C
on Kickums không giống con Winnie, cũng như đàn ông khác với phụ nữ vậy, thế nên nó không theo vận mệnh của tôi. Nó quý mến tôi, nhưng quý mến không có nghĩa là trung thành. Người kỵ sĩ bị treo cổ là việc của anh ta, không liên quan đến ngựa. Thế là, nhắm thấy tình hình không ổn, thừa lúc chủ nhân vướng vào rắc rối, nó phi một mạch về Plover’s Barrows để tìm kiếm sự thoải mái và yên ổn với yến mạch ê hề trong máng. Tôi cũng chả trách nó được. Con người cũng có khác gì đâu.
Nhưng tôi không thể không cảm thấy bứt rứt không yên với ý nghĩ mẹ sẽ lo lắng biết mấy khi trông thấy con ngựa về nhà một mình. Tôi ước gì nó bị quân lính của Đức vua bắt cho rồi (dù nó đáng giá ít nhất hai mươi bảng) thay vì tìm được đường về nhà, gieo rắc sự lo lắng cho gia đình tôi. Tuy nhiên, vì biết rõ bản tính của nó, tôi không tin con Kickums có thể bị bắt.
Khi chúng tôi lên đường đến Bridgwater, Jeremy Stickles cam đoan với tôi rằng cơ hội duy nhất để tôi bảo toàn mạng sống (nếu tôi không chịu bỏ trốn) là mau chóng có được lệnh thuyên chuyển đến London, dưới danh nghĩa là một kẻ tình nghi, chưa bị phát hiện nổi loạn công khai, và có sự bảo trợ từ ngài Jeffreys. “Vì…” Ông nói. “… chỉ ít giờ nữa thôi, chú em sẽ rơi vào tay ngài Feversham, người đã thắng trận đánh này mà không nhận ra. Ông ta đã quay về giường để dùng bữa sáng một cách thoải mái. Ông ta có thể không độc ác bằng Đại tá Kirke, cũng không tìm thấy sự thích thú trong việc treo cổ người khác; nhưng ông ta nhẫn tâm không thua kém, và chắc chắn sẽ đòi tiền chuộc cao hơn.”
“Bất kể thế nào, tôi cũng không trả gì hết.” Tôi đáp. “Tôi cũng sẽ không bỏ trốn. Một giờ trước, lẽ ra tôi đã bỏ chạy vì mẹ và nông trại rồi. Nhưng giờ thì tôi đã bị xem là tù nhân, tên tôi cũng được biết, nên nếu tôi bỏ trốn, nông trại sẽ bị tước đoạt, mẹ và em gái tôi chắc chắn sẽ chết đói. Hơn nữa, tôi chẳng làm gì xấu cả, tôi chẳng mang theo vũ khí gì chống lại Đức vua, cũng không muốn kẻ thù của ngài thành công. Tôi không thích con trai của một người đàn bà đàng điếm trở thành vua của vương quốc Anh, cũng chẳng xem những tín đồ đạo Gia tô xấu xa hơn chúng tôi. Nếu họ cáo buộc gì tôi, tôi sẵn sàng hầu tòa.“
“Vậy chú em phải đi London thôi. Ở đây chẳng có gì gọi là xét xử cả. Chúng treo cổ những người tốt mà không cần xét xử, giúp họ không phải lo âu, sợ hãi. Hãy nhanh chân lên, John; ta có chút ảnh hưởng đến ngài Churchill, và cần tìm cách để gặp ngài ấy trước khi người ngoài vào cuộc. Ngài Churchill là người biết lý lẽ, chẳng bỏ tù thứ gì ngoài tiền của mình.”
Chúng tôi may mắn tìm được nhà quý tộc này, người nổi tiếng bởi những chiến thắng ở nước ngoài. Ngài đón tiếp chúng tôi rất lịch sự, nhìn tôi chăm chú, vì bản thân ngài cũng là một thanh niên cao lớn, khôi ngô, chỉ có điều không to con bằng tôi, dù ăn uống no đủ hơn rất nhiều. Tôi khá thích khuôn mặt ngài, nhưng cảm tưởng có gì đó không thật. Ngài đặt ra cho tôi vài câu hỏi sắc sảo, nếu là một người thiếu trung thực sẽ khó lòng đáp được. Ngài đứng thật thẳng người để đạt chiều cao tối đa.
Trong cuộc đối chất này, tôi chẳng thấy có gì để mà hãnh diện cả, nhưng vì Công tước Marlborough đang giành chiến thắng oanh liệt, tôi đã cố nhớ về ngài nhiều hơn lương tâm cho phép. Làm sao tôi biết được rằng người đàn ông này sẽ là người vĩ đại nhất vương quốc Anh trong hai mươi lăm năm nữa, và tại sao tôi nên chú ý đến ngài, ngoại trừ vì túi tiền của mình? Tuy nhiên, sau này tôi bị tra hỏi cặn kẽ - tệ hơn rất nhiều so với những gì ngài Churchill trẻ tuổi lúc ấy đã tra hỏi tôi - về ngài Công tước Marlborough, những gì ngài nói với tôi, tôi nói gì, ngài đáp lại thế nào, ngài có mỉm cười như người khác không, hay vén môi lên hệt một cái cúc (như cánh thợ may quê tôi nói về ngài), và tôi có biết là không một người Pháp nào chịu được thái độ khinh thường của ngài không. Tất cả những câu hỏi này khiến tôi lo lắng, kể từ trận chiến Blenheim, đến mức nếu có thợ may nào chịu in chữ lên áo gi lê, tôi sẽ sẵn sàng chi gấp đôi số tiền cho một chiếc áo có câu này: “Tôi chẳng biết gì về Công tước Marlborough cả”.
Ngài Churchill tốt bụng - có thể nói ngài tốt bụng so với những kẻ rất xấu xa xung quanh - đồng ý ban cho tôi lệnh được thuyên chuyển an toàn đến tòa án tối cao ở Westminster, và Stickles, người phải báo cáo ở London, được trao quyền thuyên chuyển tôi, và chịu trách nhiệm về tôi. Cách sắp xếp này hoàn toàn hợp ý tôi, dù thời gian này trong năm mà bỏ mặc Plover’s Barrows như vậy thì thật tệ hại, nhưng có ai được lựa chọn thời điểm các sự việc xảy đến trong đời mình? Nói chung, tôi hoàn toàn hài lòng về chuyến viếng thăm London lần này. Chỉ có điều, giá như mẹ nhận được tin nhắn là chẳng có gì không hay xảy đến với tôi cả, tôi chỉ bị câu thúc trên danh nghĩa mà thôi. Để mẹ khỏi lo lắng, tôi tìm cách gửi thư thông qua Trung sĩ Bloxham. Nghe nói anh ta được điều về trung đoàn của Dumbarton ở Chedzuy, nhưng chẳng biết trung đoàn đó ở đâu mà tìm. Thế là tôi đành phải giao phó lá thư cho một người nói là có biết Bloxham và trả anh ta một si linh tiền công.
Vì sợ bất kỳ sự thay đổi không mong muốn nào, chúng tôi khởi hành đi London ngay. Tôi thực sự tạ ơn Chúa lòng lành đã không để tôi phải chứng kiến những cảnh tượng máu me, giết chóc tàn bạo, khiến toàn bộ vương quốc chìm trong mùi máu sặc sụa và những tiếng la hét đau đớn trong suốt hai tuần sau đó. Tôi đã nghe kể những chuyện khiến gai ốc nổi khắp người, không nuốt nổi thức ăn dù rất ngon suốt nhiều ngày. Nhưng tôi chỉ nói đến thế thôi, không hơn những gì mình đã tận mắt chứng kiến, và trong trường hợp đặc biệt này, chắc chắn đa phần đồng ý với quyết định của tôi. Chúng tôi tiếp tục cưỡi ngựa (vì cuối cùng Stickles đã tìm được cho tôi một con) đến Wells, nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chúng tôi nhập đoàn với nhiều kỵ binh và lính liên lạc, tiếp tục đi đến London - chậm nhưng an toàn - bằng đường Bath và Reading.
Quang cảnh của London làm tim tôi ấm lên với nhiều xúc cảm. Ở đây, người ta có cung cách và lề lối nhanh nhẹn, khả năng tiếp nhận kiến thức nhanh chóng. Trong khi ở Oare, ta phải nói một điều gì đó thật chậm, đến cả ba lần thì nó mới chịu đi vào đầu của người mình muốn hướng tới. Tuy vậy, chúng tôi lanh trí hơn bất kỳ dân giáo xứ nào trong khoảng cách mười lăm dặm.
Nhưng khi tôi lại nhìn thấy dầu của tầng lớp quý tộc, mỡ động vật dùng cho những ngọn đèn London, những cây đuốc ướt sũng đặt ở gần như mọi góc đường, cùng những tấm biển hiệu lớn và đẹp mắt, điều khiến tôi xúc động nhất là ý nghĩ: đây chính là nơi Lorna đang sống, đi lại, hít thở và có lẽ thỉnh thoảng nghĩ về những ngày xưa cũ, hồi em sống tại một ngôi nhà ở nông trại. Dù tôi sẽ không tìm em, cũng như em chẳng gửi tin gì cho tôi trong ngần ấy thời gian rời khỏi nhà tôi, nhưng biết đâu số phận đưa đẩy tôi và em tình cờ gặp nhau, và tôi sẽ biết hiện tại tình cảm em dành cho tôi là như thế nào. Nếu em đã thay đổi, mọi chuyện coi như chấm hết. Tôi không phải loại đàn ông than ngắn thở dài, khóc lóc lụy tình như Romeo; thậm chí không ai đoán được tôi đau buồn ra sao, ngoại trừ Annie.
Nhưng nếu Lorna vẫn còn yêu tôi - điều mà tôi vẫn ấp ủ hy vọng, tôi sẽ không quan tâm gì hết, trừ chính con người em. Địa vị và tước hiệu, sự giàu sang và hào nhoáng, tất cả sẽ để gió cuốn đi, tôi sẽ không vì sợ hãi mà đánh mất tình yêu đích thực của đời mình.
Nghĩ vậy, tôi đánh một giấc ngon lành ngay trong lòng thành phố London, và bị cắn thậm tệ bởi những sinh vật có tên là rệp, bọn chúng thích thú đến phát rồ khi bỗng dưng xuất hiện một nông dân khỏe mạnh ở chỗ của mình, khiến tôi ngượng hết sức khi vác những vết sưng cỡ bằng quả óc chó trên mặt mà đi lại trong những khu vực sang trọng của thành phố vào ngày hôm sau. Vị chủ quán trọ bảo chẳng sao đâu, tôi cứ yên tâm, cùng lắm là hai ngày nữa, một thanh niên Ireland mới toanh sẽ đến nơi, bọn chúng sẽ lập tức buông tha tôi để tấn công anh kia. Tuy nhiên, tôi không chịu đợi, trừ phi ông ta tìm được cho tôi một đống cỏ khô để ngủ, vì côn trùng trong cỏ chỉ gây nhột hay ngứa chút thôi. Ông ta cam đoan với tôi rằng ở London chẳng tìm đâu ra một đống cỏ khô cả. Nghe vậy, tôi đành phải rời chỗ này, và chúng tôi từ biệt với sự tôn trọng lẫn nhau.
Đêm kế tiếp, tôi gặp may hơn, vì được giới thiệu đến chỗ một quả phụ đoan trang, mực thước, xuất thân từ dòng dõi Scotland cao quý. Ngôi nhà đó đã được quét dọn và trang hoàng đến mức chẳng còn lấy một mẩu thức ăn sót lại, cho cả người và côn trùng. Sự thay đổi không khí làm tôi thấy đói nên muốn dùng thêm gì đó sau bữa ăn tối. Tôi chìa ví ra để chứng tỏ mình sẵn sàng trả tiền. Nhưng bà quả phụ MacAlister tỏ vẻ khó chịu ra mặt khi tôi yêu cầu mang thêm thức ăn.
Thế là tôi cũng rời khỏi đó luôn, vì thà ăn cả chính mình còn hơn chẳng có gì bỏ bụng. Tôi bèn trở lại chỗ người bán da lông thú tốt bụng đã trọ lần trước. Ông chào đón tôi về lại căn phòng cũ, với hai si linh thêm vào tiền thuê, trong niềm hớn hở không giấu giếm khi gặp lại tôi. Vì đã cam kết với ngài Stickles sẽ không trốn, tôi chỉ ra ngoài chừng vài giờ nhất định. Tôi chắc chắn sẽ bị triệu hồi, vì mục đích gì thì tôi không biết, nhưng hy vọng là không có gì xấu. Đây là một trở ngại lớn khi tôi buộc phải ở nhà trong thời gian làm việc của tòa án vì điều đó đồng nghĩa với việc cơ hội gặp được Lorna bị hạn chế một cách đáng kể, nếu không muốn nói là bị triệt tiêu hoàn toàn. Vì đây chính là lúc mà những người phong lưu đài các, thuộc thế giới thượng lưu thường xuất hiện trước công chúng để động viên họ. Tiểu thư Lorna không thể là ngoại lệ. Ai cũng biết có vài nơi giải trí đắt đỏ dành cho tầng lớp quý tộc đến thư giãn. Những nơi như vậy, người thuộc tầng lớp thấp hơn cũng có thể đến để làm quen, học hỏi, đương nhiên phải trả một món tiền kha khá. Nhưng hỡi ôi, tiền của tôi đang cạn dần, đặc quyền được gặp gỡ những người cao quý hơn ngày càng trở nên khó khăn khi túi tiền cứ teo lại. Ít ra người ta phải có một chiếc áo khoác tinh tươm, trong túi có chút tiền mới có cơ may gặp gỡ những người mà Chúa đã tạo ra để lấy làm hình mẫu.
Ở lại London đến tuần thứ tư hay thứ năm gì đấy - bởi nhiều nguyên do khác nhau, trong đó có tính tự phụ - thì tôi trông thấy Lorna. Thật chẳng ra làm sao nếu tôi tìm cách theo dõi, mai phục em và nói (hoặc định nói): “Đây là người nông dân trung thành đáng thương của em, một người không xứng đáng với em vì xuất thân hèn kém. Thế nhưng lại là người dám chường mặt ra chặn đường em, cốt để em thương hại. Vì Chúa, hãy tỏ ra thương hại tôi một chút đi, dù em có thể không cảm thấy như thế.” Cách hành xử đó có thể trông dễ thương với một đứa con trai thiếu thốn tình yêu, một thằng bé tập tành làm hiệp sĩ đối với một nàng công chúa; nhưng tôi, John Ridd, không đời nào hạ thấp mình vì tình đến mức như thế.
Tuy nhiên, tôi nghe người buôn bán da lông thú đáng kính nói về Lorna gần như hằng ngày, với sự ca ngợi đầy cường điệu. Người đàn ông lương thiện này là một trong những người nhờ buôn bán uy tín, hành xử tinh tế mà có cơ hội thâm nhập vào cuộc sống của giới quý tộc để lấy số đo và giới thiệu mẫu. Việc này tạo điều kiện cho họ hiểu biết sâu hơn về thế giới thượng lưu. Người buôn bán da lông thú (tên là Ramsack) thường làm áo choàng cho huân tước và áo khoác cho các bà vợ nên biết được những người vĩ đại, giả hoặc thật, cũng như biết đâu là cáo đâu là chồn hôi từ bộ da chồn.
Khi tôi bóng gió về tiểu thư Lorna Dugal, khuôn mặt người đàn ông luống tuổi trở nên hớn hở đến mức tôi biết dòng dõi của em chắc chắn là rất cao sang. Nhưng mặt tôi thì ỉu xìu vì em càng cao sang, tôi càng khó lòng cưới được em.
“Ridd, có lẽ cậu nghĩ vì tiểu thư Lorna Dugal là người Scotland nên dòng dõi của tiểu thư không cao quý bằng quý tộc Anh chúng ta. Nếu quả là cậu nghĩ vậy thì cậu lầm rồi. Tiểu thư không xuất thân từ dòng dõi Scotland bình thường, mà từ dòng dõi Scotland cao quý nhất, là hậu duệ của người Norse. Thân mẫu tiểu thư thuộc dòng dõi cao quý, Lorne, thậm chí còn cao quý hơn cả Argyle vĩ đại, người gần đây đã phạm phải một sai lầm đáng buồn và phải trả giá đắt cho điều đó. Phụ thân của tiểu thư là hậu duệ của Đức vua Dugal, người đã chiến đấu chống lại Alexander Đại đế. Không, không, Ridd; không hề giống như dòng máu pha tạp của cậu, chảy trong huyết quản của phân nửa giới quý tộc hiện đại của chúng ta.”
“Tại sao ông phải để tâm đến chuyện này làm gì, Ramsack?” Tôi đáp. “Cứ để mặc tất cả bọn họ đi trên con đường của mình, chúng ta hãy tôn kính họ, dù họ xuất thân từ dòng dõi này hay dòng dõi khác.”
“Không phải thế, chàng trai của ta. Đó không phải là cách nhìn nhận điều này. Chúng ta tôn kính những người có xuất thân quyền quý, và khinh thường những người có xuất thân tầm thường.”
“Tất cả chúng ta đều có xuất thân tầm thường. Tôi sẽ không kính trọng ai hết, ngoại trừ những gì người đó làm.”
“Nào, Ridd, cậu có thể bị đả kích từ Newgate đến Tyburn và ngược lại, một lần một tuần trong suốt một năm nếu có người nghe thấy đấy. Hãy giữ mồm giữ miệng, chàng trai, nếu không, cậu sẽ không được trọ ở đây nữa, dù tôi rất quý mến cậu, bởi cậu khiến tôi nhớ về cánh đồng cỏ khô. Ôi, tôi không được nhìn thấy cánh đồng cỏ khô nào suốt hai mươi chín năm rồi đấy, John Ridd ạ. Bọn nhậy đáng nguyền rủa giữ tôi ở nhà, suốt những ngày mùa hè.”
“Hãy trải những tấm da của ông trên những đồng cỏ khô.” Tôi mạo muội góp lời. “Lũ nhậy trong nhà không thể chịu được sự có mặt của lũ nhậy ngoài trời.”
“Thế à?” Ông đáp. “Tôi chưa từng nghĩ đến điều đó. Tuy nhiên tôi biết những chuyện như vậy cũng thường xảy ra. John à, giá như cậu biết cách bọn chúng đẻ trứng, cách chúng cong đuôi lên…”
“Làm gì có chuyện đó.” Vì có chút hiểu biết về ấu trùng, tôi đáp giọng quả quyết. “Chúng cong đuôi thế nào được, chúng làm gì có đuôi chứ.” Tuy nhiên, để không sa đà vào chuyện đó, ông Ramsack nhanh chóng thuyết phục tôi tin vào những điều tôi đã biết: dòng dõi cao sang của Lorna, địa vị cao ngất của em ở triều đình, nhan sắc, sự giàu có và quý phái của em. Tất cả những điều này chỉ khiến tôi thở ngắn than dài, ước gì mình mới sinh ra đã được như vậy rồi.
Nhờ ông Ramsack, tôi phát hiện ra rằng tòa Đại pháp quan đã ủy thác nhiệm vụ giám hộ tiểu thư Lorna cho Bá tước Brandir xứ Loch Awe, bác của người mẹ đáng thương của em. Bá tước phu nhân Dugal là người con duy nhất của ngài Huân tước Lorne cuối cùng. Em gái ngài đã lấy Ensor Doone làm chồng, trong khi ngài lại cưới em gái của Bá tước Brandir. Nhà quý tộc này có một ngôi nhà nông thôn gần làng Kensington, cô cháu gái sống cùng ông tại đây khi không theo hầu Hoàng hậu. Cần phải nói thêm là Lorna rất được Hoàng hậu quý mến. Lúc bấy giờ, Đức vua đã bắt đầu tham dự thánh lễ Misa trong nhà nguyện ở Whitehall, chứ không phải ở tu viện Westminster như dân chúng vẫn đồn thổi. Ngài đã ra lệnh mở toang các cánh cửa để tất cả những ai muốn vào phòng chờ đều có thể nhìn thấy hình thức thờ phụng này. Nghe ông Ramsack nói, gần như Chủ nhật nào Lorna cũng đến đó. Đức vua và Hoàng hậu muốn tất cả những người thuộc tầng lớp quý tộc là tín đồ Công giáo đều có mặt ở đó, cốt để phô trương thanh thế. Và người buôn bán da lông thú đáng kính, vốn có ảnh hưởng với những người canh cửa, dễ dàng xin được cho tôi vào phòng chờ vào một ngày Chủ nhật nọ.
Tôi đến nơi, đợi đám rước Hoàng gia đi vào. Nhưng vì vô danh, lại chẳng có địa vị gì, tôi không được phép đứng đằng trước, bên cạnh những người cao sang hơn, mà bị ra lệnh lui vào một góc tối. Người cai quản giáo đường cười ngoác mồm, bảo tôi có thể nhìn thấy qua đầu tất cả những người khác, và không được nghển đầu quá cao. Vốn không dám đứng giữa quá nhiều người địa vị cao sang, xiêm y lượt là sang trọng, tôi đỏ mặt khi bị chú ý bởi một người ăn nói thiếu nhã nhặn như vậy, lẳng lặng lui vào trong góc.
Quý vị có thể đoán tim tôi đập mạnh thế nào khi Đức vua và Hoàng hậu xuất hiện, theo sau là Công tước Norfolk tay cầm kiếm lệnh, cùng nhiều nhà quý tộc khác và những người nổi tiếng. Rồi những cánh cửa của nhà nguyện mở rộng, giúp tôi nhìn thấy một ít bên trong (vì tôi đang đứng tít trong góc mà), nhưng thế cũng đủ để tôi nghĩ nó thật đẹp. Màn trướng bằng lụa đắt tiền, đồ đạc được làm từ kim loại sáng lóa, gỗ được chạm trổ tinh xảo, đánh bóng loáng, những bông hoa được chọn lọc kĩ càng, nến được làm bởi người biết cách lọc gạn mỡ động vật. Điều cuối cùng ấy khiến tôi kinh ngạc hơn tất thảy, vì nến mỡ của chúng tôi không bao giờ sáng được như vậy (quý vị biết mỡ cừu rồi đấy).
Khi Đức vua và Hoàng hậu đi qua bậc cửa, một hồi kèn trumpet trỗi lên, cờ xí vẫy rối rít. Những Hiệp sĩ Garter (bất kể họ là ai) cũng tham dự nghi lễ ngày hôm đó. Có vài vị đi vào, vài vị ở bên ngoài, khiến tôi nghĩ đến sự khác nhau giữa cừu cái và cừu thiến. Cừu cái sẽ đi bất kỳ đâu quý vị dẫn dắt, còn cừu thiến thì khác, chúng có chính kiến mạnh mẽ. Tôi thấy một người giống cừu thiến, đó là Công tước Norfolk. Ông dừng bên ngoài với cây kiếm lệnh hệt một viên chức nhỏ trong giáo hội chuyên chỉ chỗ và giữ trật tự, lăm le cây gậy. Sau khi tất cả đàn ông đã đi vào, người bên này, kẻ bên kia, tùy theo ý thích của mình, một số phụ nữ xiêm y lộng lẫy thuộc đoàn tùy tùng của Hoàng hậu bắt đầu đi vào, nhận được sự chú ý gấp ba lần cánh đàn ông. Quả thực họ cũng đáng nhìn (điều mà theo ý tôi, đàn ông không bao giờ có được, khi họ tô điểm bản thân bằng những phụ kiện vô giá trị), nhưng không ai bằng Lorna xinh đẹp của tôi. Em đi vào khiêm nhường và bẽn lẽn, mắt nhìn xuống đất, vì biết sự thô lỗ của những kẻ sang trọng đang có mặt và số tiền lớn mà em được định giá. Chiếc đầm em mặc trắng tinh khôi đến mức không gì có thể trắng hơn thế, rất duyên dáng, bình dị, không có một món đồ trang sức nào, vì chính bản thân em đã tô điểm cho nó rồi. Dáng đi của em, cách bàn tay em - trắng muốt tựa một đóa bạch nhung - chạm vào váy (hơn là xách nó lên), cùng với chiếc cổ mềm mại, suối tóc mượt mà, cho tôi thấy rằng mình không thể nhìn lầm dù ở cách xa một trăm mét. Đó chính là Lorna. Lorna Doone - tình yêu đầu đời của tôi. Trước đây, em xấu hổ vì nói ra tên mình, nhưng bây giờ tiểu thư Lorna Dugal quá hoàn hảo, cao xa so với tình cảm đáng thương của tôi. Tất cả tâm hồn và trái tim tôi đều dồn hết vào em. Liệu em sẽ nhìn thấy tôi, hay cứ thế đi qua? Liệu trực giác có tồn tại trong tình yêu của chúng tôi không?
Nhờ một cơ may lạ lùng nào đó, em nhìn thấy tôi. Hay do định mệnh? Trong khi Lorna mải miết dán mắt lên nền đá cẩm thạch để tránh sức nặng của những ánh nhìn trâng tráo, đi từng bước e dè, ai đó (có lẽ cố tình) giẫm lên gấu chiếc đầm trắng tinh của em. Nhờ vào sự nhanh nhạy được trui rèn trong những năm tháng thường xuyên đương đầu với hiểm nguy, em ngước nhìn lên, và hai luồng mắt gặp nhau.
Tôi nhìn em, chằm chằm, mong mỏi, có chút trách móc, và kiêu hãnh hơn là xấu hổ, em cúi chào lịch sự theo cách mà tôi vốn vô cùng căm ghét, nhưng ở Lorna cử chỉ đó thật dễ thương, duyên dáng. Hai má em đỏ lên gần bằng hai má tôi khi em tiếp tục đi để hành lễ. Đôi mắt lóng lánh là vì một món nợ nước mắt chưa trả.
Nói chung là tôi hài lòng. Lorna đã trông thấy tôi, thậm chí không “phớt lờ” tôi (theo lối nói của giới thượng lưu lúc bấy giờ). Cách nói thấp hèn này xuất hiện bởi tính bần tiện, ngu ngốc của họ hay ra đời khi cần dùng với một người không tiền bạc, tôi không biết và cũng chẳng quan tâm. Tôi chỉ biết một điều là bất kỳ kẻ nào “phớt lờ” người khác thì nên bị phanh thây không tha.
Tất cả những ý nghĩ kiêu ngạo này dấy lên trong tôi khi dáng điệu tha thướt của Lorna biến mất vào bên trong, không còn thấy đâu nữa. Rồi tôi cảm thấy mình thật khiếm nhã, sao lại có thể nghĩ được những ý nghĩ nặng nề như thế?
Tuy vậy, tôi tiếp tục đợi như tính tôi vốn thế. Vì bị đánh trong khi chạy trốn còn tệ hơn gấp mười lần đối diện với nó, đón nhận nó và chấm dứt mọi chuyện cho xong.
Trong lúc tôi suy nghĩ vơ vẩn, một người đàn ông gầy ốm với chòm râu quai nón vàng (quá gầy so với một tín đồ Công giáo ngoan đạo, vì tôn giáo này luôn vỗ béo người ta), đến thẳng chỗ tôi, đi ngang giống hệt một con cua cái.
“Đây không phải là điều tôi thích.” Tôi nói. “Nếu anh có gì muốn nói, cứ nói thẳng đi, trong lúc họ đang làm ồn bên trong.”
Người đàn ông đó không nói gì, cứ thở dài thườn thượt. Tôi không có đức tin thực sự nên anh ta cầm bàn tay tội lỗi của tôi để cứu vớt tôi. Với đôi mắt ậng nước mộ đạo, anh ta ngước lên nhìn tôi, nháy một bên mắt. Mặc dù da lòng bàn tay tôi khá dày, tôi vẫn cảm nhận được ngụ ý của anh ta. Tôi cho anh ta ít tiền, người đàn ông đó hớn hở bỏ đi, vì tiêu chuẩn của đồng tiền dị giáo thanh khiết hơn so với của Công giáo.
Tôi vội mở lá thư ra đọc. Lá thư hệt một dải cầu vồng rực rỡ sáng lên trong góc tối nơi tôi đang đứng.
Lorna dành cho tôi những lời lẽ như thể tôi thuộc giai tầng ngang hàng với em, hay thậm chí cao hơn em. Cách em đánh dấu chấm trên những chữ “i” và đánh dấu ngang ở những chữ “t” tỉ mỉ từng li, từng tí, như thể tôi bét ra cũng là một hiệu trưởng. Tất cả được viết bằng bút chì, nhưng rất rõ ràng. Lá thư này rồi đây sẽ nằm trong hòm của tôi, cùng với chiếc nhẫn và vài thứ khác. Trong thư, Lorna bảo tôi khi nào đó hãy đến gặp em.
Tôi cứ thế chạy, không thể dừng lại. Thậm chí lúc đó, nếu nhìn thấy em, niềm vui trong tưởng tượng của tôi có khi còn bị làm hỏng mất. Nhưng trí não tôi bất ổn đến mức tôi phải làm một điều gì đấy. Vì vậy, tôi chạy hết tốc lực đến sông Thames, vẫn để nguyên bộ quần áo đẹp nhất trên người (mặc vì Lorna), nhảy ùm xuống dòng nước lững lờ, bơi đến cầu London, và ăn một bữa trưa thịnh soạn sau đó.