M
ặc dù từ thời xa xưa đã có những câu chuyện về việc vàng được tìm thấy ở Exmoor, từng tảng, từng khối chắc nịch, và người ta bắn giết nhau vì nó, nhưng với tôi, việc đào sâu dưới lòng đất và lao động cật lực để khai thác vàng thế này thật nguy hiểm và tội lỗi. Ngài Huckaback thú nhận rằng đến thời điểm hiện tại, số vàng mà ông cùng hai cộng sự bỏ ra còn nhiều hơn số vàng họ đào được từ dưới đất lên. Tuy nhiên ông tin chắc rằng chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, họ sẽ nhận lại gấp trăm lần. Ông tha thiết nài ép tôi dành nhiều thời gian nhất có thể để tham gia với họ mà không được để cho mẹ tôi nghi ngờ. Khi tôi thắc mắc sao họ làm việc này lâu như vậy rồi mà không bị ai phát hiện, ông bảo rằng phần là vì cái hầm ở tít trong rừng với những câu chuyện hoang đường, huyễn hoặc, khiến dân chúng e dè, phần vì họ rất cẩn trọng, chỉ vận chuyển đồ đạc và dụng cụ vào ban đêm, nhưng nhất là vì (họ phải biết ơn điều này) tình hình an ninh rối ren, những nghi ngờ về quân phiến loạn và sự gieo rắc kinh hoàng của gia tộc Doone khiến dân chúng chẳng dám nhòm ngó những nơi mình không liên quan. Bên cạnh đó, bãi lầy cũng giúp họ rất nhiều. Sự u ám của nó che lấp con đường dẫn tới hầm mỏ, nhất là nuốt chửng và giấu đi tất cả những gì được quẳng lên từ miệng hố. Có lần, trước cuộc tấn công vào thung lũng Doone, họ suýt nữa bị viên sứ giả của Đức vua phát hiện, vì Đại tá Stickles chắc chắn đã nghe câu chuyện của John Fry. Ông cùng nửa tá lính đã cố tình lục soát khu vực này. Lúc đó, nếu đi ngựa một mình, rất có thể ông đã phát hiện ra mọi thứ, nhưng ông không dám mạo hiểm vì nghi có bẫy. Họ đi thành đoàn nghênh ngang, rầm rộ, và người canh gác (đóng chốt trên đỉnh đồi gần như mọi ngày từ khi John Fry xuất hiện) không thể không thấy họ dù xa hàng dặm. Phát hiện ra họ, anh ta lập tức chạy băng băng xuống đồi để đánh động. Simon Carfax cùng tất cả công nhân trồi lên, xóa sạch các dấu vết khả nghi, dọn dẹp mọi thứ, xuống hầm trở lại rồi kéo tấm che làm bằng cây lách và thạch nam. Mỗi Simon ở lại bên trên, ngồi thu lu trong một hốc đá để quan sát hành tung của địch.
Đại tá Stickles hiên ngang đi trước, theo sau là toán lính huyên náo. Cả đám đi xuống con đèo đầy đá, đến tận mép bãi lầy. Tại đó, họ dừng lại hội ý, vì liều mạng đi ngựa băng qua con đường với một bên là vực sâu, một bên là vách đá dựng đứng là việc rất nguy hiểm, ngoại trừ người nào biết nó rõ như lòng bàn tay. Ấy thế nhưng Stickles và một người lính vẫn bám chắc ngựa, thận trọng men theo con đường, không quên mang theo một sợi dây thừng để được kéo lên phòng khi bị lún. Rồi họ thúc ngựa băng qua vùng đất lầy lội ra xa hầm mỏ. Nơi đây đất đá gồ ghề, bụi rậm mọc ngổn ngang, sậy đan dày thành từng búi cao, cùng những lùm cây cằn cỗi. Chính giữa sự hoang tàn, xơ xác đó nổi lên một vùng bạt ngàn xanh, mời gọi bước chân, nhưng bị cản lại bởi những bãi lầy. Không có gì ngạc nhiên khi bầy ngựa lần đầu tiên đến đây sợ hãi chùn chân và các kỵ sĩ cũng chẳng khá hơn là mấy. Họ vào ra các bụi cây, luôn đặt mình trong tình trạng cảnh giác cao độ, cầu mong mọi sự êm xuôi.
Chẳng thấy đâu dấu vết của con người mà chỉ toàn đầm lầy, hai người bèn cưỡi ngựa quay lại, lòng khấp khởi mừng thầm. Vì bên trên là núi cao phủ đầy sương mù, với những dấu hiệu của một cơn bão, xung quanh là quang cảnh hoang tàn, xác xơ, bên dưới là sự chết chóc. Họ thấy mình thật ngớ ngẩn khi lâu nay lại sợ một chỗ chẳng có gì ghê gớm thế này. Tất cả hăm hở ra về, không ngớt khen ngợi nhau về lòng quả cảm. Kết quả duy nhất của chuyến thị sát này chính là xác nhận được John Fry là một kẻ nói dối vô địch.
Tôi không thấy thiết tha gì với công việc của ông trẻ Ben, và nghĩ mình sẽ chẳng vì vàng mà bước vào cái xô kia thêm một lần nữa. Nhưng khi tôi kể cho Lorna - người mà tôi có thể tin tưởng trao gửi bất kỳ bí mật nào, như thể em chưa từng là phụ nữ - về chuyện hầm mỏ và những tiếng rền rĩ lúc chiều hôm, điều em quan tâm nhất là Simon Carfax.
“Chắc chắn là cha của Gwenny rồi.” Em reo lên. “Ông ấy đã biến mất dưới lòng đất. Gwenny vẫn luôn tìm kiếm cha mình. Trời ơi, em ấy sẽ đau khổ biết chừng nào nếu phát hiện hóa ra ông ấy cố tình bỏ mặc con gái! Em thật không thể tin nổi. Anh tin được không, John?”
“À!” Tôi đáp. “Đàn ông ấy mà, tất cả đều tàn nhẫn, dù ít hay nhiều, không ai phủ nhận điều này.”
Tôi không muốn kết luận bất kỳ điều gì về Simon vì sợ rằng mình có thể sai, khiến Lorna không coi trọng đánh giá của tôi như trước.
Tôi quyết tâm tìm hiểu thêm về ông để phần nào đền đáp (nếu có thể) những gì Gwenny đã làm cho tôi, nhưng xin Lorna đừng kể chuyện này cho Gwenny biết vội. Để thực hiện quyết tâm này, tôi bắt buộc phải tới hầm mỏ một lần nữa.
Cái xô gỗ xuất hiện sớm hơn ngoài mong đợi của tôi. Với tôi mà nói, chuyến đi xuống hầm chẳng có gì thích thú khi bị bao quanh bởi mùi ngột ngạt, tù đọng, ánh mắt dò xét của các công nhân, những sợi xích và những ngọn đuốc thay vì ánh sáng của Chúa. Ấy vậy mà những người ở đây lại sinh hoạt bình thường như loài giun suốt ngày đào bới. Nói thế cũng không đúng, vì bọn giun lâu lâu lại trồi lên mặt đất (sau một trận mưa rào chẳng hạn) và giao lưu với nhau; đằng này họ cứ ở rịt dưới lòng đất.
Tôi luôn cảm thấy kém thoải mái mỗi khi bước vào cái xô đó. Vì biết mình có mục đích lành mạnh và động cơ trong sáng, tôi chẳng nghĩ ngợi gì thêm nữa. Ở dưới đáy, ông Carfax gặp tôi, với tư cách là chủ hầm mỏ, và muốn biết tôi xuống đây vì việc gì. Ông vác một cái bao rỗng trên vai, râu dài chắc cũng hơn nửa mét.
“Tôi muốn nói chuyện với chú!” Tôi đáp khá nghiêm nghị vì người đàn ông này - chỉ là người giúp việc cho ông trẻ Ben - tỏ ra thái quá và không nể nang gì tôi. Dù tôi chẳng quan tâm gì mấy nhưng cũng muốn được tôn trọng ít nhiều.
“Vậy thì đi vào đây.” Ông đáp nhã nhặn, đưa tôi vào một căn buồng bẩn thỉu, nơi những người thợ mỏ thay áo khoác.
“Chú Simon Carfax.” Tôi bắt đầu theo cái cách khiến ông ta mất hứng. “Tôi e chú là một kẻ hời hợt, không đáng cho tôi nhọc công.”
“Vậy thì đừng có nhọc.” Ông đáp. “Tôi chẳng muốn phiền đến ai cả.”
“Tôi không vì chú.” Tôi đáp. “Mà vì con gái chú - đứa con gái bị cha bỏ đói, bỏ khát một cách đáng thương trong rừng ấy.”
Người đàn ông nhìn tôi chòng chọc bằng đôi mắt xám nhạt đã mất màu vì ánh nến. Giọng ông run run theo thân người:
“Dối trá. Tôi chẳng có con trai, con gái gì hết. Cũng không có đứa nào bị bỏ đói, bỏ khát trong rừng. Cậu to xác thế kia, tôi không địch nổi. Cậu là đồ hèn khi không tiếc lời nhiếc móc tôi như thế.” Hai tay ông lăm le cái búa tạ như thể muốn đè bẹp tôi bên dưới nó.
“Có lẽ tôi đã hiểu sai chú, chú Simon.” Tôi đáp, giọng rất nhẹ nhàng, vì thấy trán ông túa mồ hôi, bóng loáng lên dưới ánh đuốc tỏa khói. “Nếu tôi hiểu sai thật, xin chú thứ lỗi. Thế chú không mang theo từ Cornwall một cô gái nhỏ tên là “Gwenny”, được cho là con gái của chú à?”
“Ừ, nó là con gái của tôi, đứa con cuối cùng và duy nhất còn lại trong năm đứa. Tôi sẽ đánh đổi cả cái mỏ này và tất cả chỗ vàng kiếm được để có con bé ở bên mình.”
“Chú sẽ có Gwenny ở bên, không cần phải đánh đổi mỏ hay vàng gì hết, chỉ cần chú chứng minh cho tôi thấy là chú không bỏ rơi cô ấy.”
“Bỏ rơi con bé! Tôi mà bỏ rơi Gwenny!” Ông la lớn đầy giận dữ đến mức tôi ngay lập tức tin ông. “Họ bảo với tôi là con bé đã bị ngã chết và được chôn tại một gò đất ở đây. Nửa trái tim tôi đã chết theo con bé. Cầu cho Đấng toàn năng hủy diệt hầm mỏ của chúng, nếu bọn khốn đó lừa tôi!”
“Bọn khốn đó chắc chắn đã lừa chú.” Tôi cũng giận sôi lên theo cơn thịnh nộ của ông. “Con gái chú vẫn còn sống và đang ở nhà tôi. Lên đi, chú sẽ được gặp Gwenny.”
“Thả xô xuống mau!” Tiếng hét của ông vang dội khắp đường hầm. Ông ngả người tựa lưng vào tường, bên dưới tấm áo thụng đầy bụi bẩn, tôi trông thấy ngực ông nhấp nhô lên xuống như ngực của một đối thủ tôi từng chứng kiến trong một trận đấu vật dai dẳng và gian nan. Tôi chẳng biết làm gì ngoài việc đứng im nhìn ông.
Chúng tôi ra khỏi hầm, không ai nói với ai lời nào. Khi tôi đưa Carfax đi băng qua những gò đất, ông cũng chẳng nói gì. Tôi mặc kệ ông, vì chính tôi cũng thích sự im lặng. Cho lành.
Tôi bảo Carfax chờ trong chuồng bò (cốt để Gwenny không hốt hoảng), rồi sập hết cửa chớp xuống giống như mỗi khi có bò đẻ. Ông im lặng, chờ tôi gọi. Tôi đi tìm Gwenny ở nhà bếp sau, nơi cô đang cãi nhau với vú Betty như thường lệ.
“Nào, Vick tí hon!” Tôi gọi cái tên nhà chúng tôi đặt cho cô. “Tôi có tin cho cô từ Chúa trên cao đây này.”
“Đừng có nhắc đến Người.” Cô đáp. “Người quên tôi lâu lắc rồi.”
“Ngốc quá, Người không đời nào làm vậy. Nào, tới xem ai trong chuồng bò kìa.”
Gwenny biết. Nhìn vào mắt tôi là cô biết ngay.
Cô không phải là người tinh tế trong việc thể hiện cảm xúc, lúc nào cũng thẳng đuột và ngang phè. Lần này, cô khựng lại một lúc rồi mới lên tiếng.
“Ồ, Jan, anh tốt vậy chắc chẳng lừa tôi đâu nhỉ? Anh có đùa tôi không đấy?”
Tôi chỉ nhìn thẳng vào mắt cô thay cho lời đáp, và cô vén váy đi theo tôi vì đường đất bẩn. Tôi mở cửa đủ rộng để cô con gái vào gặp cha mình, rồi bỏ đi để cho hai người tự nhiên. Không biết hai cha con họ nói gì với nhau, nhưng rất là lâu.
Tôi đi tìm Lorna để kể em nghe chuyện, em vui như thể chính em tìm lại được cha mình vậy.
Với cha con Gwenny, tôi thực sự chỉ muốn làm điều tốt chứ không muốn gây hại cho ai. Nhưng với ông trẻ Reuben, tôi đã vô tình phạm phải một sai lầm nghiêm trọng. Carfax vừa vui mừng vừa vô cùng tức giận khi phát hiện ra mình bị lừa một cách ngoạn mục về cái chết của con gái. Khi ông nước mắt lưng tròng kể lại toàn bộ sự việc và sẵn sàng làm nô lệ cho tôi sau này, tôi không thể không đồng ý rằng cú lừa đó là một chiêu trò hạ tiện và bất nhân.
Chuyện là, sau khi ăn uống, thay quần áo, đội mũ lên, Carfax ra khỏi nhà trong lúc Gwenny đang ngủ (ông nghĩ vậy). Ông tính trở lại sau một giờ gì đó thôi, và đem gửi con gái cho một nhà nào đó trong vùng. Nhưng dưới sự sắp đặt bẩn thỉu của những kẻ đứng đầu (những kẻ đã đưa ông từ Cornwall đến đây), cuộc sống của ông đã bị kẹt lại trong hầm mỏ tăm tối, với lý do ông có tài đối với kim loại. Bí mật là thứ được đặt lên hàng đầu, nếu thợ mỏ được phép đưa con mình đến vùng này thì chuyện sẽ đi đến đâu? Do đó, họ ngỏ ý được thết đãi Simon một bữa ngon, chuốc cho ông say hết ba ngày ba đêm, cam đoan với ông (bất kỳ khi nào ông lấy lại được chút tỉnh táo để hỏi về con gái mình) rằng con gái ông rất ổn, đang chơi với đám bạn. Không muốn con gái chứng kiến mình trong tình trạng lướt khướt thế này, ông không hỏi thêm nữa mà tiếp tục uống, đã thế còn mừng vì con bé vẫn ổn.
Tuy nhiên, sau ba ngày chìm trong men rượu, ông sực tỉnh và cảm thấy day dứt. Điều đầu tiên ông nghĩ đến là tìm cách chuộc lỗi với Gwenny. Với tâm trạng lo lắng, đầu nhức như búa bổ, ông đi tìm Gwenny khắp nơi. Ban đầu là đe dọa, sợ hãi rồi khóc than. Thế là ông trở thành mối phiền toái đối với người khác, khiến họ phải dè chừng. Họ đã câu kết với nhau, bịa ra một câu chuyện rất có sức thuyết phục, thề thốt rằng Gwenny đã đi tìm cha, nhòm xuống miệng hầm mỏ tối om rồi bị ngã chúi xuống và chết.
“Lúc đó ông đang mải uống rượu.” Mấy tên khốn đó nã vào ông những lời chì chiết. “Chúng tôi không muốn phiền ông nên đã chôn con bé chỗ một mô đất nhỏ rồi. Thôi, có nghĩ lắm thì con bé cũng không sống lại. Đến làm một ly đi, Simon.”
Nhưng Simon nói rằng rượu đã cướp mất vợ ông, giờ lại cướp nốt đứa con cuối cùng trong năm đứa, chưa biết chừng sẽ cướp luôn cả mạng ông nếu ông còn tiếp tục vùi đầu vào nó. Kể từ đó đến nay, có chết ông cũng không đụng tới một giọt rượu. Không chỉ thế, dựa vào quyền đội trưởng mà ông được phong không lâu sau đó, ông cấm bất kỳ ai mang rượu vào hầm mỏ dù với bất kỳ lý do gì.
Tôi không có ý định làm thợ mỏ, cũng chẳng hứng thú gì đối với việc khai thác vàng đã biến ông trẻ Reuben thành một ông lão già nua nhếch nhác. Việc của tôi là cày cấy trồng trọt, chăm sóc mùa màng, cây cối và trữ hoa quả chứ không phải suốt ngày đào bới như chồn hoặc chuột cống để tìm cái thứ là cội nguồn của tội ác. Hơn nữa, giữa mùa cỏ khô và thu hoạch ngũ cốc (khoảng một tuần nông nhàn), tôi vô thức đi ra khỏi nhà theo một tiếng gọi không thể cưỡng lại được; trừ phi tôi không còn quan tâm đến đấu vật và địa hạt của mình.
Tôi sinh ra tại Somerset và đương nhiên tôi là người Somerset, đồng thời tôi cũng được nuôi dưỡng và dạy dỗ thành một chàng trai Devon. Cả hai hạt đều thề rằng thung lũng Doone không nằm trong lãnh thổ của họ mà thuộc về hạt kia. Ngược lại, hạt nào cũng tranh chấp (thậm chí có lúc còn dẫn tới xô xát) rằng John Ridd là công dân của hạt mình, và bị hạt kia nẫng tay trên một cách hèn hạ.
Lần đó, ở Cornwall xuất hiện một gã khổng lồ cao hai mét hai, vai rộng bảy mươi phân, vòng ngực hơn hai trăm hai mươi phân, chu vi bắp chân là sáu mươi lăm phân. Ngoài chợ chẳng có cái cân nào xác định được trọng lượng của gã. Gã, hoặc những người ủng hộ gã, nhờ người chuyển đến tôi một lời thách đấu táo tợn và ngạo mạn tại sàn đấu ở thị trấn Bodmin vào ngày Một tháng Tám, nếu không tôi phải trao lại thắt lưng vô địch của mình để người đưa tin mang về cho họ.
Thú thật là thoạt đầu tôi vô cùng hoang mang, sợ hãi. Tôi cao chưa tới hai mét, vai rộng sáu mươi phân, vòng ngực trần có chu vi một mét rưỡi, bắp chân chưa đến năm mươi lăm phân. Tuy nhiên, mẹ tôi không bao giờ tin rằng gã khổng lồ kia sẽ đánh bại tôi, Lorna cũng có chung ý nghĩ. Thế nên tôi quyết tâm đi thử sức, vì họ sẽ trả mọi phí tổn và một trăm bảng nếu tôi thắng gã. Mấy người Cornwall này thật quá tự tin.
Câu chuyện này ai cũng biết rất tường tận nên tôi thiết nghĩ chẳng cần kể chi tiết làm gì. Đứa trẻ nào ở Devon cũng biết, và cháu nội của chúng nó sau này cũng sẽ biết bài hát được sáng tác bởi một người thông minh nào đó sau khi tôi thết đãi anh ta ly rượu chanh đường. Gã khổng lồ đúng như miêu tả, đủ to xác để làm bất kỳ ai cũng phải kinh hồn bạt vía. Nhưng tin vào kinh nghiệm cũng như hiểu biết về môn đấu vật, tôi bước vào trận đấu với quyết tâm cao. Khi ôm vòng quanh người gã khổng lồ, tôi có cảm tưởng gã không có xương; người gã cứ nhũn ra, và tôi sợ nghiền nát gã. Gã nằm ngửa ra nhìn tôi, mỉm cười, và tôi xin lỗi gã.
Trận thắng đó gây tiếng vang lớn, nâng uy tín của tôi lên cao hơn. Nhưng tôi đau khổ vô cùng, bởi thấy mình không xứng đáng. Đó không phải là một trận đấu nảy lửa, quyết liệt như tôi mong đợi. Đằng này, cứ như đấu với một vựa cỏ khô. Tuy nhiên, tôi vẫn nhận một trăm bảng, quyết định dùng nó để mua quà cho mẹ và Lorna.
Annie đã kết hôn trước khi chuyện này xảy ra cũng khá lâu. Đám cưới đơn giản và lặng lẽ, tôi không muốn kể lể nhiều trừ những lời chúc phúc của mọi người dành cho em, bởi nó khiến tôi đau buồn vì nhiều lẽ.
Tôi hy vọng những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với Annie, nào ngờ mình sắp phải hứng chịu một tai họa khủng khiếp. Với số tiền thưởng sau chuyến đi Cornwall, tôi đi bộ từ Okehampton đến Oare để tiết kiệm một số tiền nhỏ dành cho đám cưới của mình. Tôi nhất định sẽ không đụng đến tài sản của Lorna, dù ít hay nhiều. Duy chỉ một việc tôi có thể làm là dành hết số của cải đó cho từ thiện, giống như ngài Peter Blundell, để mang lại lợi ích cho thế hệ tương lai. Lorna và tôi đã thống nhất việc này ít nhất mỗi ngày hai lần, và sau mỗi lần càng thêm hài lòng hơn.
Tôi bước vào nhà bếp với tất cả số tiền trong túi quần (những đồng ghi nê vàng có khắc một con voi, là con dấu của công ty Guinea.) Mẹ hớn hở khi trông thấy tôi an toàn, khỏe mạnh trở về, vì bà sợ gã khổng lồ đó sau khi hình dung về thân hình của gã, nhưng bà không bao giờ hỏi tôi về số tiền đó. Lizzie cũng nhẹ nhàng, hiền hòa hơn mọi khi - nhất là lúc em thấy tôi đổ những đồng ghi nê, hệt như hạt tiêu khô, vào cái thau đổ bánh pút đinh. Nhìn cách họ xúm xít xung quanh, tôi biết có điều gì đó không ổn.
“Lorna đâu rồi?” Rốt cuộc tôi cũng hỏi sau khi cố kìm nén. “Con muốn cô ấy đến xem số tiền con kiếm được. Trước giờ cô ấy chưa từng thấy nhiều tiền như thế.”
“Trời ơi!” Mẹ thở dài buồn bã. “Con bé sẽ thấy nhiều hơn thế này ấy chứ, như thế là tốt cho con bé. Con được gặp lại con bé hay không phụ thuộc vào bản chất của nó, John à.”
“Ý mẹ là gì? Hai người cãi nhau sao? Tại sao Lorna không ra đón con? Sao không ai nói cho con biết chuyện gì đã xảy ra?”
“John à, con đừng có cuống quýt lên như thế.” Mẹ tôi đáp, giọng khá điềm tĩnh, vì thật ra mẹ vốn ghen tỵ với Lorna. “Con gượm đã nào. Gì thì gì vẫn còn mẹ đây. Ai thay được vị trí của mẹ chứ?”
Nghĩ đến mai kia rời cõi tạm, mẹ tôi quay mặt đi và khóc. “Này!” Giờ tôi đã bắt đầu điên lên. “Lizzie, ít ra em cũng nói cho anh biết Lorna ở đâu chứ?”
“Tiểu thư Lorna Dugal thì đúng hơn.” Lizzie dẩu môi như thể cái tước danh đó quá lớn. “Tiểu thư ấy đi London rồi, anh John, và có thể không quay lại nữa. Chúng ta phải cố sống tiếp mà không có chị ấy thôi.”
“Cái con bé...” Tôi quát lên. (Tôi không dám viết câu chửi em gái ra đây vì tất cả quý vị đều là người có học thức, không đáng phải đọc thứ ngôn ngữ bậy bạ đó, nhưng cái dẩu môi của Lizzie đã khiêu khích tôi.) “Lorna đi rồi, Lorna đã đi! Thậm chí không chào tạm biệt anh! Chính cái kiểu ăn nói ác ý của em khiến cô ấy không chịu nổi nên mới bỏ đi đường đột như vậy.”
“Anh sai rồi.” Lizzie đáp. “Người thuộc tầng lớp hạ lưu sao có thể ghét hoặc thích người thuộc tầng lớp cao hơn họ rất nhiều chứ? Tiểu thư Lorna Dugal đã đi, bởi vì chị ấy buộc phải thế. Chị ấy đã khóc nhiều đến mức đủ để làm vỡ cả mười quả tim ấy, nếu tim quả thực vỡ được, anh John à.”
“Lizzie, em tốt quá!” Tôi kêu lên, không chú ý đến nụ cười giễu cợt của Lizzie. “Kể cho anh nghe hết đi, Lizzie, tất cả những gì Lorna đã nói.”
“Không nhiều đâu.” Lizzie nói, chẳng suy chuyển bởi sự dỗ dành, nài nỉ cũng như gào thét, thúc ép từ tôi. “Tiểu thư nhà ta hầu như không nói gì với bất kỳ ai, trừ mẹ và Gwenny Carfax. À, mà Gwenny cũng đi với chị ấy rồi, nên anh đừng tính đến chuyện tìm nó để hỏi. Chị ấy có để lại một lá thư cho “John tội nghiệp,” như cách chị ấy gọi anh đấy. Chị ấy trông mới sang trọng làm sao, thật đấy, trong bộ xiêm y lộng lẫy người ta mang đến!”
“Lá thư đâu, con nhỏ này! Ôi, chúc em mau lấy được chồng!”
Ý tôi là “Ai mà thèm rước mày”, nhưng Lizzie lúc này vẫn còn ngây thơ nên không thể hiểu đấy là một câu chửi khéo. Thay vì thế, em tỏ vẻ khá là biết ơn và đáp khẽ:
“Lá thư ở trong chiếc tủ nhỏ gần đầu giường của tiểu thư Lorna, nơi chị ấy từng cất sợi dây chuyền kim cương mà chúng ta đã sơ suất để bị đánh cắp ấy.”
Ngay lập tức, tôi vùng chạy đến phòng của Lorna (khiến mọi tấm ván trong nhà rung lên), mở toang cánh cửa tủ nhỏ và trông thấy báu vật của mình. Ngôn từ trong thư đơn giản, chất phác và đầy yêu thương như tôi mong đợi. Tôi xin trích một phần ra đây hầu chuyện quý vị, phần còn lại tôi xin giữ cho riêng mình. “Tình yêu của em, chúa tể của đời em. Đừng nghĩ sai về em nhé, vì em cứ thế ra đi mà không chờ anh về để nói với anh một lời tạm biệt. Anh ạ, em không thể thuyết phục được họ cho em chờ anh vì không ai tin anh sẽ trở về. Ông trẻ của em, một quý ông nào đó, đang đợi em ở Dunster, vì không dám đến quá gần Exmoor. Em, lâu nay vẫn bị xem là người của một dòng tộc sống ngoài vòng pháp luật, giờ đây dường như phải chuộc lỗi bằng cách sống tại tòa án dưới sự giám sát đặc biệt của Tòa Đại pháp quan. Ông trẻ của em được giao nhiệm vụ làm người bảo trợ và kiểm soát em, em phải sống dưới sự chăm sóc của ông cho đến năm hai mươi mốt tuổi. Điều này đối với em thật kinh khủng, bất công và vô cùng độc ác - tại sao em phải đánh đổi tự do để được thừa kế đất và vàng chứ? Em đã xin được từ bỏ tất cả nếu họ chịu để em tự do. Em đã quỳ xuống van xin họ, bảo rằng em không muốn tước danh, đất đai hay tiền bạc gì hết; em chỉ muốn ở nơi em đang ở, nơi lần đầu tiên em biết đến thế nào là hạnh phúc. Nhưng họ cười phá lên, bảo em là “đồ trẻ con”, và nói em phải trình điều đó lên quan chưởng ấn cấp cao của Đức vua. Họ chỉ làm theo lệnh, và phải tuân lệnh. Ngài Stickles cũng được ra lệnh hỗ trợ họ với tư cách là sứ giả của Đức vua. Và rồi, dù lòng em đau như cắt khi không thể nói lời “Tạm biệt anh nhé John”, em mừng vì anh đã không ở nhà để tranh cãi với họ. Vì em gần như chắc chắn rằng anh sẽ không bao giờ để Lorna của anh đi với những người không bao giờ chăm sóc được cho cô ấy.”
Chắc Lorna lại khóc ngay chỗ này vì trên giấy có những vết nhòe. Tiếp đó là những dòng thư ngọt ngào, yêu thương, tôi xin không viết ra đây. Rồi em kết thư bằng những lời lẽ cao thượng. “Một điều em muốn cam đoan với anh - và em hy vọng nó giúp anh yên tâm, nếu không chắc em đau khổ đến chết mất - cho dù giữa chúng ta có sự khác biệt về thứ bậc hay của cải thì tình yêu em dành cho anh vẫn không vì thế mà vơi bớt. Chúng mình đã vượt qua biết bao nhiêu khó khăn, nguy hiểm và chia cách, nhưng giữa chúng mình chưa bao giờ tồn tại sự hoài nghi, cũng sẽ không bao giờ như thế. Chúng mình luôn dành cho nhau niềm tin tuyệt đối, và sẽ luôn là như thế. Cho dù có ai nói với anh là em sai, cho dù tâm trí anh lợn cợn những nghi ngờ, nhưng anh hãy hỏi trái tim mình, hãy xua tan những ý nghĩ tiêu cực trong đầu, và chỉ nghĩ về một người thôi - người đó là, và sẽ luôn là, Lorna Dugal của riêng anh.” Nhiều người có thể không hiểu rằng nước mắt đôi
khi đến từ niềm vui, nhưng cho dù vì vui hay buồn thì những giọt nước mắt cũng đã tuôn rơi từ đôi mắt ngu ngốc của tôi, chúng nhỏ xuống những vết nhòe vì nước mắt của Lorna.
Vậy là chấm hết rồi. Tâm trí tôi cất giọng cay đắng. Hãy tin tôi đi, tất cả rồi sẽ ổn. Trái tim tôi đáp lại ngọt ngào.