D
ân trong vùng ai nấy đều bất ngờ khi gia tộc Doone không tấn công và (có thể) xóa sổ chúng tôi. Bây giờ chúng tôi phó mặc số phận vào tay chúng, vì lực lượng bảo vệ chúng tôi chỉ có Trung sĩ Bloxham và ba người lính, còn Đại tá Stickles đã được lệnh vào Nam cùng với tất cả binh lính của ông. Viên trung sĩ, (bây giờ khả năng viết báo cáo đã được cải thiện rất nhiều, dù nỗ lực lớn lao của anh ta chẳng mang lại lợi lộc gì cho bản thân, và chỉ khiến Stickles bực mình), viết báo cáo hằng tuần và gửi về London bất kỳ khi nào tìm được một người đưa thư. Dù chúng tôi không dọn thức ăn cho Trung sĩ Bloxham tại bàn nhà mình, với những món ngon nhất chúng tôi có (như đối với Stickles, người đại diện cho Đức vua), nhưng vẫn đối đãi với anh ta rất hậu hĩnh. Do vậy, anh ta đưa vào báo cáo những lời khen tặng có cánh dành cho chúng tôi như những chư hầu trung thành, tận tụy và hết lòng vì Đức vua. Kỳ thực, anh ta không thể không làm thế được vì những bản báo cáo là do Lizzie viết phần lớn, rồi trau chuốt phần còn lại mượt mà đến mức chính ngài Clarendon không tìm đâu ra tì vết để chê. Dù việc này tốn nhiều bia rượu (vì Lizzie xem việc thết đãi tác giả là trách nhiệm của nhà phê bình), và là điều tai hại (vì khiến Lizzie tỏ vẻ bề trên trịch thượng, làm như mình hiểu biết về chính trị lắm), tuy nhiên không thể ngăn lại được vì khả năng xúc phạm đến cả tác giả và nhà phê bình là rất lớn. Dù mẹ không đồng tình việc Lizzie cứ ở rịt trong phòng chứa yên ngựa vào tối thứ Sáu và thứ Bảy (và nhất định đòi Betty phải có mặt ở đó), song bà cũng tự hào ra mặt về việc Đức vua sẽ đọc những bản báo cáo của Eliza nhà chúng tôi. Ít nhất con người chất phác ấy tin như vậy, và tất cả chúng tôi đều hy vọng một thành quả gì đó lớn lao từ chuyện này. Rồi chuyện lớn lao đã xảy ra dù không như chúng tôi mong đợi, vì chính những bản báo cáo này, hoặc những bản đã từng được công khai, đã giúp ích cho chúng tôi rất nhiều vào năm sau, khi chúng tôi bị buộc tội chứa chấp và nuôi quân phiến loạn.
Lý do gia tộc Doone không tấn công chúng tôi là vì chúng chuẩn bị để đối đầu với một cuộc tấn công khác dữ dội hơn sau khi tin chắc rằng sự việc chúng đẩy lùi binh lính của Đức vua không thể nào bị bỏ qua một khi đã được trình lên các nhà cầm quyền. Chúng đã đúng. Dù những cuộc xung đột trong chính quyền suốt mùa hè và mùa thu năm đó đã trì hoãn việc này lại, nhưng đã có những sắc lệnh tích cực được ban bố: bất kể giá nào cũng phải đưa những kẻ sống ngoài vòng pháp luật này ra xét xử, thế rồi Vua Charles đệ nhị đột ngột băng hà, ném mọi thứ vào hỗn độn, đẩy tất cả vào tình trạng hoảng loạn, hoang mang.
Lần đầu tiên chúng tôi nghe tin này là ở nhà thờ, vào Chủ nhật, ngày Tám tháng Hai, năm 1684 - 1685, từ một người bà con của John Fry, đã cố tình cưỡi ngựa đến đây từ Porlock để thông báo. Ông ta đến ngay trước thời điểm hát thánh ca, bùn bắn đầy người, mồ hôi nhễ nhại khiến ai nấy đều ngoái lại nhìn. Ông ta muốn gây xôn xao và cố hết sức để làm điều đó. Chờ mọi người hát xong bài thánh ca (đội hợp ca của chúng tôi tự hào quá mức về bản thân, còn tôi thì cất giọng nam trầm âm lượng gấp đôi tiếng bò rống, lấn át cả tiếng kèn clarinét), ngay khi Cha Bowden, với vẻ mặt đầy hãnh diện, quỳ xuống để bắt đầu cầu nguyện cho Đức vua (ngài không bao giờ đọc kinh cầu nguyện, ngoại trừ vào ngày Chủ nhật lễ Phục sinh), thì Sam Fry xông vào, la lớn:
“Cấm cầu nguyện.”
“Cái gì?” Cha từ từ đứng dậy, kêu lên, nhớn nhác tìm ai đó bảo đóng cửa. “Giáo đoàn có kẻ nổi loạn à?” Mắt Cha cận nên không thấy Sam Fry.
“Không.” Sam đáp, không chút nao núng trước mọi ánh mắt đang đổ dồn vào mình. “Không nổi loạn gì hết, thưa Cha, mà là một người không thích chế độ giáo hoàng và giết người. Kinh cầu nguyện đó là kinh cầu nguyện cho người chết.”
“À.” Cha đã nhận ra ông ta là em họ của John. “Ý con không phải là Đức vua đã băng hà rồi chứ, Sam!”
“Chết thẳng cẳng: bị tín đồ Gia tô đầu độc.” Sam xoa xoa hai tay vào nhau, thích thú vì đã mang tin sốc đến cho mọi người.
“Nên nhớ là con đang ở đâu đấy, Sam.” Cha Bowden nghiêm nghị nói. “Chuyện đáng buồn này xảy ra khi nào? Đức vua là người đứng đầu nhà thờ, Sam Fry, ngài về với Chúa khi nào?”
“Hôm kia. Mười hai giờ.”
“Không thể nào.” Cha nói. “Tin tức không đến quá nhanh như thế được. Bất kể thế nào, ngài sẽ muốn được cầu nguyện hơn bao giờ hết. Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức vua nào.”
Dứt lời, Cha tiếp tục như thường lệ, nhưng chẳng ai hô “Amen” vì sợ dính líu tới chế độ giáo hoàng. Sau khi đọc xong, Cha nói vài lời ngoài sách vở về những ưu điểm của Đức vua, đức hy sinh và sự tận tụy; rồi Cha nói thêm, với nét mặt nghiêm nghị, rằng nếu đám con chiên của Cha không chịu cầu nguyện cho Đức vua theo linh mục của mình (dù sao cũng giỏi phán xét hơn), ít nhất trên đường về nhà họ có thể cầu nguyện rằng Đức vua chưa hề chết như kẻ thù của ngài khẳng định.
Sau buổi lễ, chúng tôi giết Đức vua rồi hồi sinh cho ngài ít nhất là năm mươi bận trong nghĩa trang nhà thờ. Sam Fry leo lên một bia mộ cao để kể cho mọi người nghe tất cả những gì ông ta biết. Nhưng ông ta cũng chỉ lặp lại được mỗi cái tin tức đã tiết lộ trong nhà thờ, khiến chúng tôi vô cùng thất vọng và không tin ông ta, cho đến khi ông ta hớn hở miêu tả chi tiết rằng Đức vua đã chết trong đau đớn tột cùng, khắp ngực mọc đầy nốt xanh, lưng thì toàn nốt đen, tất cả đều trong hình dạng cây thánh giá vì những tín đồ Gia tô đã đầu độc ngài. Khi Sam kể xong câu chuyện (có thể do ông ta tưởng tượng ra), mọi người lập tức đổ xô đến mời ông ta ăn trưa, đến mức ông ta không biết nhận lời ai, cuối cùng chọn nhà tôi.
Đau buồn vì sự ra đi của Đức vua, bất kể chuyện này có ảnh hưởng to lớn thế nào đối với quyền lợi hoàng gia, tôi quyết định một mình cưỡi ngựa đến Porlock ngay sau bữa trưa để tìm hiểu thực hư ra sao. Ai biết được Sam Fry, em họ của John, có mang trong mình dòng máu nói láo thừa hưởng từ ông ngoại bà nội gì đó hay không. Tại Porlock, sau khi tìm hiểu, tôi biết được tin đó chính xác một trăm phần trăm; cánh phụ nữ thị trấn đang quá đỗi đau buồn vì họ vốn rất yêu thích Đức vua, còn đàn ông thì đoán già đoán non chuyện gì có thể sẽ xảy ra sau cái chết của ngài.
Tôi buồn bã cưỡi ngựa về nhà, mặc dù chỉ gắn kết với Đức vua với tư cách người trông giữ nhà thờ - xếp sau mỗi linh mục. Đây là tước vị có tính cha truyền con nối ở mọi giáo xứ. Ai có thể trông coi nhà thờ tốt hơn người có cha đã từng làm việc này trước đây chứ?
Cuối cùng tôi cũng được bổ nhiệm chức vụ đó vì là nông dân xuất sắc nhất của giáo xứ (cộng thêm lý do liên quan đến sự quản lý yếu kém của mẹ và bác Nicholas Snowe, khiến mọi việc lắm lúc cứ lộn xộn cả lên vì hai người quá hấp tấp). Tôi hãnh diện vì mình hiểu được suy nghĩ của Đức vua, với tư cách là người quản lý và khởi xướng nhà thờ Anh, và tôi biết rằng chúng tôi hẳn sẽ nhớ Đức vua, bởi ngài giống như kim chỉ nam dẫn đường cho tư tưởng của chúng tôi ở nhà thờ; tuy nhiên tôi cứ nghĩ mãi về việc cái chết của ngài sẽ ảnh hưởng đến tôi thế nào.
Trước hết, tình trạng hỗn loạn có thể xảy ra. Chúng tôi đang có hai mươi tám đụn ngũ cốc, rơm và cỏ khô. Hơn nữa, sức chịu đựng của mẹ đối với những cuộc nổi loạn, súng ống, cháy nổ ngày một kém. Hằng đêm, bà túm lấy khăn trải giường, bịt chặt hai tai, người co rúm, cầu nguyện rằng mình có thể ngủ một mạch đến sáng. Kế tiếp, nhiều cuộc nổi loạn đang âm thầm diễn ra. Nỗi kinh hoàng đến từ gia tộc Doone cũng hỗ trợ khá nhiều; như một cái cây sai quả của sự vô thiên vô pháp, và là cái cớ hoàn hảo cho mọi người. Và điều tôi lo lắng nhất trong tất thảy là những sự việc này sẽ tác động thế nào đến số phận của Lorna.
Thực tâm, tôi phải thừa nhận thỉnh thoảng tôi có nghĩ, hoặc người khác bóng gió, rằng tiểu thư Lorna đã cư xử không ra gì khi bỏ đi biệt vô âm tín như thế. Cho dù ở thời đó, dịch vụ thư tín chưa đến vùng chúng tôi, Lorna vẫn có thể thuê được một người đưa thư, nếu không dám tin vào những đoàn ngựa thồ hoặc lính tráng. Ấy thế mà mãi chẳng thấy thư từ gì đến tay chúng tôi, cũng chẳng có dấu hiệu nào cho biết Lorna có an toàn ở London không. Tuy nhiên, về điều này chúng tôi không lo, vì đã hơn một lần nghe từ những người lính liên lạc rằng sự giàu có, nhan sắc và những cuộc phiêu lưu của tiểu thư Lorna Dugal được rất nhiều người bàn tán xôn xao, cả ở cung điện lẫn bên ngoài.
Cưỡi ngựa về nhà, lòng trĩu nặng, trong ánh hoàng hôn của một ngày xuân đang chớm, tôi chưa bao giờ thấy buồn đến thế và có cảm giác như thể bị bỏ rơi. Thời tiết đang trở nên rất đẹp và dễ chịu. Cây cối đâm chồi nảy lộc, lũ gia súc hớn hở vui tươi. Cho dù không khí xung quanh tràn đầy sức sống, tôi không thể không nghĩ đến sự khác nhau giữa thế-giới-hôm-nay với thế-giới-của-ngày-này- năm-sau. Khi ấy, tất cả chìm trong hoang tàn, ảm đạm, khắp trái đất phủ một lớp tuyết dày, bầu không khí ngập những mảnh băng bé xíu hệt những cây kim gãy sáng lóa lên như những vì sao, châm kín một người (nếu anh ta ở ngoài đủ lâu) đến mức vùi sâu anh ta vào cơn buồn ngủ và chết cóng. Không một dấu hiệu nào của sự sống chuyển động, cũng không có bất kỳ sự thay đổi quang cảnh nào; trừ cơn gió thổi thốc vào chóp của một đống tuyết nào đó và làm nó biến đổi hình dạng.
Tuy nhiên, hiện giờ mọi chuyện đều ổn. Mùa xuân đang chạm tay lên những quả đồi và thung lũng. Mặc dù mặt trời đã xuống thấp, nấp đằng sau những cụm mây đằng tây, ánh sáng màu xám của đại dương hắt lên, chiếm lĩnh, dẫn dắt và tạo nên sắc thái đặc biệt của vạn vật. Tuy nhiên, tôi ước gì lúc này tuyết rơi dữ dội, những cơn gió rít lên không ngơi nghỉ, vạn vật chìm trong giấc ngủ dài. Vì những ngày đó, tôi có Lorna.
Rồi tôi nghĩ về ánh hoàng hôn nhuộm đỏ các đỉnh núi trước khi rời đi, những vách đá cheo leo tít đằng xa cố níu kéo mấy tia nắng còn sót lại như muốn lưu giữ các ký ức cuối cùng. Nhưng khi đêm tràn qua chúng, phủ lấp chúng trong bóng tối thinh lặng thì tất cả những màu sắc tan biến, tất cả các ký ức phai nhạt, cuối cùng chẳng còn gì.
“Tình yêu cũng thế.” Tôi nghĩ. “Cả sự thật và sự ấm áp. Em đã chọn những vì sao lấp lánh thay vì ánh sáng ban ngày.”
Nói vậy thôi chứ tôi đời nào chịu bỏ cuộc, cho dù bị nhấn chìm trong cơn thất vọng cùng cực (nhất là khi đi qua nơi người cha yêu quý của mình đã chiến đấu trong tuyệt vọng), tôi cố nhìn nhận sự việc và đánh giá đúng đắn về chúng. Điều này nói thì không khó nhưng để đạt được lại chẳng dễ chút nào. Lúc đi xuống đồi, tôi chẳng thấy mình sáng trí hơn là bao. Nếu tôi nói với mẹ chuyện Đức vua tạ thế là thật, bà hẳn sẽ khóc và tính đến việc để tang cho ngài.
Chẳng có lấy thời gian mà khóc than ai oán. Tất cả đồ tang phải sẵn sàng (nếu chúng tôi muốn chiến thắng nhà Snowe) trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Dù đang là tối Chủ nhật, mẹ (giờ đã biết chắc sự việc) ngồi với Lizzie, cặm cụi cắt mẫu, khâu các thứ lên giấy nâu, rồi lại cắt, trải các kiểu ra để hỏi ý kiến của mọi người, nhưng lại bác bỏ bất kỳ ý kiến nào được đưa ra, đến mức tôi chán cả thuốc lá (vốn là nguồn an ủi của tôi từ khi Lorna ra đi), và cầu mong mẹ tiếp tục cho đến khi Đức vua sống lại.
Ý nghĩ đó khiến bà bối rối (bà hiếm khi biết đùa) đến mức đặt cây kéo lên bàn và bảo: “Trời ơi, John! Mẹ cắt nhiều thế này rồi mà!”
“Có thể ngài sẽ sống lại thật đấy.” Tôi cười tủm tỉm. “Mẹ à, tốt hơn hết là mẹ nên dừng lại đi. Mẫu đẹp đấy, nhưng đừng cắt thêm nữa.”
“Ừ, mẹ đúng là đồ ngốc! Ba cái bàn ghim đầy kim kìa! Hãy để Đức vua cho Chúa lo, nếu quả thật Người đã gọi ngài về.”
Thế là chúng tôi đi ngủ, không khâu may gì nữa cho đến khi binh lính thông báo chính thức rằng Đức vua tạ thế thật. Do vậy, nhà Snowe đã làm xong trước chúng tôi một ngày; thế là, như thường lệ, vú Betty và Lizzie đổ hết lỗi cho tôi.
Gần như trước khi chúng tôi kết thúc việc để tang (là những thần dân trung thành, chúng tôi để tang Đức vua một trăm ngày), nơi đây bắt đầu dấy lên những đồn đại về tình trạng hỗn loạn, âm mưu và chiến tranh. Chúng tôi nghe về việc đánh nhau ở Scotland, việc mua tàu thuyền ở lục địa, mua vũ khí ở Dorset và Somerset. Chúng tôi luôn giữ đèn hiệu ở tư thế sẵn sàng để báo hiệu tàu cập bến, hay đúng hơn là đám binh lính làm vậy. Từ những báo cáo đáng tin cậy, chúng tôi biết rằng Đức vua mới đã đích thân cử hành Lễ trọng trong Tu viện Westminter, bắt tất cả giám mục và lính canh ở London đi theo ngài, sau đó tra tấn các tín đồ Tin lành dám đợi ở bên ngoài. Đức vua mới cũng đã nhận từ Giáo hoàng một bông hoa được trồng ở vườn Đức Mẹ Mary, đảm bảo tươi mãi không tàn. Chúng tôi, những người theo quan điểm ôn hòa (nghe tất cả những điều này đến cả chục lần, và không dành tình cảm yêu mến đối với Đức vua James cau có, khó chịu như đối với Đức vua Charles tươi vui, hoạt bát), chuẩn bị tinh thần đón đợi những sự kiện xảy đến hơn là tìm cách ngăn chặn nó. Vì vậy, chúng tôi lắng nghe những lời đồn đại một cách vui vẻ, lắc đầu ra vẻ quan trọng, đoán già đoán non. Về phần chúng tôi, mọi thứ vẫn diễn ra bình thường cho đến gần giữa tháng Sáu. Chúng tôi cày đất, gieo ngũ cốc, chăm sóc gia súc và để ý đến chuyện của nhà hàng xóm, cẩn thận như từ xưa đến nay. Điều duy nhất khiến chúng tôi xúc động đến rơi nước mắt là Annie có em bé. Đó là một đứa bé xinh xắn với đôi mắt xanh, được đặt tên thánh là John để bày tỏ tình cảm dành cho tôi, và tôi làm cha đỡ đầu cho nó. Khi mẹ hoặc Lizzie đường đột hỏi tôi một cách xét nét, lúc cả nhà đang ăn tối bên bếp lửa (chúng tôi luôn đốt ít củi trong mùa hè, đủ để làm sôi ấm nước): “John, nghĩ đến cái gì đấy? Nói đi, mau lên!” thì lúc nào tôi cũng đáp: “Nhóc John Faggus!” Thế là họ thôi tra khảo.
Vào thứ Bảy ngày Mười ba tháng Sáu, tôi đến lò rèn gần thị trấn Brendon, nơi dòng Lynn chảy gần đến mức người thợ rèn thường nhúng móng ngựa xuống đó, cũng là nơi tin tức có khuynh hướng đến trước tiên ở vùng chúng tôi (ngoại trừ vào Chủ nhật), trong lúc chúng tôi đang trò chuyện về vụ mùa cỏ khô và một kẻ trộm cừu to gan thì một người đàn ông cưỡi con ngựa vá trông mệt lử rẽ qua khúc cua. Nhìn thấy chúng tôi (gồm năm, sáu người trẻ trung, nhanh nhẹn, vui vẻ), anh ta rối rít vẫy một lá cờ màu xanh, hét vang phấn khích:
“Monmouth và đức tin đạo Tin lành! Monmouth và không Giáo hoàng! Monmouth, con trai trưởng của Đức vua anh minh! Đả đảo kẻ giết người bằng chất độc! Đả đảo kẻ tiếm quyền đen tối, và hãy đày xuống địa ngục tất cả những kẻ theo chủ nghĩa Giáo hoàng!”
“Tại sao lại thế?” Tôi hỏi nhỏ. Biết Lorna là “người theo chủ nghĩa Giáo hoàng”, như cách chúng tôi gọi họ - dù có thể họ cũng gọi chúng tôi là “những kẻ thân vua”, vì ngài là người đứng đầu giáo hội của chúng tôi - tôi nghĩ rằng tên xỏ lá này nên chỉ đường cho họ đến nơi y nhắc tới, nếu y đủ can đảm.
“Anh có phải tín đồ theo chủ nghĩa Giáo hoàng không?” Y hỏi. “Cầm lấy cái này đọc đi.”
Y đưa cho tôi một tờ sớ dài lê thê mà y gọi là “Bản tuyên ngôn”. Nhận thấy nó chỉ là một lô lốc những lời dối trá, tôi bèn ném nó vào lò rèn rồi thổi ống bễ ba lần. Không ai dám ngăn tôi lại, vì tâm trạng tôi gần đây không được tốt, và đương nhiên họ biết sức lực của tôi.
Người đàn ông kia làu bàu, cưỡi ngựa đi tiếp sau khi không thu nạp được tân binh nào, rồi dừng lại tại quán rượu trên con đường cách xa dòng Lynn. Sau đó một lát, vài người chúng tôi cũng tới quán đó, khi ngựa đã được bịt móng và giũa xong. Dù không thích người đàn ông ấy, chúng tôi có thể thích những tin tức y đem tới. Y đã cắm ngọn cờ màu xanh trong quán và giảng giải cho mọi người.
“Ngài John Ridd đến rồi đây.” Bà chủ quán nói, rất hài lòng khi bán được nhiều bia và rượu táo. “Ngài ấy sống cách đây một dặm, đã từng đến London. Ngày nay tất cả tin tức đều đến từ London. Nếu ngài John Ridd nói nó là đúng, tôi sẽ tin nó. Có phải Công tước đã cập bờ không, thưa ngài?” Bà ta nhìn tôi qua cái cốc đầy bọt, thổi thổi, rồi rót thêm vào.
“Tôi tin đúng là thế.” Tôi đáp trước khi uống. “Không trật một ly, bà Pugsley. Nhiều kẻ đáng thương sẽ chết, nhưng giáo dân trong giáo xứ của tôi, hoặc ở Brendon, sẽ không chết nếu có tôi giúp.”
Tôi biết rằng mình có thể làm được, vì mọi người sẽ nghe theo lời khuyên của tôi, không chỉ vì tôi được đi học và từng lưu lại dài ngày ở London, mà còn vì tôi có tiếng là “chậm mà chắc” - mười người thì hết chín người xem đây là phẩm chất đáng học hỏi.
Suốt hai tuần kế tiếp, chúng tôi bị khuấy đảo bởi những tin đồn trái ngược, ai cũng kể điều mình muốn tin hơn là những gì mình có quyền tin. Nào là Công tước được tuyên bố là Vua nước Anh tại tất cả các thị trấn ở Dorset và Somerset. Nào là ngài đã thắng một trận lớn ở Axminster, một trận khác ở Bridgwater, và một trận nữa ở đâu đó. Nào là tất cả các hạt ở miền Tây đều đồng lòng ủng hộ ngài, tất cả các đội quân sẵn sàng chiến đấu vì ngài. Nào là khắp Taunton, Bridgewater và Bristowe, mọi người phát điên lên vì sung sướng; hai địa danh đầu đã về tay ngài, nơi còn lại cũng mong được như vậy. Lại có tin rằng Công tước đã bị đánh bại và tháo chạy, trong cơn hoảng loạn, ngài đã thừa nhận mình là kẻ lừa đảo và cũng là một tín đồ theo chủ nghĩa Giáo hoàng như Đức vua.
Chúng tôi mong Đại tá Stickles đến (vì ông luôn đến đúng lúc chiến tranh, dù ông bị rớt xuống hàm đại úy, thậm chí trung úy, ngay khi chấm dứt cuộc chiến), vì khi đó, chúng tôi hẳn sẽ có được những tin tức đáng tin cậy cũng như sự suy xét sáng suốt. Nhưng ngay cả Trung sĩ Bloxham, dù không hề muốn, cũng đã rời đi (thể xác thôi chứ hồn thì vẫn còn ở chỗ Lizzie cùng tất cả các bản báo cáo của anh ta). Tất cả binh lính đã được lệnh nhanh chóng rút đến Exeter để gặp Công tước Albemarle, nếu ông ta đi rồi thì đi theo ông ta. Còn chúng tôi, những người đã cho họ ăn uống một thời gian rất lâu (dù không hoàn toàn miễn phí), phải tự mình đương đầu với gia tộc Doone hay bất kỳ kẻ thù nào.
Tất cả những tin tức này không đến mức khiến tôi ăn không ngon, ngủ không yên, nhưng đủ để làm đảo lộn mọi thứ, dạy tôi biết được rằng vẻ ngoài hiểu biết có được là nhờ rèn luyện và nghe nhiều lời nói dối. Vì vậy, do sợ bị đánh bại, tôi kìm lại những phán đoán của mình bởi lỡ đâu không đạt được kết quả như dự định. Nhưng mẹ và Lizzie ngày nào cũng trên dưới mười bận đoán già đoán non tất cả những gì họ có thể tưởng tượng được. Thậm chí dân từ Lynmouth cũng nhờ người đến nông trại Plover’s Barrows để hỏi thăm mọi chuyện đang diễn ra thế nào. Thật đáng buồn khi đáp rằng kỳ thực chúng tôi không biết, cũng chẳng nghe gì suốt nhiều ngày rồi. Danh tiếng của chúng tôi quá lớn (nhất là khi tin tức về cái chết của Đức vua từ giáo xứ Oare lan ra các vùng lân cận) đến mức nhiều người tới hỏi chỉ nháy mắt, đưa ngón tay lên môi, như thể muốn nói: “Các người thừa biết, nhưng thấy không thích hợp để nói cho tôi biết, đúng không?” Trước khi kết cục xảy ra, những người đó tin rằng ngay từ đầu họ đã đúng, và chúng tôi đã giấu họ sự thật.
Bản thân tôi đã vướng vào (Có Chúa biết, điều đó đi ngược lại với ý muốn và khả năng suy xét của tôi biết chừng nào) những rắc rối, xung đột và sự vụ tàn khốc diễn ra sau đó. Nếu trong đời tôi từng đưa ra một quyết định nghiêm túc và dứt khoát hết mức có thể thì chính là lúc ấy. Tôi đã quyết định để mặc mọi chuyện - nghe các tin tức một cách vui vẻ, khuyến khích tất cả các bạn tôi nói, còn mình thể hiện quan điểm đối với mỗi ý kiến cụ thể - để xóa tan mọi nghi ngờ. Nhưng cách giải quyết của tôi chẳng đi tới đâu.
Một ngày đầu tháng Bảy, tôi về nhà sau buổi gặt, khoảng trưa hoặc muộn hơn một chút, để mang rượu táo cho mọi người, nhân tiện ăn một miếng thịt lợn muối xông khói. Năm đó, việc gặt khó khăn vì trời rất hay mưa. Hầu như ngày nào chúng tôi cũng ướt đẫm nước, nhưng bất kể thế nào cũng phải gặt cho xong, còn việc phơi khô thì chúng tôi phải trông cả vào lòng thương của Chúa.
Tôi trông thấy trong sân đậu một cỗ xe ngựa nhỏ, có cái hãm bằng sắt bên dưới để giảm xóc, thường chỉ có xe của huân tước hoặc tòng nam tước trở lên mới dùng đến nó. Vì vậy, tôi tự hỏi vị khách quý tộc của chúng tôi có thể là ai. Lúc vào nhà bếp, vuốt lại tóc cho thẳng nếp, tôi mới biết hóa ra đó chính là Annie. Em bế đứa con trai trên tay, nét mặt xanh xao, trông như vừa mới khóc. Thoạt tiên, em không thể cất tiếng. Sau khi ngồi xuống một lát, nhận nhiều lời khen dành cho đứa con, em mỉm cười, mặt đỏ lên, líu lo như thể em chưa từng xa chúng tôi.
“Tất cả vẫn như xưa! Ôi, em mới yêu căn bếp cũ này làm sao! Cơ mà ai đặt cái rây bột ở chỗ kia vậy? Cả cái chày và cái cối kia nữa. Em cá là mấy cái chảo nhỏ có gỉ sét bên trong! Còn cái móc treo xiên nướng thịt chắc là bẩn rồi! Lizzie ơi là Lizzie!”
“Em thôi ca cẩm đi được không nào?” Tôi lên tiếng. “Em không thể thay đổi bản tính Lizzie được đâu, sẽ chỉ khiến mẹ khó chịu thôi, có khi còn cãi nhau với Lizzie nữa, mà nó thì luôn vênh váo mỗi khi ai nhắc đến chuyện coi sóc nhà cửa của nó.”
“Đúng.” Annie kêu lên, dồn hết sự khinh thường vào một âm tiết. “Anh nói đúng. Em sẽ cố không xét nét này nọ nữa. Thú thật là rất khó. Nhìn thấy mọi thứ lộn xộn thế này khi mà em đã dày công chăm sóc... Nhưng có thể mong đợi điều gì ở một cô gái biết tất cả những vị vua của Carthage chứ?”
“Không có vị vua Carthage nào cả, Annie. Họ được gọi là… là gì nhỉ… để anh xem nào, họ được gọi là gì khác ấy.”
“Đừng bận tâm đến việc họ được gọi là gì.” Annie nói. “Họ có nấu bữa trưa cho chúng ta không hả? Mà thôi, John à, em đang gặp rắc rối. Tất cả cuộc nói chuyện này chỉ là giả vờ thôi.”
“Đừng khóc, đừng khóc mà!” Tôi kêu lên khi em buông người xuống chiếc ghế cũ sờn, cúi xuống đứa con, đu đưa như thể hai quả tim của hai mẹ con là một. “Em biết không, Annie, anh không thể nói được, nhưng anh biết, hay đúng hơn là anh từng nghe những người có kinh nghiệm nói là điều đó không tốt cho đứa bé chút nào.”
“Em biết điều đó không kém gì anh, John à.” Annie nói, ngước nhìn tôi bằng ánh mắt biết cười như trước. “Nhưng làm sao em có thể không khóc được khi đang gặp rắc rối như thế.”
“Cho anh biết đó là gì đi. Chắc chắn anh sẽ lo lắng và khổ sở khi em gặp bất kỳ nỗi đau nào, nhưng anh sẽ cố chịu đựng.”
“Vậy thì John ơi, là thế này. Tom đã bỏ nhà đi với quân phiến loạn rồi. Anh phải mau đuổi theo anh ấy giúp em.”