• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tình sử Lorna Doone - Tập 2
  3. Trang 21

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 20
  • 21
  • 22
  • More pages
  • 38
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 20
  • 21
  • 22
  • More pages
  • 38
  • Sau

Chương 58

B

iết ngài Huckaback là người biết giữ lời và muốn người khác cũng phải như thế, sáng hôm sau, tôi đến Wizard’s Slough đúng giờ. Thú thật, nơi này tạo cho người ta cảm giác lo âu, bứt rứt. Nhưng tôi cố hết sức không để tâm trí mình hướng vào nó. Vì mẹ và Lorna, để phòng thân, tôi thận trọng nạp vào súng một tá viên đạn được làm từ chì của cổng vòm nhà thờ cũ, được cài vào đó từ thời xửa thời xưa để chống lại yêu thuật.

Tôi biết bây giờ có vài người đang hoài nghi về yêu thuật, hoặc vờ làm vậy, cố không tin bất kỳ thứ gì mình sợ. Tinh thần này đang trở nên quá phổ biến trong chúng ta, và sẽ kết thúc (trừ phi chúng ta chấm dứt nó) trong sự hủy diệt của mọi tôn giáo. Về yêu thuật, người ta bắt buộc hoặc là tin vào nó, hoặc không tin vào Kinh thánh. Vì ngay cả Kinh Tân ước, đã loại bỏ nhiều nội dung từ Kinh Cựu ước như hiến tế, ngày Sabbath, ăn chay và những khổ hạnh khác, có nhắc đến yêu thuật như một thứ cần phải tiếp tục, và rằng Quỷ dữ không hoàn toàn bị tước đi những quyền lợi được bảo đảm bất di bất dịch.

Thời đó, tôi tin ma quỷ hơn bây giờ, nên tôi cầm theo một chiếc la bàn khá tốt, đi vòng theo những tảng đá bị xẻ đôi, hơn là băng qua Black Barrow Down một cách liều lĩnh và báng bổ. Ở Black Barrow Down có nhiều chỗ bị nguyền rủa và ám, như thể sét đã được giáng xuống đó và quỷ Satan ngồi giữ ấm cho chúng. Dù sao đi nữa (như mọi người thừa nhận), tốt hơn hết là không đi lang thang ở đó quá nhiều, ngay cả với một tiến sĩ thần học kèm bên này và một bác sĩ kèm bên kia.

Khoảng tám giờ, tôi ra khỏi nhà mà không nói cho ai biết. Tôi đi bộ theo đường vòng, một mình đến miệng cái dốc sâu như John Fry đã miêu tả. Đây (dù tôi chưa kể cho quý vị nghe) không phải là lần đầu tiên tôi đến nơi này. Dù tôi không thể đích thân theo dõi ông trẻ Reuben như John Fry đã làm, nhưng tôi nghĩ cũng chẳng có gì xấu khi chờ ông trẻ đi khỏi rồi khởi hành đến cái nơi nổi tiếng ấy xem thử thế nào - nơi những phạm nhân bị treo cổ chết sống dậy, ít nhất theo lối nghĩ của John. Tuy nhiên, lúc đó tôi chẳng thấy gì ngoại trừ bãi lầy xấu xí to tướng cùng đám lau sậy gớm ghiếc xung quanh, khiến tôi chẳng muốn đến gần, nói gì đến việc sang phía bên kia.

Lần này, tôi nhất quyết tìm hiểu sự thật. Tôi khua lạch cạch que nhồi thuốc súng để kiểm tra thử số thuốc nạp vào còn ổn không sau khi đi bộ quá nhiều, nhận thấy nó còn nguyên với độ sâu mười lăm phân, đúng như ý tôi. Tôi đánh liều đi xuống hẻm đá sâu, rắp tâm bắn bất kỳ phù thủy nào ngoại trừ Mẹ Melldrum tốt bụng. Ngạc nhiên thay, tất cả lặng ngắt như tờ, quang cảnh trông rất vui mắt với lối đi hẹp thoai thoải, những lùm dương xỉ mọc dài như cây lớn đan xen nhau hệt mạng nhện. Dọc theo một bên, một con suối nhỏ đang hồi cạn nước. Bất kỳ ai cũng sẽ dừng lại, trầm ngâm hoặc tiếp tục đi và suy tư, dù thế này hay thế khác, không người nào cho rằng anh ta đang làm chuyện ngu ngốc.

Khi tôi đến chân của hẻm núi và đi ngược lên chỗ bãi lầy khổng lồ đen kịt, vẫn chưa thấy ngài Huckaback đâu hoặc bất kỳ người nào khác. Vì vậy, tôi ngồi xuống một hốc đá, nhìn chằm chằm bãi lầy, để mặc tâm trí trôi dạt về một câu chuyện xa xưa.

Nghe nói lâu lắm rồi, trong rừng Exmoor, có một lão pháp sư có quyền năng cao siêu. Nhờ thần chú và bùa phép, lão ta tự xây cho mình một cung điện hình bát giác như mạng nhện, đồ sộ và chắc chắn, tọa lạc trên một cái dốc nằm ở vị trí trung tâm, cốt để phát hiện nếu có con người hoặc thú vật nào băng qua truông. Nếu muốn cướp, giết một người đi đường, bắt một con bò hoang hoặc nai để làm thức ăn, lão ta chỉ cần cầm cuốn sách tà đạo, ngồi tại một trong tám cửa sổ. Người hay thú dù ở khoảng cách xa đến cỡ nào, một khi bị lão pháp sư phát hiện và chĩa cuốn sách theo hướng đó, thể nào cũng tìm đường tự dẫn xác đến.

Exmoor (vốn là nơi lương thiện thuộc hạng bậc nhất mà ai cũng ước ao được sống) bắt đầu mang tai tiếng bởi vị pháp sư xấu xa đó. Không ai dám đi cướp một con cừu, một con ngựa lùn, thậm chí một con nai cho bữa tối vì sợ bị trừng trị bởi một kẻ gian manh hơn anh ta gấp nhiều lần. Sự việc này tiếp diễn suốt nhiều năm, dù người ta luôn nguyện cầu Chúa chấm dứt nó. Nhưng rồi ngày phán quyết của lão pháp sư nọ cũng đến khi lão ta trở nên béo phệ và phục phịch. Hôm đó, lão ta ngồi nhìn chằm chằm ra cửa sổ hướng đông nam, ngáp dài vì mệt mỏi sau khi giết quá nhiều người.

“Quỷ tha ma bắt!” Lão ta kêu lên. “Đằng xa có một người đang cắm cúi đi. Chắc là một người hành hương, hoặc một kẻ ngốc nào đó. Hắn quá gầy nên ăn thịt chả bõ, nhưng ta sẽ bắt cho vui, vả lại mấy ông thánh này thường giắt lắm của trong người.”

Rồi lão ta duỗi thẳng hai chân lên một chiếc ghế đẩu, chĩa cuốn sách chứa những lời nguyền về phía người hành hương. Lúc này, anh ta đang bước đi chăm chú, miệt mài, hai chân bỏng rát, người gầy giơ xương. Anh ta cảm thấy bùa chú của cuốn sách tác động đến mình, nhưng chỉ giống như một con ngựa cày được ra lệnh “Đi sang phải!” mà thôi. Tất cả đều tùy thuộc vào sức mạnh của người hành hương, hoặc là đi tiếp, hoặc rẽ và tìm hiểu xem vị pháp sư muốn gì. Trong một lúc, anh ta khựng lại, đứng im, như đang đắn đo. Rồi lão pháp sư vỗ bìa sách một cách hả hê, xấc xược, âm thanh đó vọng đến tai người hành hương từ cách xa năm dặm, hệt một khẩu súng lớn bắn về phía anh ta.

“Lạy Đức mẹ Đồng trinh!” Anh ta kêu lên. “Con không thể lờ đi việc này được, dù hai bàn chân đáng thương của con đang bong hết cả da. Con sẽ dạy kẻ vô lại ngoại đạo kia biết thế nào là phỉ báng ở Glastonbury.”

Thế là anh ta đổi hướng, lặn lội băng qua những con truông và đầm lầy, đi thẳng về phía cung điện hình bát giác. Lão pháp sư ngồi nhàn nhã trên ghế, khinh khỉnh, trâng tráo quan sát người hành hương đang khó nhọc tiến về phía lão ta. “Ta đoán trong ví hắn có đồ giá trị.” Lão pháp sư quỷ quyệt nhủ thầm. Rồi lão ta nói lớn câu vẫn dùng với những kẻ xấu số trước đó: “Mời vào, mời vào, người tốt.”

“Người xấu, tôi sẽ không vào đâu.” Người hành hương đáp. “Ông cũng sẽ không bao giờ còn ra ngoài được nữa. Đây là xương của tất cả những người ông đã giết, đã đến lúc ông trả nợ bằng xương của mình.”

“Đừng có thúc giục ta!” Lão pháp sư kêu lên. “Để đấy rồi xem. Ngày hôm nay ngươi đi được bao nhiêu dặm rồi?”

Người hành hương rất tỉnh táo đáp: “Chín.”

Số chín là đáp án đúng của lão pháp sư. Lão pháp sư bất ngờ, lảo đảo lùi lại suy nghĩ và hỏi tiếp: “Nơi nào ngươi có thể tìm thấy một cặp vợ chồng, một người đi lên, một người đi xuống, không ai nói với nhau lời nào?”

“Trong một cây dưa chuột.” Người hành hương đỏ mặt khi nghĩ đến điều đó. Và lão pháp sư biết mình thua rồi.

“Ông đã thử tôi bằng những câu hỏi vớ vẩn.” Người hành hương tiếp tục. “Giờ đến lượt tôi hỏi ông một câu đàng hoàng này. Ông đã bao giờ làm điều tốt cho ai kể từ khi sinh ra chưa?”

Lão pháp sư suy nghĩ nhưng không ra. Lão ta nhìn vị thánh, vị thánh nhìn lão ta, cả hai trái tim run lên. “Ông có kể ra được dù chỉ một người không?” Vị thánh tiếp tục thúc ép, hy vọng lão ta có thể nghĩ ra được một người. “Ngay cả một đứa bé cũng có thể làm được điều tốt cho người khác cơ mà. Hãy cố nghĩ ra ai đó đi.”

Mặt đất rung chuyển bên dưới chân họ, các cửa sổ cung điện tối sầm lại màu máu. Bây giờ, vị thánh đã vào bên trong, hy vọng cứu được lão pháp sư.

“Nếu phải nói sự thật…” Lão pháp sư ngước nhìn lên các mái vòm cửa sổ. “… ta có thể nói ra duy nhất một người mà ta đã từng làm điều tốt cho người đó.”

“Một người cũng được, một người là đủ rồi. Hãy nói mau lên trước khi mặt đất nứt ra. Hãy nói tên của người đó - và cây thánh giá này sẽ cứu ông. Hãy đặt ngón cái lên đầu của nó.”

“Không, ta không thể. Cầu ma quỷ rủ lòng thương.” Cung điện vẫn tiếp tục lún xuống, bóng tối bao trùm họ. “Ông chỉ làm hại bản thân mình.” Vị thánh nói, với vầng hào quanh xung quanh đầu. “Bằng câu cầu khẩn ấy.

Hãy mau nói tên người đó đi, ông sẽ được cứu sống. Tất cả đang sụp đổ xung quanh chúng ta rồi. Là ai, nói đi?”

“Bản thân ta.” Lão pháp sư khốn khổ kêu lên.

“Vậy thì vô vọng rồi.” Vừa nói vị thánh vừa đi lên, còn lão pháp sư cùng tất cả cung điện của lão, thậm chí cả vách đá cheo leo nơi nó tọa lạc đều chìm xuống lòng đất, bên trên không còn lại gì ngoài một bãi lầy đen ngòm, xung quanh là lau sậy - màu râu tóc của lão pháp sư. Sau này, vị thánh đã lập nên một nhà thờ nhỏ cách đó ba dặm về phía tây, yên nghỉ giấc ngàn thu tại đó sau khi qua đời. Đó cũng là nơi đặt phần mộ của dì Sabina và Ensor Doone.

Trong lúc tôi mải nghĩ về câu chuyện lạ lùng này, tự hỏi liệu có đúng hết như thế không, tại sao bây giờ những chuyện tương tự lại không xảy ra nữa, thì thình lình một người đi ngựa xuất hiện, như thể trồi lên từ lòng đất ở phía bên kia bãi lầy đen ngòm. Thoạt tiên, tôi có hơi sợ, tâm trí dậy lên đủ thứ thắc mắc, nhưng rồi nhìn mái tóc bạc nổi bật trên cái phông nền là bãi lầy đen thui, tôi nhận ra đó chính là ông trẻ Reuben. Tôi vội rời khỏi cái hốc đá, vừa vẫy mũ rối rít vừa hét gọi ông. Tiếng tôi vang vọng giữa những vách đá cheo cheo và những khúc quanh hiu quạnh, khiến tôi hoảng sợ.

Ngài Huckaback không đáp mà ra hiệu cho tôi đến chỗ ông. Giữa đám lau sậy và rìa đá quanh nó chỉ vừa đủ chỗ cho một người đi rất cẩn thận để không rơi xuống cái hố đen kinh hoàng kia. Vì vậy, tôi đi vòng quanh đến phía bên kia, tại đó, tôi tìm thấy không gian đủ rộng, với những bụi cây còi cọc, đám cây khẳng khiu và những búi cỏ mọc rải rác.

“Cái đồ ngốc này, sợ hử?” Ánh mắt ông trẻ đậu xuống hai bàn tay run rẩy rồi chuyển lên mặt tôi. “Ta muốn một thanh niên can đảm trong mọi tình huống, vừa có sức khỏe lại biết giữ im lặng. Sau những gì ta nghe được từ trận chiến tại thung lũng Doone, ta tưởng mình có thể tin tưởng ở cháu về sự can đảm chứ.”

“Ông có thể tin.” Tôi nói. “Cháu sẽ can đảm ở bất kỳ nơi đâu có kẻ thù, chứ không phải ở nơi đầy phù thủy và pháp sư.”

“Hừ, đại ngốc!” Ngài Huckaback kêu lên. “Phù thủy và pháp sư duy nhất ở đây chính là thứ mà ai cũng phải mê đắm. Nào, cột ngựa cho ta đi, John Ridd, không quá xa bãi lầy nhé!”

Vừa nói ông trẻ Ben vừa bám lấy bờm ngựa, leo xuống, chật vật vì tuổi già. Giống như tôi lúc đang viết những dòng này cũng đã bắt đầu đối mặt với nó. Tôi chìa tay, nhưng ông cau mặt tỏ ý không cần.

“Nào, đi theo ta, từng bước nhé!” Ông nói sau khi tôi đã cột xong ngựa của ông. “Mặt đất không nuốt chửng chúng ta (như hố tử thần của lão pháp sư) đâu, nhưng đa phần là sụt lún, lầy lội. Đừng lo, ta thuộc chỗ này như lòng bàn tay rồi.”

Không mấy khó khăn, ông đưa tôi đến một cái hố tròn to hoặc cái hầm gì đó, có gỗ dựng xung quanh làm vách. Trước giờ tôi chưa từng thấy thứ gì tương tự, và tự hỏi họ cần đào giếng làm gì khi xung quanh tìm đâu cũng thấy nước như vậy. Trên miệng nó có vài thứ bỏ đi nằm thành những đống nhỏ. Tôi lập tức nhớ đến những câu chuyện về các hầm mỏ ở Cornwall, và chiếc cốc bạc ở Combe- Martin được gửi đến cho Nữ hoàng Elizabeth.

“Đúng ra là có một thân cây bắc ngang bên trên.” Ông trẻ Reuben mỉm cười thất vọng khi thấy tôi bất giác co rúm người. “Nhưng một kẻ ất ơ nào đó đã bí mật đến đây theo dõi chúng ta. Trông thấy một người trồi lên từ bên dưới, chắc hắn sợ hết hồn nên không bao giờ dám bén mảng đến đây nữa. Chúng ta nghĩ đó là cháu. Và ta nhận thấy chúng ta đã sai, John à.” Nói đến đây, ông nhìn tôi bằng ánh mắt sắc sảo, dù không còn tinh anh.

“Ông hoàn toàn sai.” Tôi nóng lên. “Cháu đâu có hèn hạ đến mức đi theo dõi người ở cùng với chúng cháu chứ? Hơn nữa, ông trẻ Ben à, ông thật tầm thường khi nghĩ như thế.”

“Mỗi người có một suy nghĩ khác nhau.” Ông đáp. “Cháu đang nắm trong tay sức mạnh và tuổi trẻ nên có chiều hướng ảo tưởng. Ở tuổi bảy mươi, ta nhìn nhận sự việc theo trải nghiệm sống của mình. Giờ cháu có chịu đến gặp pháp sư không, hay sự can đảm bỏ trốn đâu mất rồi?”

“Đã chịu đi theo ông có nghĩa là cháu can đảm rồi.” Tôi nói.

Ông không nói nữa, ra hiệu cho tôi nhấc một cái xô bằng gỗ nặng trịch có quai bằng sắt được đặt gọn vào một hố đất nhỏ cách miệng hầm chừng một mét. Tôi nhấc nó lên, theo hướng dẫn của ông, thả nó xuống lòng hầm, nơi nó treo lủng lẳng từ một cái rầm lớn bắc ngang. Một sợi dây thừng chắc nịch được buộc vào quai xô, chạy qua một cái ròng rọc treo chính giữa cái rầm.

“Ta sẽ xuống trước.” Ông nói. “Cháu quá nặng, sợ không an toàn. Khi cái xô lên lại, hãy theo ta, nếu tim cháu khỏe.”

Rồi ông hướng xuống lòng hầm, huýt sáo, âm thanh bén và nhanh, sau đó, một tiếng huýt sáo từ bên dưới đáp lại. Ông trẻ Ben leo vào cái xô, sợi dây thừng chạy xuyên qua ròng rọc. Trong chớp mắt, không thấy ông đâu nữa.

Bị bỏ lại chơ vơ bên trên miệng hầm, tôi đấu tranh tư tưởng về việc có nên xuống cái hố đen ngòm đó không. Nếu không thấy hơi xấu hổ khi một người đầu bạc dám mạo hiểm mà kẻ đầu xanh lại nấn ná chần chừ, tôi đã không bao giờ quyết định được, vì tôi yêu không khí và bầu trời. Tuy nhiên, cuối cùng cái xô cũng lên, tôi khẽ cầu nguyện rồi bước vào, mặc kệ ra sao thì ra.

Hai hàm răng va vào nhau lách cách, nhưng hai cánh tay vẫn còn vững, tôi ôm ghì lấy sợi dây thừng đầy bụi bẩn, ở yên trong cái xô cứ chực tụt thẳng xuống độ sâu bên dưới. Đương nhiên tôi sẽ an toàn, vì giờ đây tôi hệt như một quả trứng đựng trong cái chén, nếu có rơi xuống đáy cũng không hề hấn gì. Tuy vậy, tôi vẫn ước (không chút phấn khích) rằng mọi thứ kết thúc sớm theo đúng trình tự.

Xung quanh bắt đầu tối dần, mảng trời bên trên sẫm lại, khi tôi dấn sâu hơn vào bên dưới lòng đất, trong đầu lấp đầy suy nghĩ về Lorna. Rồi tôi tiếp đất đột ngột kèm theo một cú giật mạnh và tiếng uỵch của đáy xô nện vào mặt đất. Nếu không bám chặt sợi dây thừng, chắc tôi đã ngã lộn cổ. Hai cây đuốc lớn ướp nhựa thông làm tan loãng bóng tối bên dưới, ông trẻ Reuben cầm một cây, còn cây kia nằm trong tay một người đàn ông dáng người thấp đậm, có khuôn mặt quen quen.

“Chào mừng đến với thế giới của vàng, John Ridd.” Ngài Huckaback nở nụ cười lạnh lùng cố hữu. “Rốt cuộc thì kẻ nhát gan lớn xác đã chịu xuống rồi đây, Carfax.”

“Lần đầu tiên mà.” Người đàn ông thấp đậm nói. “Ai cũng thế cả.”

Ông trẻ Ben cười nhiều hơn khi đùi tôi bị va vào thành xô lúc tôi bước ra. Còn ông Carfax thậm chí chẳng nở một nụ cười hạ cố; có vẻ như ông xem tôi là kẻ gí mũi vào việc của người khác.

Sau khi xoa bên chân bị bầm, tôi chẳng biết làm gì ngoài việc nhìn ngó xung quanh trong khoảng sáng của hai cây đuốc tỏa ra. Tôi thấy mình tựa con chuột bị mắc bẫy, tới không được mà lui cũng chẳng xong, chỉ biết đứng chết trân tại chỗ, giương mắt nhìn mọi thứ. Trước mặt tôi là một đường hầm, hai bên có trụ chống, tối om om. Tôi đợi một trong hai người lên tiếng để biết mình phải làm gì.

“Cháu có vẻ thất vọng, John nhỉ?” Ông trẻ Ben nói, nét mặt trông xanh xao vì ánh sáng của ngọn đuốc. “Cháu tưởng sẽ nhìn thấy trên nóc là vàng, bốn bề là vàng, dưới chân là vàng à, John Ridd?”

“Ha ha!” Ông Carfax phá lên cười. “Chắc chắn là cậu ta tưởng như vậy rồi. Không trật đâu được.”

“Ông sai rồi.” Tôi đáp. “Cháu tưởng sẽ thấy thứ gì đó hay ho hơn là đất và bóng tối.”

“Đến đây nào, chàng trai. Chúng ta sẽ cho cháu thấy điều hay ho hơn. Chúng ta cần cánh tay to lớn của cháu để làm một công việc mà tất cả chúng ta đã chịu thua.”

Dứt lời, ông trẻ Ben dẫn đường dọc theo một lối đi hẹp quanh co, mái đá và sàn bằng đá phiến sét cùng đá cuội màu xám đen, rồi dừng lại trước một tảng đá lớn bằng chiếc tủ quần áo gỗ sồi tốt nhất của mẹ tôi nằm chắn ngang. Bên cạnh là nhiều chiếc búa tạ mòn vẹt, vài cái còn gãy cán.

“Đồ quỷ sứ này!” Ông trẻ Ben đá chân vào tảng đá. “Tao tin là cuối cùng mày cũng sẽ tới số thôi, con ạ. Nào, John, trình diễn cho chúng ta thấy những gì dân tình đồn đại về cháu đi nào. Cầm chiếc búa tạ lớn nhất ấy và đập cái của nợ này ra làm đôi xem. Chúng ta đã vần nhau với nó ngót nghét hai tuần rồi mà nó chẳng mảy may suy chuyển. Chúng ta chẳng có người nào vung nổi cái búa tạ đó, dù đã cầm được nó.”

“Cháu sẽ làm hết sức mình ạ.” Tôi cởi áo khoác và áo gi lê ra, như thể sắp sửa bắt đầu một trận đấu vật. “Cháu chỉ sợ nó quá cứng đối với cháu.”

“Đúng thế.” Ông Carfax lầm bầm. “Ở đây chẳng có một người Cornwall nào to con cả. Không phải người Cornwall thì không thể đập vỡ tảng đá đó.”

“Vâng.” Tôi đáp. “Nhưng tôi biết một điều về chú đấy, hay ít nhất là gia đình chú. À, tôi đã đánh bại hầu hết đàn ông Cornwall, dù giờ không phải lúc để nói ra điều này. Nên nhớ, nếu tôi đập vỡ tảng đá kia cho chú, tôi phải nhận được một số vàng bên trong nó.”

“Cháu tưởng sẽ thấy vàng đổ ra như hạt của một quả hạch hay sao, cái đồ ngốc này?” Giọng ông trẻ Reuben đầy dằn dỗi. “Giờ thì cháu có chịu đập vỡ nó ra hay không? Ta tin là cháu làm được, dù cháu chỉ là một anh chàng Somerset.”

Ông trẻ Ben liếc mắt về phía Carfax, tỏ ý rất tự hào về hạt của mình, và chắc sẽ thất vọng nếu tôi không làm vỡ được tảng đá. Tôi bảo ông hạ thấp cây đuốc xuống một chút để tôi có thể nhìn kĩ tảng đá. Nó hiện ra trước tôi, có vẻ chẳng có gì nổi bật, ngoại trừ chỗ này chỗ kia lấp lánh khi ánh sáng từ ngọn đuốc hắt tới. Một tảng đá hình chữ nhật ngoan cố, có đáng để bỏ sức ra đập vỡ nếu không vì để dọn đường?”

Tuy nhiên, tôi vẫn cầm cái búa tạ lên, vung thật xa ra sau đầu rồi bổ xuống chính giữa tảng đá bằng tất cả sức mạnh. Cái mái bên trên rung bần bật, tiếng vọng vang khắp đường hầm, khiến tất cả các thợ mỏ tập trung lại, tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra. Ông Carfax chỉ mỉm cười, mặc dù cú đập vừa rồi khiến ông lảo đảo, vì nhìn thấy tảng đá vẫn chưa hề hấn gì. Tôi quai búa lần nữa - cũng chẳng khá hơn. Ông trẻ Ben trông bực và giận ra mặt, cánh thợ mỏ ngoác miệng cười hả hê.

“Cái búa bé tẹo này nhẹ quá!” Tôi kêu lên. “Ai đó tìm giúp tôi một mẩu dây thừng chắc được không?”

Rồi tôi lấy thêm hai cái búa nặng nữa, buộc chặt chúng vào lưng cái búa của mình. Sau khi buộc chắc chắn, chừa chỗ để nắm cán cái búa lớn nhất - vì cán của mấy cái kia ngắn hơn - tôi mỉm cười với ông trẻ Ben, quay cái dụng cụ nặng trịch đó quanh đầu, chỉ để thử xem mình có làm được không. Thấy thế, cánh thợ mỏ hoan hô, háo hức muốn xem trận chiến cân sức giữa “tảng đá trơ tráo” và tôi.

Rồi tôi quăng mình lên cao theo cú vung của chiếc búa tạ, hệt một người đập lúa cong người ra sau theo chiều đi lên của cái néo, dồn hết sức bình sinh đáp mình xuống, đập mạnh. Tảng đá vỡ tan, những dải vàng lấp lánh hiện ra tại những chỗ nứt.

“Thế nào, Simon Carfax?” Ông trẻ Ben reo lên khoái trá. “Anh tìm đâu ra ở Cornwall một người làm được như thế?”

“Sao không, còn hơn thế nữa ấy. Nhưng ở chỗ khỉ ho cò gáy thế này mà có một thanh niên làm được như vậy là khá lắm rồi. Các anh em, mang xe đẩy đến đây nào.”

Tôi mừng vì đã giúp được họ, vì tảng đá lớn này quá to để kéo dọc theo đường hầm, quá cứng để đập vỡ. Giờ đây, họ có thể di chuyển nó dễ dàng, từng miếng một, và cẩn thận nhặt hết những mảnh vụn.

“Cháu làm tốt lắm!” Ông trẻ Ben nói khi những người khác đi khuất qua góc rẽ. “Giờ ta sẽ cho cháu thấy tận cùng một điều bí mật tuyệt vời. Nhưng chúng ta không được làm việc đó hơn một lần, bởi giờ không phải lúc.”

Chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao, tôi lẳng lặng đi theo ông, thầm mong sớm được lên mặt đất trở lại. Ông đưa tôi đi xuyên qua những lối đi nhỏ đến một chỗ trũng gần cái hầm nơi chúng tôi đi xuống, ở đó, tôi trông thấy một “con quái vật” rất kỳ dị. Nó trông như cái máy xay cà phê tôi từng thấy ở London, chỉ có điều to gấp ngàn lần, được vận hành bằng những cái trục quay nặng.

“Biểu diễn cho John xem đi!” Ông trẻ Ben nói với Carfax. “Giờ này sao!” Simon Carfax kêu lên. “Gần đây chúng ta bị theo dõi cơ mà!”

Nói vậy nhưng Carfax vẫn làm theo ý của ông trẻ Ben, đổ vào cái thùng đặt bên trên cỗ máy chừng một giỏ đầy những viên đá vỡ, rồi một tá đàn ông đến chỗ bánh xe, quay nó, giống như cách thủy thủ làm. Từ cỗ máy phát ra một tiếng động kinh khiếp, nằm ngoài sức tưởng tượng của tôi. Tôi chạy đến chỗ thoáng của cái mỏ để hớp không khí và giúp lỗ tai bớt lùng bùng, nếu có thể.

“Đủ rồi, đủ rồi!” Ông trẻ Ben la lên lúc tôi gần như điếc đặc. “Chúng ta sẽ nghiền tảng đá lớn vào ban đêm. John, cháu không được hé răng cho ai những gì cháu chứng kiến hôm nay nhé! Nhưng từ nay về sau, cháu sẽ không sợ tiếng động lúc chạng vạng nữa.”

Tôi không thể phủ nhận đây là một mánh lới rất thông minh. Nếu họ không thể ngăn được tiếng động khỏi vọng lên trên thì tốt nhất là hành động vào ban đêm, khi mọi người thà trùm chăn nằm yên trong nhà hơn là kéo nhau vào rừng xem thử âm thanh rùng rợn đó là gì.