• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tình sử Lorna Doone - Tập 2
  3. Trang 27

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 26
  • 27
  • 28
  • More pages
  • 38
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 26
  • 27
  • 28
  • More pages
  • 38
  • Sau

Chương 64

C

húng tôi phóng đi với tốc độ vừa phải ra khỏi thị trấn Dulverton; con Kickums đã được cho ăn no nê, còn tôi cũng đã khỏe lại, sẵn sàng cho chuyến đi. Đương nhiên tôi thấy khó hiểu về cô em họ Ruth, cách hành xử của cô chẳng giống như tôi mong đợi. Vậy mà tôi đã hy vọng cô tạm biệt tôi đầy tình cảm và xúc động hơn cơ đấy. Tôi thầm nhủ: “Thôi, phụ nữ ấy mà. Mong đợi họ làm theo ý mình có mà đến khuya. Chắc mình đã làm gì khiến Ruth phật ý rồi, cũng như cô ấy đã khiến mình phật ý đấy thôi. Đi nào!” Thế là tôi phóng ngựa băng qua vùng đất hoang, con Kickums hiên ngang ưỡn ngực tiến về phía trước.

Nếu giờ mà tôi cố kể lể chi tiết tất cả những gì đã xảy đến với mình trong chuyến phiêu lưu này, cùng với những gì trông thấy và những chuyện nghe được, thì dù cho những người thông thái có thể hoan nghênh câu chuyện của tôi, vẫn có thể có những độc giả lười nhác kêu lên:

“Cái gã này bị làm sao thế? Hắn không biết rằng những điều hắn nói, chúng ta đã biết hết rồi sao? Hãy để hắn về với nông trại, thịt lợn muối xông khói, đấu vật và ăn uống liên miên đi!”

E rằng sẽ bị phản đối (có thể chết rồi mà vẫn không được yên), nên tôi sẽ chỉ kể những gì cần thiết, làm sáng tỏ tính cách của tôi và lấy lại thanh danh cho giáo xứ chúng tôi. Bởi dân chúng các nơi bàn tán về tôi bằng những thông tin sai lệch, tôi xin kể ra đây tên các thị trấn mà tôi đã lần lượt đi qua: Bath, Frome, Wells, Wincanton, Glastonbury, Shepton, Bradford, Axbridge, Somerton và Bridgwater.

Tôi đến Bridgwater vào một đêm Chủ nhật, đâu như ngày mồng Bốn hay mồng Năm tháng Bảy gì đấy. Cả người và ngựa đều vui mừng vì đã có thể tìm một chỗ tươm tất để ăn uống và nghỉ lại một chốc.

Nói trước bước không tới. Cả thị trấn đâu đâu cũng thấy lính tráng của ngài Công tước (nếu có thể gọi cánh đàn ông ở đây như thế, một nửa trong số ấy chưa bao giờ được tập luyện, hoặc bắn một phát súng). Nghe đồn “quân đội Giáo hoàng”, theo cách gọi của họ, sẽ bị tấn công ngay đêm đó, và bị đánh bại nhờ sự giúp đỡ của Chúa. Tuy nhiên, lúc bấy giờ tôi đã học được một điều là đừng nên để ý đến những tin đồn. Sau khi tìm kiếm Tom Faggus trong vô vọng giữa đám lính tráng nhà quê đáng thương, tôi tìm đến một nhà nghỉ và đi ngủ vì quá mệt.

Tôi lập tức ngủ say sưa quên trời quên đất, dù khắp thị trấn đèn đuốc sáng trưng, ồn ã và huyên náo. Tôi cứ nằm hệt khúc gỗ như thế trong nhiều giờ, không mộng mị, cho đến khi bừng tỉnh bởi bị ai đó hết đẩy, kéo, véo rồi lại bứt tóc. Rốt cuộc tôi cũng mở mắt, trông thấy bà chủ nhà nghỉ tay cầm nến ở ngay trước mặt.

“Bà không để tôi yên được à?” Tôi càu nhàu. “Tôi đã trả tiền phòng rồi mà, tôi sẽ không ra khỏi giường vì bất kỳ ai cả.”

“Dậy đi, cái chú này!” Bà ta lay tôi cật lực. “Thế này mà ngủ được à? Thật là nhục nhã cho chú! Dậy chiến đấu đi chứ! Một người lưng dài vai rộng như chú đây phải chặn được một khẩu thần công.”

“Tôi thà chặn một cái giường còn hơn.” Tôi nói. “Tôi thì có liên quan gì đến đánh đấm chứ? Tôi phục vụ cho Đức vua James, nếu có.”

“Nếu chú chỉ chặn được một cái giường…” Người đàn bà luống tuổi sưng sỉa. “… thì tôi cất công đánh thức chú suốt nửa giờ đồng hồ làm gì. Nghe cho rõ đây này, chú em. Chú là người Somerset, nghe giọng chú tôi biết. Không một cô gái Somerset nào thèm đưa mắt nhìn chú, dù chú sức vóc hơn người, trừ phi đêm nay chú tận dụng nó.”

“Tôi không cần một cô gái Somerset, thưa bà. Tôi đã có một cô gái trắng trẻo hơn mấy cô da nâu của bà, và tôi sẽ ra tay chỉ vì mỗi cô ấy thôi.”

Nghe vậy, bà ta bỏ cuộc, không thúc giục tôi nữa. Tôi hơi phật ý vì tiếng tăm của mình chưa lan xa đến Bridgwater, trong khi tôi tưởng nó đã đến Bristowe. Nhưng dân Đông Somerset chẳng biết gì về đấu vật. Devon là vùng đất của nghệ thuật; Devon là quê hương của tình yêu quan trọng bậc nhất đời tôi. Trước khi lên lầu, tôi đã uống một gallon rượu với bà chủ quán trọ, trong lúc cao hứng, tôi đã tự giới thiệu mình là John Ridd. Bà ta gật đầu, làm tôi tưởng bà ta biết tên tuổi và danh tiếng của tôi. Ấy thế mà tôi không những bị lay, cấu véo, giật tóc trong lúc đang đánh một giấc ngủ ngon lần đầu tiên trong suốt cả tuần, mà còn bị lăng nhục, làm bực mình, và (điều này khiến tôi cáu nhất) xem như đồ vô danh tiểu tốt.

Dù bực bội nhưng tôi đã tỉnh như sáo. Qua cửa sổ để mở, tôi nghe thấy những loạt đạn súng hỏa mai vẳng lại, tiếng gõ trống và tiếng kèn trumpet. Có thể Tom Faggus đang có mặt ở đó và bị bắn trúng bất kỳ lúc nào. Em Annie của tôi sẽ trở thành một góa phụ đáng thương, còn con trai đỡ đầu của tôi, Jack, sẽ thành trẻ mồ côi.

Tôi mắng nhiếc bản thân vì sự lười nhác, trì trệ của mình. Phần vì thiện chí, phần vì tự ái, và có lẽ cả sự thích nổi loạn của một thanh niên, tôi ngồi dậy, thay quần áo, đánh thức con Kickums (lúc này đang ngáy pho pho), xông vào chốn súng đạn vô tình. Người coi chuồng ngựa mắt nhắm mắt mở gãi đầu, không biết chỉ cho tôi đi đường nào. Đức vua là ai hay Giáo hoàng là người nào có quan trọng gì đâu, miễn là anh ta đủ tiền để trang trải cuộc sống và nhận một chút thịt lợn muối xông khói vào Chủ nhật? Liệu tôi có nhớ rằng tôi đã đánh thức anh ta vào lúc đêm hôm khuya khoắt? Những người thuộc tầng lớp trên luôn trả tiền gấp bốn lần nếu làm cho một người bị mất giấc ngủ ngon. Tôi đáp rằng việc anh ta bị mất giấc ngủ ngon là có ích cho một người có nước da đỏ đắn như anh ta, và vì tôi không phải là người thuộc tầng lớp trên nên tôi chỉ trả tiền cho anh ta bằng một nửa họ mà thôi. Thế là tôi trả cho anh ta khoản tiền gấp đôi phí thông thường, vì là một nông dân tốt bụng; anh ta mừng húm khi thoát được Kickums, tôi có thể nhận thấy điều đó trong ánh mắt của anh ta lúc tôi đi qua cổng vòm.

Tôi cưỡi ngựa ra khỏi những con đường hẹp, hướng về phía các đầm lầy, theo tiếng súng và tiếng kèn trumpet. Tôi hẳn đã có thể tìm được đường đi, dù xung quanh toàn nước là nước cùng ánh sáng bàng bạc của trăng, thế nhưng khi lần theo âm thanh, sương mù (như một cây dẻ đang nở hoa ngập trong ánh trăng sóng sánh) làm khó tôi. Tôi đã quen với sương mù ở quê mình và có thể đương đầu được với nó, nhưng đây là nơi hoàn toàn xa lạ. Thực ra, sương mù nơi đây chẳng là gì so với sương mù Exmoor. Ở đây còn thấy ánh trăng chứ ở quê tôi, ngay cả mặt trời cũng bị che lấp, có khi suốt một tuần ròng. Tuy nhiên mặt nước lấp loáng khiến sương mù khó đương đầu hơn: nó hệt như bức rèm phủ lên tấm gương, không ai có thể xác định được ranh giới.

Chỗ này có nhiều vũng nước lớn nằm rải rác. Một con vịt trời, được sinh ra và lớn lên ngay tại đây, còn thấy khó tìm thấy tổ của mình, huống hồ tôi và con Kickums không quen với đầm lầy và ao hồ. Chúng tôi cứ thế mò mẫm đi bằng trực giác, mỗi lúc một tiến gần trận đánh hơn. Đột nhiên trước mặt tôi hiện lên một vũng nước lớn loang loáng ánh trăng, mờ ảo dưới màn sương mù dày đặc.

Tại đây, tôi nghe rõ mồn một tiếng la hét của những tên sát nhân cuồng loạn xen lẫn tiếng rú gào đau đớn của những kẻ thất bại, chuyển từ điên tiết sang than khóc rên rỉ; rồi bất thình lình Thần Chết ập tới, mang linh hồn đi. Những âm thanh ấy tôi vẫn còn nhớ như in cho đến tận hôm nay.

Cuối cùng, khi tôi gần như mất hết hy vọng tìm đường ra khỏi chỗ này thì con Kickums nghe tiếng hí của một con ngựa khác, chỉ chờ có thế, nó vui mừng hí đáp lại. Liền sau đó, con ngựa kia chạy tới một mình, vểnh tai nhìn chúng tôi chờ đợi qua màn sương mù. Thấy vậy, tôi khích lệ nó bằng một tiếng huýt sáo nhỏ và ân cần, còn con Kickums cố hết sức để dụ nó bằng một tiếng khụt khịt ra chiều hỏi han. Thế nhưng, chẳng có gì thỏa mãn con ngựa đó, trừ sự tự do mới mẻ. Nó nhảy cỡn lên, chạy đi với cái đuôi vểnh cao, hai bàn đạp sắt va nhau loảng xoảng bên dưới. Nghĩ chắc là nó biết đường, và có vẻ như đã tham gia trận chiến, chúng tôi bèn dè dặt đi theo nó. Con ngựa dẫn chúng tôi đến một xóm nhỏ có tên là (sau đó tôi mới biết) West Zuyland hay Zealand gì đấy.

Chắc chắn binh lính của Đức vua mới ở đây thôi vì những bếp lửa vẫn còn cháy. Họ đã được triệu tập để chống lại cuộc tấn công giữa đêm của quân phiến loạn. Tôi tìm được một thanh niên biết tường tận nơi này và nhờ anh ta đưa đến hậu phương của quân phiến loạn. Qua nhiều con đường ngoằn ngoèo, chúng tôi đến một con truông lớn với những dòng nước chảy lờ đờ, mọc lộn xộn những cụm cây lách, diên vĩ vàng, việt quất. Lúc này đã bốn giờ sáng, mặt trời mùa hè nhô lên uể oải, phơi bày trước mắt chúng tôi toàn bộ cảnh tượng kinh hoàng.

Giá mà tôi chưa từng có mặt ở đó! Nó vẫn thường ám ảnh tôi những khi chỉ có một mình, thậm chí ngay lúc này đây. Giá như sự việc thương tâm đó chưa từng xảy ra ở nước Anh! Những người lính bị ném bật ra khỏi giấc mơ về chiến thắng và vinh quang, đang bỏ chạy. Họ mừng vì mình vẫn còn mạng sống và tay chân để mà bỏ chạy. Tất cả đều lấm lem bùn đất, hôi hám, nhớp nháp mồ hôi và máu nhưng không thể dừng lại để lau chùi. Họ hổn hển chửi thề khi bị cản lại bởi gậy gộc hoặc trượt chân trên những vũng máu, hầu như không thể nhảy qua những cái xác bị kéo lê đến chết. Tôi đã tận mắt chứng kiến những cái xác nằm như thế nào. Vài người giống như đang ngủ, với nụ cười bình thản đầy vẻ quý tộc lơ lửng trên đôi môi câm nín. Đôi tay không còn sinh khí vươn lên trên, trắng nhợt như sáp và cứng đờ, chắp lại trong tư thế cầu nguyện cho những người thân ở lại, hoặc tạ ơn Đấng tối cao. Trong đôi mắt to màu xanh của họ chẳng có gì đáng sợ. Số khác là những người nông dân quê mùa, chất phác vốn quen với cày cuốc và lưỡi hái, giờ phải chịu đựng biết bao là đau đớn cho đến lúc linh hồn rời đi; chỉ có Chúa mới biết là đi đâu, nhưng chúng ta có thể phó thác vào lòng nhân từ của Người. Tôi sẽ không kể thêm nữa, và tôi nghĩ cũng sẽ chẳng có ai yêu cầu tôi làm vậy. Chỉ có điều, nếu một người bình thường trông thấy những gì tôi chứng kiến sáng sớm hôm ấy, anh ta (nếu Chúa ban phước cho anh ta một trái tim biết xúc động) chắc chắn sẽ kinh tởm cái khao khát được trở nên vĩ đại trong nhân loại.

Thấy tôi cưỡi ngựa đến, những kẻ chạy trốn rống lên, gọi tôi bằng hơn nửa tá phương ngữ, cố ngăn tôi đừng hành động ngu ngốc. Trận đánh đã kết thúc; chỉ còn lại những kẻ bại trận.

“Này!” Một gã lớn xác hét lên. Đó là một thợ mỏ ở đồi Mendip với vũ khí là một cây cuốc chim. “Không ai đánh đấm gì nữa đâu. Về nhà đi, chàng trai.”

Nghe thế, tôi bèn ghìm ngựa lại, không muốn bị bắn một cách vô duyên, sốt sắng giúp vài người bị thương tội nghiệp đang cố giơ hai cánh tay về phía mình. Tôi dốc hết sức, dù chẳng có kỹ năng gì, và có khuynh hướng khóc theo họ hơn là dỗ họ nín. Một người đáng thương gượng ngồi dậy trong lúc sự sống đang cạn dần, cố nài tôi nhỏ cho anh ta vài giọt rượu. Tôi đang làm vậy thì giọng nói đứt quãng của anh ta lại cất lên, nhờ tôi đến báo cho vợ anh ta (tên gì tôi chẳng rõ) về một cây táo và một đồng ghi nê vàng giấu trong đó để chia cho sáu đứa con. Đúng lúc đó, tôi cảm thấy âm ấm nơi má, rồi có một cú đẩy nhẹ. Nhận ra có một con ngựa đang cúi xuống, tôi vội đứng lên. Hóa ra là con Winnie đang nhìn tôi bằng đôi mắt cầu khẩn, đủ để làm tan chảy một trái tim sắt đá. Nó quay đầu ra sau, rầu rĩ nhìn về phía trận chiến, khẽ hí lên não nùng, rồi quay lại nhìn tôi như thể muốn nói: “Có hiểu không?”, một chân cào cào xuống đất vẻ sốt ruột. Nếu từng có một con ngựa cố hết sức để nói thì đó chính là con Winnie lúc ấy. Tôi đến bên cạnh vỗ về nó, nhưng đấy không phải là điều nó muốn. Rồi tôi dợm nhảy lên yên nó, nhưng hình như nó cũng chẳng muốn vậy, nó bỏ chạy về phía mà lúc nãy nó đã ngoái đầu nhìn, rồi ngoảnh lại, lúc lắc bờm, nài xin tôi đi theo.

Sau khi hỏi người đàn ông đang hấp hối cây táo của anh ta ở đâu, hứa sẽ thêm vào đó một đồng ghi nê nữa cho bầy con sáu đứa của anh ta và phó thác linh hồn anh ta cho Chúa, tôi lại lên ngựa của mình, đi theo con Winnie trước sự vui mừng tột cùng của nó. Nó cất tiếng hí trong trẻo (không một con ngựa nào khác mà tôi biết có thể sánh bằng) như muốn thông báo với chủ nhân của mình rằng nó đang dẫn đến một người đáng tin cậy có thể giúp được cậu.

Một viên đạn thần công được bắn ở tầm thấp bay vụt tới, cày xới mặt đầm lầy, thẳng hướng con Winnie tội nghiệp, nó nhanh như cắt gí mũi xuống khụt khịt. Đó có thể là một thông điệp từ chủ nhân của nó, vì nó cất lên một tiếng động thê lương. May cho con Winnie, một gò đất ướt đón lấy viên đạn, ngay bên dưới mũi nó. Viên đạn cắt tiện một lùm cây cách chân sau của nó chỉ chừng một phân, làm bùn đen bắn lên khắp người con vật, khiến tôi hoảng sợ còn hơn cả con Winnie. Dù tôi là người khá bình tĩnh và mạnh mẽ, nhưng đứng trước một cuộc chiến thực sự, lòng tôi không thể không chùng xuống nao núng.

Người ta sẽ cho tôi là kẻ hèn nhát vì điều đó (nhất là khi tôi đã quyết định rằng cuộc đời này không đáng sống nếu không có tin gì về Lorna), tuy nhiên, tôi không thể không như thế được: đó là những cảm xúc của tôi và tôi viết chúng ra bởi vì chúng tác động lên tôi. Ở thung lũng Doone, tôi đã chiến đấu, ngay cả với súng thần công, bằng lòng quả cảm và sự cuồng nộ; nhưng trong trận đánh này, tôi chẳng thấy đâu là mục đích, chỉ tìm thấy trong mỗi xác chết co quắp một lý do xác đáng để không đánh nhau. Thế nên, tôi tiếp tục cưỡi ngựa đi, tảng lờ mọi thứ xung quanh, tuy vậy vẫn cảm thấy xấu hổ khi người thì sợ hãi co rúm mà ngựa thì bước đi hùng dũng. Tôi đổ lỗi cho con Winnie.

Tất cả chìm trong hỗn loạn và tan tác. Hầu hết những người dân quê (với vũ khí là liềm cắt, cuốc chim hoặc búa thợ rèn) đã trụ suốt hàng giờ, chịu trận những loạt đạn súng hỏa mai cháy sáng lóe (từ những kẻ mà họ không thể tiếp cận bởi con hào), và cả khẩu đại bác chết người được kéo đến bởi ngựa của Giám mục để sát hại chính con chiên của ngài; giờ đây những người này chịu hết nổi, không cam tâm để bị bắn chết, đồng loạt hét vang: “Băng qua hào!” Nhưng những kẻ bên kia chiến tuyến lại thích bắn người không thể bắn trả hơn là đánh giáp lá cà bằng tay không với những người có đôi tay khỏe như gọng kìm và trái tim dũng mãnh.

Cảnh tượng cuối cùng của cuộc chiến thảm khốc này đang diễn ra ngay khi tôi cưỡi ngựa đến. Dưới ánh sáng rờ rỡ của mặt trời đứng bóng, sương mù bảng lảng trôi từ những đỉnh đồi phía tây, giăng khắp các con truông, loang loáng khắp các hào nước, vấn vít quanh những rặng liễu thướt tha, là đà hai bên bờ một màu xám nhạt. Nhưng hỡi ôi! Hai bên bờ, máu đỏ nhuốm đầy, phủ kín cả những thân cây đổ, trong tiếng gào rú, chửi rủa, la hét và mùi của sự chém giết nồng nặc đến buồn nôn, nhấn chìm cả mùi thơm của cỏ khô mới cắt, át cả tiếng hót của lũ chim chiền chiện.

Rồi đoàn kỵ binh của Đức vua phi nước đại rầm rập, bắn tóe bùn đất lên đám dân quê bất lực. Một vài cây giáo yếu ớt chĩa vào họ, họ bắn vào những người cầm giáo, rút kiếm ra và nháo nhào nhảy bừa vào đám đông hỗn loạn. Họ cứ thế chém và bổ lia lịa. Tôi có thể nghe tiếng xoen xoét của những lưỡi hái bên dưới họ, và nhìn thấy ánh sáng lóe của những thanh kiếm vung vùn vụt. Kết cục thế nào, bất kỳ ai cũng có thể hiểu, ngay cả đối với người chưa từng chứng kiến một trận đánh như tôi. Con Winnie rẽ trái, đưa tôi ra khỏi chiến trường khốc liệt (và tôi lấy làm mừng vì điều đó). Tôi không thể giúp được gì cho ai, cũng chẳng thể ngăn được sự tàn sát, chỉ biết những viên đạn đại bác ràn rạt phóng sượt qua đầu.