anh.” Đây là điều chua chát duy nhất cô gái bé nhỏ này từng nói với tôi. “Nhưng anh họ Ridd à, anh không biết gì đến nỗi đau anh bỏ lại sau lưng mình.”

“Làm sao có thể như thế được, Ruth, khi tôi bị buộc phải ra khỏi nhà?”

“Anh họ Ridd à, trước hết, ông nội sẽ rất giận bản thân vì đã đối xử tệ với anh. Kế tiếp, tôi sẽ la rầy ông cho đến khi ông thừa nhận nỗi buồn của mình. Khi ông thừa nhận nó, tôi sẽ trách chính mình vì đã la rầy ông. Rồi ông sẽ nghĩ lại, cho rằng tôi khó chịu với ông, và có lẽ kết thúc bằng việc ghét anh. Ông giờ cứ giống như một phụ nữ vậy, John à.”

Cái cách Ruth phân bua kèm theo một chút đùa cợt kín đáo khiến tôi dừng lại, nhìn kĩ cô, nhưng cô vờ như không biết. Tôi nghĩ. “Cô gái này… có gì đó không giống với những cô gái khác. Còn điều gì thì mình không biết.”

Kết quả là con ngựa quay trở về chuồng, lại được cho ăn ngũ cốc, trong khi cơn giận trong tôi nguội đi. Theo kinh nghiệm của tôi, có hai điều (có thể không áp dụng được với người khác) giúp ta phấn chấn lên, quên hết bực bội, giận dữ trong lòng. Thứ nhất là nhìn thấy con vật yêu quý của mình được cho ăn ngon. Thứ hai là đi làm vườn vào mùa xuân. Và nếu có thứ ba thì đó là hút thuốc loại hảo hạng, ngắm nhìn trăng lên, nếu ở ngoài biển thì kết quả còn hơn thế nữa.

Ngài Huckaback chẳng tỏ vẻ gì là vui khi tôi quay lại, ông chỉ đón tôi bằng một lời làu bàu mà tôi nghe có vẻ là: “Úi, ta tưởng cậu chàng ngốc đến mức bỏ đi luôn rồi chứ.” Tôi xin lỗi ông vì đã vô tình xúc phạm ông, ông đáp rằng tôi giỏi làm đau lòng người khác lắm. Tôi không đáp gì, với một người dễ cáu gắt và hay quạu quọ thì như thế là thượng sách. Lúc này, ông đã ôn hòa hơn, bảo Ruth đi lấy chai rượu. Cô mỉm cười với tôi khi đi ngang qua, tỏ ý cảm ơn vì tôi đã kiên nhẫn với ông. Nhìn cô, tôi biết cô sẽ mang đến chai rượu ngon nhất trong hầm.

Vì tôi không còn nhiều thời gian, chúng tôi buộc phải uống rượu thật nhanh. Tôi không biết rượu làm mềm lưỡi ông hay ông đã muốn nói từ trước, nhưng thực tế là sau ba hay bốn ly gì đấy, ông mang ghế lại, ngồi sát bên tôi, bảo Ruth đi làm việc lặt vặt gì đó không mấy quan trọng. Tôi thấy kém thoải mái vì căn phòng trông rất khác khi vắng cô.

“Nào, Jack.” Ông cất tiếng. “Ly này chúc sức khỏe của cháu, chàng trai, chúc cháu cưới được một người vợ hiền ngoan. Dù vậy, chưa chắc vợ cháu sẽ vâng lời cháu; cháu quá dễ tính. Ngay cả một phụ nữ chua ngoa, lắm lời cũng có thể sống bình yên với cháu, Jack. Nhưng cháu đừng bao giờ cho cô ta cơ hội để thử làm thế nhé! Hãy cưới một cô gái bé nhỏ, dễ thương nào đó. Nếu không thì ở một mình quách cho xong. À chàng trai, chúng ta có cô gái hợp với cháu đấy, trong thị trấn Dulverton cũ kỹ này.”

“Thật sao ông? Nhưng có lẽ cô gái đó không mong muốn sánh đôi với cháu.”

“Có đấy, cháu có thể tin ở ta. Màu rượu này chứng minh điều đó. Con bé ranh mãnh đó đã tự ý đi qua khung cửa tò vò bám đầy mạng nhện để vào hầm lấy rượu ngon đãi cháu cơ mà. Tuy nhiên, ta mừng vì điều đó, chúng ta sẽ uống hết chai này nhé, John. Sau khi ta chết đi, kẻ nào cưới được Ruth sẽ tìm thấy những loại rượu quý hiếm ở đó, ta nghĩ chắc kẻ đó chẳng biết loại nào là loại nào đâu.”

Nghĩ đến đó, ông thở dài, nghĩ rằng tôi sẽ thở dài theo ông. Nhưng một tiếng thở dài không có sức lây lan như một cơn ngáp, và chúng ta có xu hướng bị lây cơn buồn ngủ từ người khác hơn là buồn theo nỗi buồn của họ.

“Thôi mà ông.” Tôi liến thoắng để giúp ông lên tinh thần. “Ly này chúc sức khỏe của ông và em Ruth, chúc ông sống lâu, sống khỏe để lau sạch mạng nhện cho từng chai rượu dưới đó. Ông trẻ Ben, chúc sức khỏe và sống lâu nhé!”

Dứt lời, tôi cầm ly rượu trầm ngâm, vì nó quá ngon. Ông trẻ Ben hài lòng khi thấy tôi vui vẻ tham gia vào câu chuyện của ông. Curia vult advisari, như cánh luật sư thường nói, có nghĩa là: “Hãy uống thêm ly nữa, để có thể nghĩ về việc đó.”

“Nào, John.” Ông trẻ Ben đặt bàn tay nhăn nheo lên đầu gối tôi, khi thấy không ai để ý đến chúng tôi. “Ta biết cháu thầm thương trộm nhớ Ruth nhà ta. Đừng có ngắt lời ta, cháu mà phủ nhận có nghĩa là khiêu khích ta đấy, biết không?”

“Cháu quý mến em Ruth.” Tôi nói nhanh vì sợ bị hiểu nhầm. “Nhưng cháu không yêu em ấy.”

“Được rồi, không sao. Thích rồi chuyển sang yêu mấy hồi (như vài người vẫn bảo vậy) khi mà con bé có nhiều của hồi môn thế kia.”

“Nhưng…”

“Lần cuối cùng nhé John, không được nói. Ta không cố khiến cháu phải đính ước với con bé Ruth, ta cũng sẽ chẳng trách cháu (dù ta có thể thất vọng) nếu chuyện đính ước không xảy ra. Nhưng dù cháu có được cháu gái ta hay không - một cơ hội như vậy hiếm khi được trao cho một gã trai hạng như cháu.” Ông trẻ Ben vốn xem thường tầng lớp nông dân. “Bất kể thế nào, ta nhất định tiết lộ cho cháu bí mật của ta vì hai nguyên nhân. Thứ nhất, ta quá mệt mỏi khi mãi suy nghĩ về nó một mình. Thứ hai, ta tin cháu biết giữ lời hứa. Hơn nữa, cháu là người thân của ta. Cháu chính là người ta cần lúc này.”

“Cháu sẽ giúp ông.” Tôi đáp, nhưng trong lòng nơm nớp không biết ông có dính líu đến âm mưu gì không. “Miễn là công việc đó lương thiện, trung thành với Đức vua, không trái với luật của địa hạt.”

“Ha ha.” Ông bật cười cho đến khi nước mắt giàn giụa, áp hai bàn tay xương xẩu lên quần. “Cháu cũng đi theo lối mòn ngu ngốc như kẻ khác, ngay cả tên gián điệp Stickles cùng tất cả binh lính tinh nhuệ của ông ta. Nào là đưa vũ khí đến Glenthorne và Lynmouth, nào là những chiếc xe ngựa được hộ tống khắp các con truông, rồi thì âm thanh kim loại va vào nhau lách cách, om sòm huyên náo! Nhưng chúng ta thì khác, chúng ta rất khéo léo, đến mức những người sống ngay xung quanh cũng chẳng hay biết gì. Sự bất mãn ở Taunton, những dấu hiệu của cuộc nổi dậy ở Dulverton, thợ thuộc da làm cách mạng ở Dunster! Ngay cả cháu cũng không nghi ngờ công việc của chúng ta, dù có lần chúng ta tưởng rằng cháu theo dõi chúng ta. Cháu có biết kẻ nào gây nên tình trạng hỗn loạn ở Exmoor và những cơn bạo loạn ở miền Tây không?”

“Hoặc là Mẹ Melldrum.” Tôi có hơi giận. “Hoặc chính là quỷ Satan.”

“Không, lão Reuben này đấy!” Vừa nói, ngài Huckaback vừa hất tấm áo choàng ra, đứng thẳng người lên.

“Chà!” Tôi kêu lên, cái đầu tối dạ muốn nổ tung. “Rốt cuộc, đại tá Stickles hoàn toàn đúng khi gọi ông là phiến loạn!”

“Đương nhiên ông ta đúng rồi. Một người sắc sảo như ông ta mà có thể nhìn sai một ông già lẩm cẩm như ta sao? Nhưng thôi, hãy đến chứng kiến cuộc nổi loạn của chúng ta, John. Giờ ta sẽ giao phó cho cháu mọi thứ. Ta không cần cháu phải thề thốt gì cả, chỉ cần giữ im lặng là được. Nhất là không cho mẹ cháu biết.”

“Cháu hứa.” Tôi nói, dù không thích kiểu cam kết như thế. Tuy nhiên, vì quá tò mò nên tôi không nghĩ được gì khác, và không thể tin rằng ông trẻ Ben đang có đầu óc bình thường.

“Uống một ly nữa nào, cháu trai.” Ông nói lớn, vẻ mặt hăm hở, khiến ông trông trẻ ra đến mười tuổi. “Cháu sẽ cộng tác với ta, sức mạnh của cháu sẽ tiết kiệm cho chúng ta hai con ngựa, và chúng ta muốn dùng nhiều ngựa. Hãy đến xem chúng ta đang làm gì nhé, chàng trai. Cháu chính thức về phe của ta kể từ đêm nay.”

“Nhưng cháu đến xem ở đâu? Ở đâu vậy ông?”

“Hãy đến gặp ta.” Ông đáp, rồi đan hai bàn tay vào nhau, nhăn trán trầm ngâm. “Đương nhiên là đi một mình. Mười giờ sáng mai, gặp ta ở Wizard’s Slough.”