M
ùa thu trước, trong khi tôi vẫn còn đóng đô ở London, có chút rắc rối xảy đến tại nhà chúng tôi. Những người lính chạy trốn khỏi quân đội của Đức vua Monmouth (trong khi chính ngài cũng đã bỏ trốn một cách hèn hạ và bần tiện), vì không thể giành được suất lên tàu rời khỏi bờ biển gần Watersmouth, đã quay trở vào rừng Exmoor, tin rằng mình đã được trú ẩn an toàn và tìm thấy niềm an ủi ở các thường dân. Trong suốt một thời gian dài, họ không thất vọng, mà họ có thất vọng thì cũng chẳng phải lỗi của chúng tôi. Trong số họ có Thiếu tá Wade, một người lanh lợi, thiện ý nhưng có khuynh hướng mất hết dũng khí khi thử thách kéo dài, dù sẵn sàng trong chốc lát. Ngài John Whichehalse (không phải ngài Nam tước) và Linh mục Powell bắt anh ta (hai hay ba tháng trước khi tôi trở về) trong nhà trại Farley, gần Bredon. Anh ta đã nhiều lần đến nhà chúng tôi, Lizzie rất quý anh ta. Tôi biết rằng nếu lúc đó tôi ở nhà, anh ta sẽ không bị bắt dễ dàng như vậy.
John Birch, người nông dân đã cho anh ta chỗ trú ngụ, sợ bị trừng phạt đến mức tự vẫn bằng cách treo cổ chỉ sau đó vài ngày, thậm chí trước cả khi bản thân bị bắt. Linh mục Powell, bị Lizzie liệt vào hạng bần tiện, độc ác và hèn nhát, đã bố trí lính có vũ khí tấn công kẻ chạy trốn bất lực, cướp đi danh tiếng hiếu khách của vùng đất chúng tôi. Tuy nhiên, nhờ vào bản báo cáo tốt đẹp của Trung sĩ Bloxham và sự thú nhận của Wade, mẹ tôi thoát được án phạt.
Người ta chắc sẽ nghĩ vùng tôi khó có thể bị đe dọa hay bị trừng phạt nặng nề, vì lòng tử tế và bản tính thương người; nhưng lại bị bỏ mặc tự thân chống lại sự bạo ngược và cướp bóc. Chúng tôi đã chịu đựng tình trạng bất an, lộn xộn từ lâu, như một sự trừng phạt khôn ngoan và lành mạnh; hoàn toàn hài lòng với một vài sự việc của riêng mình, không bị ai can thiệp vào. Nhưng một người để mặc vợ con mình cho người khác mặc sức đùa giỡn thì liệu có dám xem việc đó là của riêng mình không?
Mọi người lũ lượt kéo tới quanh tôi tại lò rèn, tửu quán Brendon và cả nghĩa trang nhà thờ. Tất thảy đều thống nhất tôi phải làm người đứng đầu để xử lý sự vụ này. Tôi bảo họ đến chỗ thẩm phán, nhưng họ cho hay việc này đã được làm quá thường xuyên rồi mà chẳng nên cơm cháo gì. Rồi tôi bảo họ rằng tôi không có năng lực chỉ huy một lực lượng vũ trang, dù tôi có thể tìm thấy những sai lầm của một lực lượng không thành công. Nhưng họ không chịu lắng nghe tôi.
Họ cứ khăng khăng: “Hãy cố lãnh đạo chúng tôi; chúng tôi sẽ cố không bỏ chạy.”
Tôi nhận thấy điều này cũng hợp lý, vả lại, tôi cũng bức xúc về vụ việc đau lòng của nhà chị Margery. Tôi biết chị tại trường đạo, trước cả khi tôi đi học tại Tiverton. Thời đó, tôi thường nghĩ sau này nhất định sẽ làm người yêu của chị dù kém chị ba tuổi. Thế nhưng, tôi lại thấy khó xử vì gia tộc Doone đã rất tử tế đối với nông trại của tôi, mẹ tôi và tất cả chúng tôi, trong thời gian tôi ở London. Bây giờ mà tấn công chúng thì há chẳng phải thật đê tiện và hèn hạ sao?
Tuy nhiên, không ai chịu đứng ra đảm nhận nhiệm vụ này, nên cuối cùng tôi cũng đồng ý. Nếu gia tộc Doone không chịu sửa sai bằng việc trao trả chị Margery, cũng như giao nộp kẻ đã sát hại đứa bé, tôi sẽ lãnh đạo cuộc đấu tranh và làm hết sức mình để đánh bại chúng. Hết thảy cánh đàn ông hài lòng với điều này vì từ kinh nghiệm của mình, họ hoàn toàn chắc chắn rằng bọn cướp ngạo mạn kia sẽ bắn bất kỳ người nào dám đến gần chúng với lời đề nghị đó.
Một vấn đề nan giải nảy sinh - ai sẽ đánh liều thực hiện việc thương lượng khó nhằn ấy đây? Tôi đợi những người còn lại tự nguyện; vì không ai sẵn sàng, gánh nặng này nghiễm nhiên đổ lên vai tôi. Thế là tôi đành nhận nhiệm vụ.
Ba giờ chiều hôm ấy, tôi xuất hiện với chiếc khăn tay trắng của Lizzie cột trên đầu cây gậy đậu tây ngay lối vào sào huyệt của bọn cướp. Vì không biết chuyện gì sẽ xảy ra, tôi cẩn trọng nhét một cuốn Kinh thánh ngay ngực và một cuốn nữa nơi cột sống, phòng khi phải bỏ chạy khiến bọn chúng bắn theo. Mẹ tôi bảo Lời của Chúa sẽ ngăn được một viên đạn hai phân, với ba ao-xơ thuốc súng. Bấy giờ tôi không mang theo vũ khí gì cả, ngoài sức mạnh tâm linh, bởi sợ bị hiểu lầm. Tôi không thể nghĩ rằng có người thuộc dòng dõi danh giá nào lại lợi dụng một kẻ không mang vũ khí đến chỗ họ dưới vỏ bọc hòa bình.
Kết luận này của tôi là đúng, ít nhất trong một khoảng thời gian, vì hai tên Doone lịch sự xuất hiện, sau khi nghe tôi trình bày mục đích, chúng đồng ý vào mời Thủ lĩnh với điều kiện tôi phải đứng chờ tại chỗ, không tò mò, tọc mạch. Đương nhiên tôi đồng ý ngay tắp lự, không muốn dòm ngó gì thêm sau khi đã biết tường tận đường đi nước bước nơi này. Vì vậy, tôi điềm tĩnh đứng đợi, thọc một tay vào túi quần, tìm thấy trong đó một mẫu ngũ cốc mang ra chợ để chào hàng đã ngả nâu từ lúc nào.
Một lúc sau, hai tên lính gác quay trở ra, với một mẩu tin cụt lủn rằng đợi hút xong ống tẩu, Thủ lĩnh Carver sẽ ra tiếp chuyện. Thế là tôi chờ tiếp. Trong lúc chờ đợi, chúng tôi nói về những dấu hiệu của mùa táo đang tới, trời đã đổ mưa vào thứ Tư tuần trước, và điều quan trọng là cây anh thảo hoa vàng - loài hoa mà chúng tôi đều đồng ý là đẹp nhất trong tất cả các loài hoa mùa xuân - sẽ không nở nhiều. Trong suốt thời gian đó, tôi tự hỏi có bao nhiêu chuyện đen tối và chết chóc mà hai thanh niên này đã phạm phải, kể từ Giáng sinh năm ngoái.
Rốt cuộc, tiếng bước chân nặng nề, ngạo mạn cũng vang lên dọc theo mái đá, rồi tên Carver Doone hộ pháp xuất hiện, nhìn tôi khinh khỉnh. Không một lời nói miệt thị hoặc sỉ nhục lộ liễu, nhưng bộ dạng của gã nói lên điều đó.
“Cậu muốn gì đấy, chàng trai?” Gã hỏi, như thể chưa từng thấy tôi bao giờ.
Dù ghét cay ghét đắng mỗi lần thấy bản mặt gã, tôi dằn lòng bảo gã là tôi đến đây vì tốt cho gã và đồng bọn đáng kính của gã, hơn là cho bản thân tôi. Người dân chúng tôi gần đây rất phẫn nộ với hành động của một số thanh niên. Có thể việc này không thuộc trách nhiệm của gã, chúng tôi cũng không buộc tội gã về chuyện đó, nhưng tôi muốn gã hiểu rằng một chuyện bất nhân và đốn mạt đã xảy ra, nó nằm ngoài sức chịu đựng của chúng tôi. Nếu gã đồng ý sửa sai hết sức có thể bằng việc trao trả người phụ nữ đáng thương kia và giao nộp tên cục súc đáng kinh tởm đã giết hại đứa bé vô tội, chúng tôi sẽ không truy cứu thêm, mọi việc sẽ tiếp tục như thường lệ. Nói xong, tôi đau lòng khi nhìn thấy nụ cười khinh khi trên khuôn mặt vàng bủng của Carver. Gã cúi đầu trước tôi trong bộ dạng lịch sự mai mỉa, đáp:
“Thưa ngài John, những danh hiệu mới đã làm biến đổi cái đầu đáng thương của ngài ghê quá nhỉ? Gia tộc Doone không có thói quen từ bỏ bất kỳ thứ gì thuộc về mình, từ bỏ người thân lại càng không bao giờ. Tính xấc láo trong yêu cầu của ngài gần như vượt hẳn sự bội ơn. Nếu ở Exmoor có một người bạc đãi chúng tôi, bắt cóc con gái của chúng tôi, giết hại nửa tá thanh niên của chúng tôi, thì tên khốn bạo tàn đó chính là ngài đấy, ngài John ạ. Vậy mà, sau tất cả chuyện này, chúng tôi đã cư xử như thế nào chứ? Chúng tôi không hề đụng một móng tay vào nông trại của ngài, chúng tôi không mang phụ nữ trong nhà ngài đi, chúng tôi thậm chí còn để ngài bắt đi Nữ hoàng của chúng tôi, và để ngài ra khỏi nhà, đi tìm người cậu là một tên cướp đường và trở về, mang theo một tước hiệu. Giờ thì ngài đáp đền chúng tôi thế nào? Ngài kích động sự phẫn nộ của đám dân quê chỉ vì vài ba thanh niên chúng tôi muốn đùa giỡn chút xíu, lại còn đến đây đòi hỏi xấc xược. Hừ, ngài đúng là một kẻ tráo trở, ăn cháo đá bát!”
Khi gã quay người bỏ đi, tỏ vẻ thất vọng, lắc đầu về cách ăn ở tệ bạc của tôi, tôi bỗng thấy hoang mang (từ trước đến giờ tôi chưa từng chắc chắn về sự tốt đẹp của bản thân, ngay cả khi nhận những lời khen tặng của người khác). Thêm vào đó, cách suy nghĩ của gã đối với sự việc quá khác so với tôi, đến mức tôi sợ rằng mình là một kẻ tráo trở thật. Tôi bắt đầu tự vấn bản thân liệu bản cáo trạng chống lại John Ridd vừa rồi có đúng không. Theo như tôi biết, có vài điểm trong đó hoàn toàn vô lý (bất kể tôi tự chỉ trích bản thân nhiều như thế nào). Chẳng hạn như vụ tôi âm thầm đưa Lorna ra khỏi thung lũng Doone trong cơn bão tuyết để cứu tình yêu của tôi khỏi bị bỏ đói đến chết. Tuy nhiên tôi quá thiếu kinh nghiệm trong việc bị người khác buộc tội đến mức những lời lẽ cay nghiệt của Carver găm vào tôi hệt rau bina được gieo bằng cách cào. Thế nên tôi đáp:
“Đúng là tôi chịu ơn anh vì đã không làm gì nhà tôi nhân lúc tôi đi vắng; việc tôi đến đây nói chuyện phải quấy với anh chứng tỏ điều đó. Tôi đưa Nữ hoàng đi là bởi các anh bỏ đói cô ấy. Các anh đã giết mẹ và em trai cô ấy, rồi bắt cô ấy mang về. Tôi đến đây không phải để kể lể chuyện này, cũng không phải nhắc lại chuyện các anh đã sát hại cha tôi. Sự cân bằng tồn tại giữa chúng ta như thế nào, Chúa biết rõ hơn anh và tôi, kẻ vô thần ti tiện, Carver Doone ạ.”
Tôi đã hơi lớn tiếng và toan mở miệng xin lỗi. Nhưng Carver Doone nhìn tôi với vẻ kẻ cả, không hề nao núng.
“Tôi đã cho ngài lựa chọn, John Ridd.” Gã cất tiếng ngạo mạn, khiến tôi thấy thất thế. “Tôi luôn muốn làm hết sức mình với những kẻ tồi tệ nhất đến gần tôi. Trong tất cả những kẻ tồi tệ tôi từng gặp, ngài là kẻ tồi tệ bậc nhất, ngài John à, và bất lương nhất.”
Sau những năm tháng lam lũ, cực nhọc để trả lương cho những người làm công, hôm nay tôi lại bị buộc tội như thế này đây. Tôi bàng hoàng đến mức đứng sững, hai chân dạng ra, chuẩn bị đương đầu với một cơn động đất. Vẻ khinh miệt khi gã nói “Ngài John” khiến tim tôi đau nhói, nhắc tôi nhớ về sự bé mọn, tầm thường của mình. Nhưng nhận thấy chả ích gì khi nói lý với gã, tôi cố hết sức điềm tĩnh nhìn vào gã, nói bằng giọng ôn tồn: “Chào anh, Carver Doone, lần này, ngày thanh toán của chúng ta đến gần rồi.”
“Đồ ngu, đến rồi đấy!” Gã hét lên, nhảy vào hốc đá bên lối ra. “Bắn!”
Nếu không nhờ vào phản ứng nhanh nhạy học được từ nhiều trận đấu vật, thủ đoạn hèn hạ đó đã kết liễu tôi rồi. Khi từ “bắn” vừa dứt khỏi miệng gã, tôi lập tức nhảy vọt lên đằng sau một cột đá. Cú nhảy quá nhanh vì bị thôi thúc bởi sự ham sống mãnh liệt đến mức mấy tên cướp đã chĩa súng vào tôi, sẵn sàng chờ lệnh không kịp lên cò. Ngay sau đó, một loạt đạn rống lên.
Tôi cứ thế quay người bỏ chạy hết tốc lực, tránh xa những kẻ khốn nạn. May cho tôi, bọn chúng không bắn thêm loạt đạn nào nữa. Nhờ trời độ, tôi thoát chết; nhưng lòng không khỏi trĩu nặng trước sự xảo trá của con người.
Không chần chừ thêm nữa, tôi đồng ý lãnh đạo những người lương thiện đang sục sôi quyết tâm trừng phạt, nhổ tận gốc những kẻ vô pháp, vì giờ đây sức chịu đựng của họ đã bị đẩy quá giới hạn. Tuy nhiên, tôi đưa ra một điều kiện, nếu có thể thì chừa Quân sư ra. Chẳng phải vì ông ta ít khốn nạn hơn đồng bọn, mà là vì ông ta có vẻ ít tàn bạo hơn, và nhất là đã từng đối tốt với Annie. Tôi không dễ thuyết phục được họ, bởi so với những kẻ còn lại, Quân sư bị ghét nhất, vì tình yêu luật pháp và lý lẽ.
Chúng tôi tập trung lực lượng với vũ khí là giáo và súng hỏa mai. Những người vợ cũng có mặt để tiễn chồng ra chiến trường. Họ mang cả bầy con cái nheo nhóc theo cùng, cứ gọi là nhặng xị hết cả lên, nào là ôm, nào là chạy theo mấy đứa bé, khiến sân trại nhà chúng tôi nhìn cứ như sân chơi dành cho trẻ mầm non hơn là nơi tập trung quân chuẩn bị chiến đấu.
Cả tôi cũng liên tục chạy tới chạy lui nô giỡn với lũ trẻ, vì nếu tôi yêu bất kỳ điều gì trên thế gian này thì đầu tiên phải kể đến là trẻ con. Chúng khiến tim ta vừa ấm áp vừa dịu mát khi nghĩ về thời thơ bé của mình, chúng ta đã hy vọng mình sẽ ra sao, và đã có bao nhiêu điều xảy ra. Những động cơ của chúng ta đều chuyển động nơi những sinh vật nhỏ bé không hề biết mục đích hay mục tiêu của mình là gì ấy, điều đó dẫn dắt chúng ta về nhà, xoa dịu chúng ta. Vì chào đời hay tạ thế đều diễn ra ở nhà; sự bắt đầu hay kết thúc đều tùy thuộc vào Chúa.
Tuy nhiên, tôi phải thú nhận rằng trẻ con đôi khi cũng nhiễu sự lắm. Chúng không bao giờ chán tôi, nhưng tôi thì ngán. Nào thì nói líu lo rát cả tai, rồi kéo tóc, ngồi lên cổ (thậm chí cả hai đứa một lượt), thúc tôi phải nhảy cật lực. Tôi cam đoan với quý vị là đôi lúc chúng quá hiếp đáp và bạo ngược với tôi, đến mức tôi cảm thấy chúng gần giống như bọn Doone vậy.
Dẫu vậy, chơi với bọn trẻ cũng có chút ích lợi, vì mẹ chúng hài lòng với sự chịu khó của “con ngựa khổng lồ” (tên bọn trẻ đặt cho tôi) nên họ trao cho tôi toàn quyền đối với các đức ông chồng. Hơn nữa, họ còn ra sức động viên những người bà con của mình gia nhập vào đội quân nhỏ của chúng tôi. Thế là quân số của chúng tôi tăng lên bởi nhiều tiểu điền chủ đến từ Barnstaple và Tiverton, trang bị gươm đao, súng các bin ngắn, mang một diện mạo oai hùng.
Tom Faggus cũng hào hứng tham gia vì lúc này vết thương đã lành hẳn, thỉnh thoảng trái gió trở trời mới đau nhức chút đỉnh. Cậu làm chỉ huy phó của tôi. Lẽ ra tôi vui lòng nhường vai trò thủ lĩnh cho cậu vì cậu giỏi mưu chước hơn, nhưng cậu khước từ vì lấy cớ rằng tôi biết nhiều về địa thế của kẻ thù hơn cậu; bên cạnh đó, nếu tôi bị bắt làm tù binh thì có thể Đức vua sẽ ra tay cứu. Ông trẻ Reuben cũng đến để tư vấn và lên tinh thần cho chúng tôi, mang theo một đoàn thủ kho cường tráng từ Dulverton. Ông chưa bao giờ tha thứ cho tôi vì trước đây đã khiến ông cảm thấy bị xúc phạm, và dù ông giữ im lặng trong suốt trận tấn công lần trước dưới sự chỉ huy của Đại úy Stickles - vì mỏ vàng bí mật của ông - nhưng bây giờ ông có thể nói cho hả những cảm xúc của mình. Sau khi tin chắc vào giá trị của những mỏ vàng, ông và cộng sự đã xin Đức vua cấp phép khai thác khoáng chất, rồi trả một số tiền phạt lớn và tiền thuê mỏ hằng năm. Do vậy, họ không còn lý do gì để giữ bí mật nữa, cũng chẳng sợ những kẻ vô pháp vì đã gia tăng lực lượng để có thể ngang ngửa với bọn chúng. Dù không phải là người chịu để những thợ mỏ của mình nhàn rỗi, ông trẻ Ben hứa rằng khi nào chúng tôi thống nhất giờ tấn công vào thung lũng, hai mươi người do Simon Carfax dẫn đầu sẽ đến hỗ trợ chúng tôi, mang theo những khẩu súng mà họ luôn giữ bên mình để bảo vệ vàng.
Trong lúc ngồi hút tẩu và uống rượu sơ náp pha nước bên lò sưởi, chúng tôi - ông trẻ Ben, Tom Faggus và tôi - đã nghĩ ra một mưu kế, phải nói rằng chính nó góp phần làm nên chiến thắng. Chẳng thể phân định rõ ràng ai là người nghĩ ra kế đó trước tiên, ông trẻ Ben, Tom Faggus hay là tôi. Nhưng dân tình - luôn phán xét theo danh tiếng - quả quyết rằng một trận chiến hoành tráng như thế chỉ có thể được chỉ đạo bởi một tên cướp đường, và thế là Tom Faggus ôm trọn niềm vinh dự.
Tôi sẽ kể ra đây mưu kế xuất chúng này, nhưng xin quý vị chớ nghĩ là tôi muốn tranh công với Faggus. Ai cũng biết gia tộc Doone mê tiền, rượu mạnh cùng những thứ khác, và hơn cả là vàng, nhất là khi nó nguyên chất. Vì vậy, tất cả chúng tôi thống nhất sẽ dùng những thứ đó để làm mồi nhử. Bọn chúng coi thường chúng tôi đến vậy vì vũ khí thô sơ, chuẩn bị sơ sài, lại còn từ chối nhận lính tiếp viện của Đức vua và lực lượng dân quân của hai hạt. Lẽ nào chúng lại chịu giao nộp pháo đài của mình cho một đám thợ cày? Về phần mình, chúng tôi cảm thấy một khi quân đội còn không thắng nổi thì đám dân quê thiếu thốn vũ khí sẽ cầm chắc thất bại, nếu không có khả năng tiên lượng tình hình và phối hợp nhịp nhàng. Lần trước, lực lượng dân quân lẽ ra đã đủ nếu họ chiến đấu với kẻ thù thay vì quay sang đánh nhau. Chúng tôi nhất định rút kinh nghiệm việc này. Mình đã thất bại một lần vì quá tự tin, lẽ nào lần này không thể khiến kẻ thù thất bại vì chính nguyên nhân đó?
Kế hoạch của chúng tôi là lừa một số tên cướp ra khỏi nhà, dụ chúng ngã về phe chúng tôi lúc nào không hay biết. Chúng tôi loan tin rằng một số vàng lớn sẽ được tập hợp tại mỏ của Wizard’s Slough. Khi chắc chắn tin đồn này đã tới tai bọn chúng (nhờ vài phụ nữ sốt sắng tình nguyện tới lui nghe ngóng), chúng tôi phái Đội trưởng Simon Carfax, cha của Gwenny, đến tận nơi, yêu cầu được nói chuyện với Quân sư vào ban đêm và hoàn hoàn bí mật. Rồi ông vờ than phiền về những chủ nhân của các hầm mỏ; phần vì oán giận, phần vì cũng muốn kiếm chác chút đỉnh, ông tiết lộ với Quân sư là vào đêm thứ Sáu, sẽ có một số lượng vàng lớn được chuyển đi luyện. Ông đòi một phần tư, còn chúng hưởng phần còn lại. Vì đoàn hộ tống băng qua các truông dưới lệnh của ông rất khỏe và được trang bị vũ khí tận răng, gia tộc Doone phải đưa đến ít nhất hai mươi người nếu có thể. Tại một nơi đã được thống nhất và phù hợp cho việc mai phục, đích thân ông sẽ ra lệnh dừng lại, tìm cách rót một ít nước vào thuốc nhồi súng của bọn Doone trong bóng tối.
Chúng tôi gặp chút khó khăn và tốn kha khá tiền để thuyết phục người đàn ông Cornwall cường tráng này tham gia vào mưu kế ấy. Nếu không vì muốn đền ơn tôi và bù đắp cho những việc làm sai trái của con gái mình, có lẽ ông đã không đồng ý. Tuy nhiên, vì ông là người phù hợp cho công việc này bởi tính điềm tĩnh và lòng quả cảm, đồng thời cũng là người phụ trách mỏ, tôi nài ép ông cho đến khi ông chịu nói tất cả những lời nói dối chúng tôi yêu cầu. Ông đã thực hiện trọng trách của mình rất tốt, bởi san bằng sào huyệt của bọn cướp cũng là điều ông muốn làm.