C
on vật trung thành (tôi bắt đầu yêu thích nó như thể nó là của mình) dừng lại trước một nhà kho đen thấp, ở đây chúng tôi gọi là linhay. Rồi nó bật lên một tiếng chào nhỏ, hy vọng nhận được lời đáp. Không nghe thấy gì, nó bèn bước vào. Tôi (chắc chắn không thể theo kịp vì con Kickums đã kiệt lực rồi) nhảy xuống ngựa, đi theo Winnie. Tôi thấy nó khụt khịt khe khẽ nhưng dạt dào tình cảm bên cơ thể của Tom Faggus. Có lẽ Tom đã chết. Tôi quay đi, không thể nén tiếng khóc bật ra. Nhưng con ngựa không hiểu hoặc không chịu tin điều đó. Nó vươn cổ, rê môi dưới khắp da chủ nhân, nhẹ nhàng như cách một người mẹ làm với đứa con sơ sinh của mình, rồi nó ngước lên nhìn tôi như thể muốn nói: “Ông chủ ổn.”
Thấy thế, tôi lấy hết can đảm chạm vào Tom, điều mà khi còn nhỏ tôi đã rất sợ. Cậu rên lên yếu ớt khi tôi nâng cậu ngồi dậy. Có một vết thương rất nặng (không rõ là do giáo đâm hay đại bác bắn phải) há miệng và sưng lên nơi hông phải; một miếng thịt ở đó hình như đã bị rách toạc và đứt lìa. Tôi băng vết thương lại bằng vải lanh trong mức độ hiểu biết của mình, cốt để cầm máu cho đến khi mời được bác sĩ. Rồi tôi cho cậu uống một ít rượu mạnh và nước, cậu uống ừng ực, ra hiệu muốn thêm. Không biết trong trường hợp này được uống bao nhiêu rượu là đủ, lần này tôi đưa cậu nước chưa pha rượu, nghĩ rằng cậu chẳng còn đầu óc đâu mà nhận ra sự khác biệt. Nhưng tôi đã đánh giá thấp Tom Faggus vì cậu lắc đầu, cau mày nhìn tôi. Ngay cả khi đứng trước cánh cửa địa ngục, cậu vẫn không chịu uống những gì Adam (người đã đưa cái chết đến với trần gian này) uống. Thế là tôi cho cậu một ít rượu mạnh nữa, và cậu ngoan ngoãn uống nó.
Sau đó, có vẻ như cậu ổn hơn, hai má có chút sắc hồng. Cậu nhìn con Winnie, nhận ra nó, muốn đưa bàn tay ướt lạnh vuốt ve mũi con vật, dù tôi nghĩ việc đó không tốt cho cả hai. Với sự hỗ trợ của cánh tay tôi, cậu ngồi thẳng dậy, lờ đờ nhìn quanh như thể đang ở trong đoạn cuối của một giấc mơ kinh hoàng, quá mức chịu đựng của tâm trí cậu. Rồi cậu cố thì thào: “Winnie có bị thương không?”
“Khỏe như trâu ấy.” Tôi đáp.
“Tôi cũng vậy.” Cậu nói. “Cho tôi lên lưng nàng đi, John. Nàng và tôi nguyện chết cùng nhau.”
Tôi bất ngờ trước thuyết định mệnh này (trước đây cậu vẫn thường biểu lộ những dấu hiệu về nó nhưng tôi đã xem nhẹ chúng). Tôi không biết phải làm gì, nếu đặt Tom đang trong tình trạng thế này lên lưng ngựa thì chắc chắn cậu chỉ có nước chảy máu đến chết, dù cậu có thể giữ chặt yên. Nhưng cậu nói với tôi bằng giọng đứt quãng rằng nếu tôi không chịu nghe lời cậu thì cậu sẽ giật tung chỗ băng bó ra, không nhận thêm bất kỳ sự giúp đỡ nào từ tôi nữa.
Trong lúc tôi do dự, một đoàn ngựa phi nước đại phóng ngang qua, giày xéo tan hoang vùng đất trước chúng. Chỉ độc một hàng rào cây bấm ngọn ngăn chúng tôi khỏi những cặp mắt vằn tia máu của chúng. “Nào, đã đến lúc.” Tom nói. “Theo chân họ đi, John. Chỉ có ngồi trên Winnie tôi mới an toàn. Winnie và tôi sẽ chết cùng nhau.”
Nhận thấy quyết tâm mạnh mẽ của cậu, hơn cả bất kỳ nỗi đau chết chóc nào, tôi làm theo những gì đôi mắt thiếu sinh khí của cậu có lúc khẩn nài, có lúc yêu cầu. Sau khi dùng một chiếc khăn quàng cột quanh cổ, vòng qua chỗ hông bị thương của Tom, tôi đưa cậu lên lưng con Winnie, đặt hai bàn chân cậu lên bàn đạp ngựa, cố định chúng bằng một cái nẹp ngang dưới thân con ngựa để cậu không bị hất xuống đất sau mỗi ngã rẽ. Rồi tôi nói: “Khom người về phía trước nào, Tom. Như thế sẽ đỡ đau hơn.” Cậu gần như rạp mình lên cổ con ngựa, theo như tôi biết, điều đó chắc chắn sẽ giúp khép kín vết thương. Ánh sáng trong mắt cậu thay đổi, cơn đau ở trán cũng dịu đi, như thể cậu cảm nhận được sự sẵn sàng trong mỗi bước đi bồn chồn của con ngựa.
“Cầu Chúa che chở cho anh, John. Tôi an toàn rồi.” Cậu thì thào, sợ bắt phổi làm việc quá sức. “Ai đến gần được nàng Winnie của tôi chứ? Một dặm phi nước đại của nàng bằng mười năm sống. Bảo trọng nhé, John Ridd.” Cậu huýt sáo, con ngựa phi vút đi như một cánh nhạn.
“Chà!” Tôi nghĩ khi nhìn con Kickums đang cặm cụi gặm cỏ. “Mình đã làm một việc rất tốt, và phải tạ ơn Chúa vì đã có cơ hội.” Nhưng tính đến việc ra khỏi nơi này bình an vô sự trong khi xung quanh là bọn lưu manh du thủ du thực, chỉ trông cậy vào mỗi một con ngựa kiệt sức, lại còn khó chịu, hằn học, tôi bắt đầu nghĩ mình đã tự biến bản thân thành một kẻ ngốc. Thảo nào Tom nói: “Bảo trọng nhé!” Tôi sẽ ở tù, hoặc có khi bị treo cổ cũng nên. Thế rồi, Lorna sẽ nghĩ gì về tôi?
Trong tâm trạng ủ ê trĩu nặng, tôi quyết định chờ đợi một lúc tại nơi đã bị số phận ném vào, vì con Kickums chắc chắn cần thời gian nghỉ ngơi, và đang tận hưởng nó ngay cả trong lúc tha thẩn gặm cỏ. Hai chân sau của nó duỗi ra, hai chân trước chụm lại bên dưới, mõm gác lên ụ đất do chuột chũi đào lên để lấy năng lượng từ đất mẹ. Thêm vào đó, nhà kho chất đầy phân bò cũ; không chất gây ngủ nào có tác dụng hơn thế. Do vậy, dù bụng đói, tôi quyết định hút một ống tẩu rồi đi ngủ, ít nhất cho đến khi ánh mặt trời bỏng rát khuấy động lũ ruồi.
Chắc tôi đã ngủ được ba tiếng, hoặc bốn, hoặc thậm chí là năm, thì bị lay mạnh còn hơn cả cái lay của bà chủ quán trọ. Tôi giật mình tỉnh dậy, ngáp dài và mở mắt, thấy chừng hai mươi lính bộ binh.
“Nhà kho này đâu phải của các anh.” Tôi lên tiếng sau khi tỉnh ngủ hẳn. “Các anh có việc gì ở đây?”
“Không hay cho anh rồi.” Một người nói. “Việc của chúng tôi là đưa anh đến giá treo cổ.”
“Các anh có muốn biết đường ra không?” Tôi hỏi rất khẽ, như thể mình chẳng phải là một kẻ khoe khoang, khoác lác.
“Chúng tôi sẽ chỉ cho anh đường ra.” Một người nói. “Đường ra khỏi trần gian.” Một người khác nói.
“Chứ không phải đường tới thiên đàng.” Một người khác nữa nói.
“Các anh vui lòng bỏ vũ khí được không?” Tôi nói. “Và thử đấu một trận công bằng với tôi.”
Quả thực tôi chả ưa gì toán lính này, muốn dạy cho chúng một bài học. Với gương mặt màu cà phê và hàm râu quai nón bẩn thỉu, trông chúng có vẻ không nhân đức. Hơn nữa, bọn chúng ăn mặc dị hợm, cách xưng hô còn kỳ quặc hơn. Tuy nhiên, điều khôn ngoan hơn cả là để bọn chúng yên (mà sau này nghiệm lại thì đúng là như thế thật). Cả đám người không ra người, ngợm không ra ngợm đó cười phá lên trước ý tưởng tôi một mình chống lại hai mươi người bọn chúng, nhưng tôi biết nơi này mang lại lợi thế cho mình vì một lượt chỉ có thể hai người tấn công tôi thôi, và tôi chắc chắn mình có thể kham nổi cả hai. Tôi đặt khẩu các bin và hai khẩu súng lục xuống, bọn chúng cũng gác súng vào tường, ầm ĩ tuôn những lời đùa cợt lỗ mãng nhắm vào tôi. Cả đám hùng dũng xắn tay áo khoác lên, nhưng rồi lại bắt đầu do dự.
“Mày trước đi, Bob.” Tôi nghe bọn chúng nói. “Mày to con nhất. Thằng Dick đô vật sẽ vào cùng với mày. Bọn tao yểm trợ cho.”
“Tao sẽ giần nhừ tử thằng cha đó để nó không còn một cái răng ăn cháo luôn.” Gã tên Bob nói. “Nhưng nên nhớ, vì danh dự của đơn vị “Những con cừu của Kirke”, mỗi thằng sẽ đãi tao một ly rượu mạnh.” Dứt lời, gã và một tên nữa hùng hổ xông vào tôi, những tên còn lại hô hào cổ vũ. Nhưng khi Bob xông bừa vào tôi một cách rất vụng, thậm chí chẳng biết đặt tay chỗ nào, tôi túm lấy gáy gã, quẳng gã qua đầu đồng bọn. Tên Dick đô vật túm lấy tôi, những tưởng phô diễn võ nghệ của mình (kỳ thực về lĩnh vực này, gã chỉ biết đâu chừng một nhúm), nhưng hóa ra gã chỉ là tên đô vật hạng nhẹ. Trong chớp mắt, hắn đã bay theo tên Bob.
Cả hai tên đều bị thương, tên nhẹ hơn bị đập đầu vào rầm đỡ của cổng ngoài khiến những tên còn lại không muốn chịu rủi ro tương tự. Thế nên bọn chúng lùi lại, thì thào hội ý. Trước khi bọn chúng ra quyết định, tôi xông vào giữa bọn chúng. Sự đường đột và sức nặng của đòn tấn công từ tôi khiến bọn chúng hoàn toàn bất ngờ. Có lẽ lần đầu tiên trong đời, đơn vị “Những con cừu của Kirke” tương xứng với tên gọi của mình. Như một bầy cừu trước sự tấn công của một con chó, bọn chúng tháo chạy, chen lấn xô đẩy nhau, cái khó duy nhất của tôi là làm sao khỏi ngã nhào lên chúng.
Tôi đã mang theo khẩu các bin vì thích nó, để ở nhà hai khẩu súng lục. Thế nên tôi lấy thêm hai khẩu các bin nữa từ toán lính và nhảy lên con Kickums, lúc này đã có thể phi nước đại trở lại, vẫy tay chào toán lính. Tạ ơn Chúa vì đã thoát được (dù bọn chúng hẳn đã treo ngược tôi lên một cây tần bì bấm đọt mà không cần xét xử - tôi đã nghe bọn chúng nói với nhau và trông thấy cái cây bọn chúng chọn), tôi phi ngựa khá nhanh trở về nhà, trong lòng không khỏi thấp thỏm, lo lắng. Ai cũng có thể nói tôi đã làm xong bổn phận của mình, giải cứu Tom (nếu cậu có thể được giải cứu) khỏi mối nguy hại mà tính ngoan cố và thích thay đổi (hơn là sự nhận thức tội lỗi mang tính tôn giáo sâu sắc mà Annie đã miêu tả về cơn bộc phát của cậu) đã dẫn dắt, hoặc dường như dẫn dắt cậu vào. Mẹ tôi sẽ hãnh diện biết mấy. Ôi chao, lúc này còn ai khác hãnh diện về tôi nữa chứ!
Trong khi nghĩ ngợi miên man và đói bụng ghê gớm, tôi lại sa vào một “đám cừu” khác, chẳng có lối ra. Bọn này, y hệt quân chữ thập đích thực, chặn tôi lại với dáng vẻ nghênh nganh, vênh váo, chẳng biết trời cao đất dày là gì, cùng những thùng rượu táo dàn ra hệt như những khẩu thần công, kề một quán rượu nhỏ.
“Chúng tôi đã giành chiến thắng, chúng tôi muốn tận hưởng nó. Xuống ngựa đi, và hớp một ngụm rượu táo nào, anh bạn phiến loạn to xác.”
“Tôi không phải phiến loạn. Tên tôi là John Ridd. Tôi thuộc phe Đức vua, và tôi muốn ăn sáng.”
Có thể nói, bọn này cực kỳ hiếu khách. Quen với kiểu Ả rập, bọn họ có thể nướng, rán lòng đỏ trứng thành bất kỳ hình dạng nào họ muốn, đẹp mắt và ngon miệng, khiến tôi nghĩ đến em Annie. Sau những rắc rối tưởng chừng không lối thoát, tôi tận hưởng một bữa sáng có một không hai, tìm thấy sự đồng điệu với những gã da nâu này hơn cả mong đợi. Tôi xin phép được đốt ống tẩu. Nghe thế, bọn họ cười phá lên vào mặt tôi vẻ trịch thượng, hỏi rằng liệu tôi có biết lá thuốc từ cây tràng sao mà ra không. Khi tôi buộc phải đáp không, vì không muốn đi sâu vào chủ đề này, nhưng hài lòng với bất kỳ thứ gì màu nâu, họ vỗ lưng tôi, thề chưa từng biết bất kỳ ai giống như tôi. Nói chung, điều này khiến tôi rất hài lòng vì tôi không muốn được xem như mẫu người bình thường. Thế là, chúng tôi hút thuốc lá loại ngon, vì họ không chịu hút thuốc của tôi, dù hỏi về nó rất lịch sự. Trong khi tôi đang bắt đầu hiểu một ít về những gì họ nói với tôi thì “bọn cừu” chết tiệt, cái bọn đã để lộ đuôi nhiều hơn là đầu trong nhà kho với tôi ấy, xuất hiện.
Trước tình huống đó, tôi đoán thể nào cũng sẽ có cãi nhau to.
Và quả là thế thực. Những người ăn sáng và uống bia với tôi quả quyết rằng tôi không phải tù binh, mà là thần dân tốt nhất và trung thành nhất, là người có tấm lòng cao thượng nhất họ từng may mắn được gặp. Trong khi đám lính chỗ nhà kho thề rằng tôi là một kẻ phiến loạn hèn nhát nên sẽ bắt tôi.
Trong khi trận ẩu đả diễn ra, tôi có thể lấy ngựa phi nhanh khỏi đó bất kỳ lúc nào. Chắc hẳn đó là cách xử lý khôn ngoan, nhưng không hiểu sao tôi cảm thấy lẻn đi như thế thì thật hạ tiện. Trong lúc tôi chần chừ, còn cánh lính vẫn mải miết nện vào đầu nhau, một sĩ quan cấp trên phi ngựa đến với thanh kiếm đã tuốt vỏ, mặt phừng phừng lửa giận.
“Cái gì thế này, đàn cừu của ta, đàn cừu của ta!” Ông ta vừa khua kiếm vừa hét lên. “Các anh lãng phí thời gian và tiền bạc của ta thế này đấy hử, khi mà các anh lẽ ra phải bắt được cả trăm tù binh rồi? Mỗi tên đáng giá mười bảng đấy, biết không? Mà gã này là ai đây? Nói mau, ông tướng. Cậu là ai thế, và người mẹ tốt của cậu sẽ trả bao nhiêu để chuộc cậu đây?”
“Mẹ tôi sẽ chẳng trả gì hết.” Tôi đáp, trong khi “bầy cừu” lùi lại, hằm hè nhìn nhau. “Thưa ngài, tôi không phải là quân phiến loạn, mà là một nông dân lương thiện, trung thành.”
“Ha ha. Cậu là nông dân à? Vậy thì hãy giúp cái cây không có quả kia ra quả đi.”
Đại tá Kirke ra hiệu cho đám lính của mình, và trước khi tôi kịp kháng cự, những sợi dây thừng to chắc đã quấn quanh người tôi, mỗi bên ba tên kéo tôi đi một cách thô bạo. Đến lúc này, tôi mới thấy ăn năn vô cùng về hành động khinh suất của mình. Tôi đã quá ham vui, trong khi lẽ ra nên cứ thế phi ngựa thẳng về nhà. Cách đối đãi của toán lính dành cho tôi, sự hiểu biết về thế giới của họ, cộng thêm thuốc lá ngon đã khiến tôi quên béng bổn phận của mình đối với nông trại và bản thân. Tôi cứ ngỡ sau khi ăn uống, chuyện trò vui vẻ, họ sẽ nhẹ nhàng với tôi. Nhưng hỡi ôi, tôi thất vọng biết mấy khi cánh lính từng chén thù chén tạc với tôi kéo dây thừng mạnh gấp đôi so với cánh lính đã đánh nhau với tôi! Tuy nhiên, tôi biết họ chẳng phải thù oán gì với tôi, mà chỉ đơn giản là làm theo lệnh.
Dù thế nào, tôi vẫn ý thức được tình huống nghiêm trọng mình đang lâm vào, và có nguy cơ chuốc lấy hậu quả tệ hại nhất. Nét mặt của đại tá đanh lại, nghiêm nghị như một súc gỗ sồi. Dù đám lính có thể thương hại tôi và nghĩ tôi bị hành quyết bất công, nhưng bọn họ phải tuân lệnh cấp trên, nếu không thì mạng sống của chính bọn họ cũng khó mà bảo toàn. Do vậy, tôi đích thân mở lời với đại tá, một cách nhũn nhặn, xin ông ta đừng làm hoen ố chiến thắng vẻ vang của mình, và liên tục nhắc đi nhắc lại rằng tôi hoàn toàn vô tội, rất trung thành với Đức vua. Nhưng Đại tá Kirke chẳng nói chẳng rằng, ra lệnh đấm vào mồm tôi, thế là sĩ quan Bob, cái gã đã bị tôi quẳng rất mạnh ra khỏi nhà kho, hăng hái tuân lệnh. Tôi đối phó bằng cách nhe răng khiến mấy khớp ngón tay của gã lãnh đủ.
Tôi không thể nói ra phân nửa những suy nghĩ trong đầu mình khi chúng tôi đến chỗ cái cây được chọn và thấy có hai người đã bị treo ở đó, có lẽ cũng vô tội giống tôi, do vậy hoàn toàn vô hại. Đại tá ra lệnh cho tôi nhìn vào họ, nhưng tôi không chịu nổi khi làm thế. Ông ta gọi tôi là đồ hèn nhát, hứa thưởng quần tôi cho bất kỳ tên nào nhổ nước bọt vào mặt tôi. Gã Bob đê tiện, có lẽ điên tiết vì mấy khớp ngón tay bị thương, vênh váo tiến về phía tôi, những tưởng sẽ phục được thù. Dè đâu, rủi cho gã, cánh tay phải của tôi lúc này tự do, thế là tôi không chần chừ nện vào mồm gã một cú trời giáng, khiến gã hết nói năng gì được nữa. Giờ nghĩ lại tôi vẫn đau lòng về việc này, nhưng thanh niên vốn rất dễ tự ái khi bị khiêu khích, và tôi tin rằng Chúa đã tha thứ cho tôi. Chứng kiến cú đòn ác liệt đó, những tên lính còn lại thụt lùi ra sau. Đại tá Kirke, giờ mặt đen lại vì tức giận, ra lệnh bắn tôi và quăng bừa tôi xuống hào. Đám lính lập tức giương súng lên, nhắm vào tôi, đợi lệnh bắn. Lúc đó, tôi mất hết tinh thần vì những sự kiện xảy ra quá nhanh, và chưa sẵn sàng chết. Tôi chỉ có thể nghĩ về Lorna và mẹ, tự hỏi hai người sẽ nói gì về chuyện này. Tôi xòe hai bàn tay ra trước mắt, hy vọng, theo một cách ngớ ngẩn nào đó, có thể che chắn trái tim mình bằng hai khủy tay. Tôi nghe tiếng thở của tất cả mọi người xung quanh, như thể sọ tôi là một cái màn hướng âm, thậm chí còn cảm nhận được cánh lính đặt ngón tay vào cò súng như thế nào. Tôi toát mồ hôi lạnh khắp người khi đại tá, vì muốn kéo dài sự thích thú của mình, bắt đầu dài giọng hô: “B-ắ-n.”
Trong khi ông ta vẫn còn đang phát âm chữ “B”, có tiếng vó ngựa rầm rập tiến lại, cả ngựa và kỵ sĩ lao vào chắn giữa tôi và những họng súng. Tôi thoát chết trong gang tấc. Nhưng một lên lính không dừng kịp: khẩu súng hỏa mai của hắn phát nổ, viên đạn găm vào u vai con ngựa, khiến nó sợ chết khiếp. Nó bắt đầu đá lung tung, và viên đại tá chỉ chực có thế, vội vàng tránh xa con ngựa, toán lính có cớ để hạ súng xuống, vì bọn họ thực ra đâu có muốn bắn tôi.
“Sao thế hả, Đại úy Stickles?” Kirke la lớn, điên tiết hơn vì vừa mới để lộ sự sợ hãi. “Sao dám cản trở trong lúc tôi hành quyết tù nhân?”
“Không, hãy chịu khó lắng nghe một chút, đại tá.” Người bạn già Jeremy của tôi đáp, giọng nói đớt đát của ông là âm thanh ngọt ngào nhất tôi từng nghe từ suốt nhiều ngày qua. “Vì quyền lợi của chính ông, xin hãy lắng nghe.”
Có vẻ như ông sẽ cung cấp nhiều tin tức quan trọng, nên Đại tá Kirke ra hiệu cho đám lính dừng bắn, chờ lệnh mới. Rồi ông ta và Stickles đi ra xa để trao đổi với nhau gì đó tôi không thể nào biết được. Nhưng tôi hình dung tên của Chánh án tối cao Jeffreys được nói ra hơn một lần với sự tôn kính.
“Vậy tôi để vụ này cho ông xử lý, Đại úy Stickles.” Cuối cùng, Kirke lên tiếng để tất cả đều có thể nghe thấy. Dù với tôi đó là tin tốt lành, nụ cười ác hiểm khiến khuôn mặt đen đúa của ông ta trông thật ghê tởm. “Ông chịu trách nhiệm canh giữ tên tù nhân này nhé!”
“Đại tá Kirke, tôi đảm bảo điều đó.” Ngài Stickles đáp, một tay đặt lên ngực, cúi đầu lịch sự. “John Ridd, ngươi là tù nhân của ta. Hãy theo ta, John Ridd.”
Nghe thế, “bầy cừu” dạt ra xa, để mặc tôi với dây thừng quấn quanh người. Hai cánh tay lại được tự do, tôi ngả mũ chào Đại tá Kirke, nhưng ông ta không hạ cố đáp lại cái chào của tôi, vì ngay lúc ấy nhác thấy từ xa một tù nhân có thể đem lại cho ông ta một món tiền.
Tôi siết chặt tay Jeremy Stickles với lòng biết ơn chân thành, ông gần như phát khóc (vì từ khi bị thương, ông trở nên rất yếu đuối) khi đáp: “Ơn đền oán trả, John. Chú em đã cứu mạng ta khỏi bọn Doone; nhờ lòng nhân từ của Chúa, ta đã cứu chú em khỏi những kẻ còn ghê gớm hơn. Hãy để em gái Annie của chú em biết điều này.”