V
ì quyết định tấn công vào ban đêm (bởi không thể mong đợi cái lực lượng đã vô tổ chức lại còn có đến ba phần tư chưa từng trúng đạn bao giờ xông thẳng vào những họng súng hỏa mai), chúng tôi không quan tâm nhiều đến việc rèn luyện lực lượng của mình mà chỉ dạy họ cách cầm súng hỏa mai (chúng tôi chỉ có thể cung cấp súng cho những ai có đôi mắt tinh tường nhất), và giúp họ làm quen với tiếng đạn nổ. Chúng tôi ấn định đêm thứ Sáu sẽ thực hiện cuộc tấn công, vì hôm đó trăng tròn và chiều thứ Sáu thuốc súng được vận chuyển từ Dulverton sẽ đến nơi.
Đã qua cái thời liều mạng và rất quý phần đời còn lại của mình, ông trẻ Reuben không muốn đích thân ra chiến trường. Nhưng sự tư vấn và tầm ảnh hưởng của ông, nhất là toán thủ kho rất thạo việc đập thảm, thực sự giúp chúng tôi rất nhiều. Cánh thợ mỏ của ông cũng làm được những điều đáng kinh ngạc vì quá phẫn uất gia tộc Doone, nhưng ai sống trong vòng bán kính ba mươi dặm quanh thung lũng Doone lại không như thế cơ chứ?
Theo kế hoạch, các tiểu điền chủ cưỡi ngựa sẽ chịu trách nhiệm (với sự trợ giúp của những thợ mỏ) nhử bọn Doone được phái đi cướp số vàng không có thực. Ngay khi biết toán cướp này đi khỏi thung lũng, chúng tôi sẽ tấn công theo lối thác nước vì cổng chính hiện giờ không thể đánh chiếm. Tôi đã chọn ra hai mươi thanh niên trẻ khỏe, trong đó có thợ mỏ, thủ kho, nông dân và vài nghề khác - tất cả đều hừng hực khí thế và leo trèo tốt. Với sự trợ giúp của những công cụ thích hợp và do đích thân tôi chỉ huy, tôi tin chắc bất kể thế nào chúng tôi cũng chiếm được đỉnh núi nơi lần đầu tiên tôi đã gặp Lorna.
Thú thật, tôi rất mừng vì lúc này Lorna không còn ở thung lũng Doone nữa. Bằng không, chắc em sẽ rất đau lòng khi chứng kiến cả họ hàng và bạn bè (dù em chẳng gần gũi gì với họ) lìa trần mà không nghi lễ gì dưới bàn tay chúng tôi, hoặc đẩy tất cả chúng tôi vào cửa tử. Vì lần này, tất cả chúng tôi đều quyết tâm “mạng đổi mạng”.
Hầu như ai cũng ít nhất một lần phải hứng chịu nỗi đau do gia tộc Doone gây ra. Người mất vợ, kẻ mất con gái, người mất con bò. Điều khiến tôi kinh ngạc là những người ít bị tổn thương nhất lại hô hào mạnh nhất. Từ Kit Badcock nghèo túng đến ngài Huckaback giàu có, tất cả đều đồng lòng san phẳng thung lũng Doone.
Mặt trăng đang lên, nhóm chúng tôi (lực lượng tinh nhuệ) khởi hành, đi đường tắt dọc theo các thung lũng đến chân thác Bagworthy. Chúng tôi đợi nghe tiếng súng hỏa mai nổ từ đỉnh đồi bên mạn trái mới bắt đầu leo lên. Đó là nơi John Fry đóng chốt (cả chú và vợ chú đều yêu cầu như vậy) để tránh xa trận đánh. Đó cũng là nơi tôi từng ngồi để trông chừng Lorna. John Fry sẽ nổ súng ngay khi chú nghe tiếng nhốn nháo ở cổng chính; bởi chúng tôi sẽ không nghe thấy gì cả bởi tiếng ồn của thác nước.
Chúng tôi đợi rất lâu. Mặt trăng mỗi lúc một lên cao, sương mù sa xuống giăng kín các đồng cỏ. Nhưng vẫn không có âm thanh nào đến từ John Fry hay khẩu étpigôn của chú.
Tôi bắt đầu nghĩ rằng John chắc đang kéo bễ cũng nên, vì chú được bố trí ở chốt an toàn, đã vậy còn mang theo chăn (ấy là chú nghe theo lời vợ dặn vì một đứa con của họ đang bị cảm lạnh). Nhưng hóa ra tôi đã nghĩ sai về John, và sẵn sàng thừa nhận điều đó. Vì đột nhiên, một tiếng động kinh thiên động địa dội xuống giữa những vách đá, đi xoáy vào những góc khuất.
“Anh em ơi, có tín hiệu rồi!” Tôi hô to, nhảy dựng người lên, xoa xoa mắt. Ngay lúc này, tôi cho John quyền oán giận tôi vì đã buộc tội chú một cách thiếu công bằng. “Nào các anh em, giữ chặt dây thừng nhé, và đặt gậy nằm ngang. Nhớ giữ súng chĩa lên trời, kẻo bắn phải nhau.”
“Cầm súng ở tư thế đó không bắn nhau được đâu.” Một người lên tiếng. Ông hơi già rồi, nhưng bộ dạng còn dẻo dai, và được quý trọng vì rất sáng trí.
“Anh em theo sau tôi nhé! Nên nhớ, tất cả phải rướn người về phía trước. Nếu ngả ra sau thì sẽ rơi xuống dưới.
Có khi không bao giờ đứng lên trở lại được và rất có thể sẽ tự bắn vào mình.”
Tôi thì sợ họ bắn vào tôi hơn. Nỗi sợ lớn nhất của tôi lúc này không phải là nước hoặc đá, mà là những khẩu súng đã được nạp đạn. Nếu có người trượt chân, súng có thể nổ, và tôi rất có thể là người đầu tiên lãnh viên đạn vô tình đó.
Vì e sợ như vậy nên tôi đã bàn với ông trẻ Ben và cậu Tom là không nên nạp đạn vội. Nhưng họ không ở trong tình huống ngặt nghèo đó nên cam đoan với tôi rằng chẳng có gì phải sợ, trừ phi kẻ nào quá vụng về. Về việc nạp đạn, ngay cả lính kỳ cựu cũng không tin chắc một trăm phần trăm thực hiện đúng và nhanh trong bóng tối, cộng với tiếng ầm ĩ huyên náo của trận đánh ngay đằng trước.
Tuy nhiên, tạ ơn Chúa, một khẩu súng đã nổ nhưng không trúng vào ai, bọn Doone cũng chẳng nghe thấy vì tiếng súng nổ rầm trời đằng trước đã át nó đi. Lực lượng tham gia cuộc tấn công giả do Tom Faggus chỉ đạo đã tạo nên tiếng ồn lớn nhất có thể, nhưng không xuất đầu lộ diện cho đến lúc chúng tôi từ phía sau xông lên, sau khi nhận được một tín hiệu nữa của John Fry.
Chúng tôi, đội tinh nhuệ, rón rén đi qua đồng cỏ, men theo những chỗ tối và chỗ trũng của dòng suối. Lời thông báo sớm nhất cho Quân sư, hoặc bất kỳ ai, về sự xuất hiện của chúng tôi là ngôi nhà gỗ huyết mộc, nơi sinh sống của gã khốn Carver, bốc cháy. Đặc quyền của tôi là được phóng hỏa ngôi nhà này, đó là điều mà tôi đã cố thuyết phục mọi người cho bằng được. Không một bàn tay nào khác ngoại trừ chính bàn tay tôi được ném một khúc củi đang cháy hoặc đánh viên đá lửa vào nó; và tôi đã chuẩn bị hết sức kĩ càng cho vụ này. Tôi phải thừa nhận mình đã xoa hai bàn tay vào nhau đầy sung sướng và thỏa mãn khi chứng kiến căn nhà của Carver, cái gã đã đốt rụi không biết bao nhiêu ngôi nhà mà kể, cháy bùng lên trong khói mù mịt, lửa bốc rần rật, và phát ra những tiếng răng rắc gai người.
Chúng tôi rất cẩn trọng để không làm tổn hại đến phụ nữ và trẻ em trong trận tàn sát rất chính đáng này. Chúng tôi đã đưa tất cả họ ra khỏi thung lũng từ trước; một số vui mừng, số khác tiếc nuối, tùy theo vị trí của họ ở đấy. Carver có cả tá vợ; có lẽ vì thế mà gã mới để vuột mất Lorna dễ như bỡn. Tôi có để ý đến một bé trai khôi ngô, tuấn tú mà Carver rất yêu quý (nếu gã có thể yêu bất kỳ thứ gì trên thế gian này ngoài bản thân đáng kinh tởm của gã). Tôi cõng thằng bé trên lưng, dù căm ghét cha nó cách mấy, tôi vẫn không đành nói hay làm gì khiến nó mất vui.
Để mặc những con người đáng thương ấy chứng kiến cảnh nhà cửa của mình cháy rụi tan hoang, lực lượng tinh nhuệ, theo chỉ đạo của tôi, rút vào một cái hang bên dưới vách đá. Trước đó, chúng tôi đã châm lửa ba ngôi nhà khác nữa, sau khi yêu cầu cánh phụ nữ tránh xa và bảo họ đi tìm chồng mình trở về để đánh nhau với một trăm người chúng tôi. Trong khói lửa mịt mùng và hỗn loạn, họ tin rằng chúng tôi có một trăm người thật. Thế là trong cơn khiếp đảm, họ chạy biến đi đến bãi chiến trường ngoài cổng.
“Cháy hết rồi, cháy cả rồi!” Chúng tôi nghe họ la toáng lên trong khi chạy. “Có một trăm lính đang phóng hỏa, còn thủ lĩnh là người khổng lồ đáng sợ!”
Đúng với mong đợi của tôi, bọn Doone chỉ để hai, ba tên ở ngoài cổng, quay trở vào, nổi trận xung thiên như muốn nghiền nát những kẻ nhà quê to gan dám làm càn trong thung lũng của bọn chúng. Vừa lúc ấy, lửa ngùn ngụt cháy trên đỉnh núi đỏ rực, lan sang rừng cây và dâng trào như thủy triều lên dốc đá. Khắp thung lũng chìm trong biển lửa, những dòng nước trong veo nhuốm đỏ, làm sáng bừng khuôn mặt của những phụ nữ trẻ xinh đẹp và những đứa bé trần truồng.
Nhưng cảnh tượng đẹp nhất là những gã đàn ông ngạo mạn sải bước xuống bờ đường đắp cao trong rầu rĩ, bất chấp kết cục ra sao, quyết một phen sống mái. Tôi đếm được đâu chừng một tá.
Nhận thấy lực lượng của bọn chúng quá mỏng, tôi chần chừ chưa muốn nổ súng, mặc dù đã kiểm soát được tên cầm đầu (hình như là Charley). Bọn chúng đang ở ngay trong tầm bắn, được chiếu sáng rõ mồn một nhờ ánh lửa, nhưng vẫn chưa phát hiện ra chúng tôi. Tôi nghĩ chúng tôi có thể bắt bọn chúng làm tù binh - dù sau đó chắc chắn bọn chúng sẽ bị treo cổ. Bất kể thế nào, tôi vẫn không muốn nổ súng, hoặc ra lệnh nổ súng.
Nhưng những người dưới quyền chỉ huy của tôi không đợi lệnh liếc gì sất; họ nổ súng ngay vào những gã đàn ông họ ghét cay ghét đắng, những gã đã cướp đi nhà cửa, vợ con của họ, bởi đây là cơ hội ngàn năm có một. Người giương súng đầu tiên là chú Ikey, đó được xem như một tín hiệu. Một tá súng hỏa mai phát nổ, nửa số tên Doone ngã gục, hệt như những thanh củi hoặc thớt gỗ lăn tròn.
Dù tôi đã từng chứng kiến một trận đại chiến trước đó, sự tàn sát còn gấp trăm lần như thế, nhưng lần này đối với tôi mà nói thật quá kinh hoàng. Thoạt tiên tôi có khuynh hướng tấn công người của mình vì đã hành xử như vậy. Nhưng rồi ngay tức khắc tôi nhận ra họ làm đúng vì trong lúc thung lũng ngập đầy tiếng gào thét, tiếng phụ nữ la hét, tiếng những ngôi nhà bốc lửa đổ sụp, và tiếng con sông sôi lên sùng sục, những tên Doone còn lại cùng lúc xông vào chúng tôi hệt lũ quái thú. Vì không nhìn rõ chúng tôi giữa những bụi cây phỉ, bọn chúng cuống cuồng bắn loạn xạ, quất súng hỏa mai túi bụi hoặc rút kiếm, điên cuồng tấn công chúng tôi.
Dù có quân số gấp đôi bọn chúng, trong một lúc, chúng tôi thấy nao núng trước sự tấn công đầy dũng mãnh và quyết liệt của bọn chúng. Về phần mình, vì quá khâm phục sự quả cảm của bọn chúng, và xem việc lấy hai chọi một là không xứng với bậc quân tử, tôi thoáng chùn tay. Thực ra, tôi chỉ muốn đấu với Carver thôi, mà gã thì đã biến đi đằng nào rồi. Hai bên lúc này lao bừa vào nhau, tạo thành một khung cảnh hỗn loạn. Những cú đánh cật lực bổ xuống như mưa - vì giờ đây súng đã hết sạch đạn - khiến tôi chẳng còn thấy hay nghĩ được gì nữa, ngoài một sự việc đã đeo đẳng tôi suốt một thời gian dài: Christopher Badcock đã chấp nhận mạng đổi mạng với Charley.
Không ai biết được (vì cả hai đều đã chết lâu rồi) bằng cách nào Christopher phát hiện ra rằng chính Charley đã cướp vợ mình và làm hoen ố thanh danh của anh. Carver Doone đã mang vợ anh đi, nhưng Charleworth Doone cùng đi với gã; theo kết quả đổ xúc xắc, chị về tay Charley. Kit Badcock phát hiện ra điều đó nhưng không nói cho ai biết, và thời điểm lý tưởng cho việc trả thù đã đến.
Anh tham gia trận đánh mà không trang bị bất kỳ loại vũ khí gì, chỉ xin tôi xếp anh vào lực lượng chiến đấu. Anh bảo sau khi mất cả vợ lẫn con, cuộc sống của anh không còn ý nghĩa gì nữa, chỉ còn lại cái chết, anh muốn chết sao cho thật ý nghĩa. Tôi chưa từng thấy khuôn mặt nào như thế, và không bao giờ mong muốn được nhìn thấy lại, khi Kit Badcock đáng thương trông thấy Charley tiến về phía chúng tôi.
Chúng tôi những tưởng anh là một kẻ ngốc bền bỉ, một triết gia nửa mùa, hoặc một người vô cảm. Cách đi đứng lặng lẽ và ăn nói nhã nhặn của anh đã đánh lạc hướng chúng tôi, khiến chúng tôi nghĩ rằng anh sẽ chấp nhận số phận an bài, không hề tính đến chuyện trả thù. Nhưng tôi, trong chuồng gia súc nhà chúng tôi, đã lắng nghe và khóc cùng anh.
Vì vậy, tôi không ngạc nhiên như những người còn lại khi trong quang cảnh hỗn độn của lửa và khói, Kit xông ngay tới chỗ Charleworth Doone. Họ nói với nhau điều gì, tôi không biết; chỉ biết là hai người giết nhau bằng tay không. Sau đó, Margery Badcock đến, khóc than, gục lên xác người chồng tội nghiệp. Mùa hè năm ấy, chị qua đời vì bệnh tim.
Tôi không thích kể nhiều về sự chém giết. Quý vị chỉ cần biết đó là một đêm của lửa và máu cùng sự trả thù đã nung nấu từ rất lâu, đến rạng sáng của cái ngày tháng Ba ảm đạm đó, chỉ còn hai người Doone sống sót là Quân sư và Carver. Toàn bộ nhà cửa (nơi cư ngụ của những kẻ xa hoa, phóng túng và dâm đãng) chỉ còn lại đống tro tàn.
Sự trả thù này có thể nói là tàn bạo và thái quá đối với bọn chúng. Trong những năm sau này của cuộc đời, tôi (với tư cách là chỉ huy) đã tự hỏi không biết mình sẽ bị phán xét thế nào, không phải bởi con người, mà là bởi Chúa.