N
gày hôm sau, chúng tôi quay về, phấn khởi nhưng cũng đầy ắp lo âu. Thứ nhất, chúng tôi biết làm thế nào với phụ nữ và trẻ em của gia tộc Doone, khi chỉ sau một đêm thôi, họ bị ném vào tay chúng tôi mà không có ai bảo vệ hay chăm sóc? Thêm nữa, chúng tôi biết nói sao với thẩm phán tòa án hòa giải, hoặc thậm chí là ngài Jeffreys, khi tự ý giải quyết vấn đề của mình bằng vũ lực mà không đợi bất kỳ lệnh nào? Chúng tôi nên giải quyết chiến lợi phẩm có giá trị lớn bằng cách nào đây, dù chưa ai biết đến sợi dây chuyền kim cương? Chúng tôi thấy rất nhiều người yêu sách nhảy dựng lên đòi chiến lợi phẩm. Ai từng bị cướp cũng muốn được đền bù; những chủ thái ấp đòi toàn bộ, cả người được Đức vua ủy quyền thu thuế ở chợ Porlock cũng vậy, rồi thì những người tham gia trận đánh, thậm chí các linh mục - Cha Bowden, Cha Powell và một linh mục khác nữa ở giáo xứ khác - cũng đòi phần.
Nhờ nổi tiếng là thành thật và lương thiện, tôi trở thành người giám hộ duy nhất của khối tài sản chiếm được, và tôi ra quyết định thế này. Không trả một pha đin nào cho các chủ thái ấp, linh mục, thậm chí người được Đức vua ủy quyền thu thuế. Thay vì thế, sau khi tính toán thiệt hại (có minh chứng) và chi trả cho những người xứng đáng được hưởng, phần còn lại (khoảng năm mươi ngàn bảng) sẽ sung vào ngân khố quốc gia ở Westminter. Sau đó, những người yêu sách muốn đòi bao nhiêu thì tự đệ trình nguyện vọng lên tòa Đại pháp quan.
Quyết định đó khiến những chủ thái ấp, linh mục và người được Đức vua ủy quyền thu thuế rụt lại liền, vì chỉ cần nghe đến cái tên tòa Đại pháp quan là họ lập tức liên tưởng đến cánh luật sư ăn chặn và phí tòa cao ngất ngưởng. Người được Đức vua ủy quyền thu thuế buộc phải thừa nhận là mình hài lòng, dù trong tất cả, ông ta là người thiệt thòi nhất vì phần ông ta lẽ ra cũng kha khá.
Lúc bấy giờ, người có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong vương quốc (bởi sức mạnh, hơn là sự ưu tú) là ngài Jeffreys vĩ đại, vừa được bổ nhiệm vào vị trí chánh tòa Công lý, cũng như nắm giữ luật pháp của địa hạt, vì đã treo cổ hết năm trăm người mà chẳng cần đến một buổi xét xử nào. Mười người thì hết chín là vô tội, sự thật là thế, nhưng điều đó chứng minh ngài Chánh án có phẩm chất xứng đáng được khen ngợi, vì đã làm đúng như được mong đợi, bất kể bản thân ông ta có mang đầy tội lỗi thế nào. Lúc bấy giờ, Đức vua bị thuyết phục bởi lập luận này, và biết ơn vì được thưởng thức một món ăn tàn bạo nêm nhiều gia vị, đã thăng chức cho người đàn ông duy nhất ở nước Anh có tài thiên phú của cả đồ tể lẫn đầu bếp.
Xin quý vị (đã đọc sách của tôi đến trang này) hãy tin là tôi không biết gì về việc thăng chức của ngài Jeffreys. Chẳng phải là nếu biết trước thì tôi đã hành động khác vì mục tiêu của tôi là sung tài sản vào công quỹ, chứ không phải cho bất kỳ công chức nào. Cũng chẳng phải là nếu biết trước thì tôi đã tìm cách để giữ nó cho mình. Vì tôi cho rằng ngân khố của Đức vua là của Thông luật, trong khi tòa Đại pháp quan là của Luật Công lý. Nhưng kết cục là ngài Jeffreys, giờ đứng đầu cơ quan luật, nghĩa là gần như đứng đầu vương quốc, sở hữu số tiền đó và hoàn toàn hài lòng với nó.
Phụ nữ và trẻ em mang về từ thung lũng Doone thì tính sao đây? Chúng tôi đã phải đương đầu với nhiều khó khăn suốt một thời gian dài. Chúng tôi phải làm việc cật lực hơn, nhiều người khác cũng vậy, để chu cấp cho họ, cho đến khi họ đủ khả năng tự kiếm sống. Sau một thời gian, vấn đề này được giải quyết dần dần. Vài phụ nữ được cha mẹ, chồng hoặc có thể là người yêu đưa về. Những ai không được như thế thì tiếp tục tự bươn chải, một số tự tìm đến những đồn điền ở Tân Thế giới, nơi phụ nữ đẹp có giá; số khác đến các thành phố ở Anh, còn những người kém nhan sắc hơn thì gắn bó với công việc đồng áng. Hầu hết những đứa bé đi theo mẹ chúng, hoặc bắt đầu học việc, chỉ có cậu bé dễ thương, con của Carver Doone đã mất mẹ nên ở lại với tôi.
Cu cậu lẽo đẽo theo tôi khắp nơi. Nó rất quý tôi - điều đó được thể hiện trước tiên trong đôi mắt của nó dưới ánh lửa, trong khi mắt cha nó thì lóe lên tia hằn thù. Thấy nó là đứa can đảm, khinh bỉ sự dối trá, tính tình vui vẻ, tôi cũng đâm ra quý mến Ensie như nó quyến luyến tôi. Nó bảo tên mình là “Ensie”, tôi đoán nghĩa là “Ensor”, được đặt theo tên ông nội của cha nó, ngài Ensor Doone. Cậu bé hình như là con thừa tự của Carver Doone vì là con có giá thú, ngược lại với thông lệ và thói quen của những người mang họ Doone.
Tuy nhiên, dù rất yêu quý đứa trẻ tội nghiệp này, tôi vẫn không khỏi cảm thấy bứt rứt không yên vì cha nó, tên Carver man rợ và hung ác, đã tẩu thoát. Giờ đây gã đang lang thang khắp vương quốc trong tuyệt vọng, không nhà cửa, không cái ăn, nguy hiểm hơn cả là gã có sức khỏe hơn người, khả năng đánh đấm khó ai bì kịp, và lòng thù hận với tất thảy. Việc để sổng mất gã, cánh thợ mỏ (tôi sẽ kể sau đây) chịu trách nhiệm, nhưng chính tôi là người chịu trách nhiệm về sự ra đi an toàn của Quân sư.
Sau khi cuộc tấn công tuyệt vọng của cánh thanh niên họ Doone bị chúng tôi dập tắt không thương tiếc, ngay khi Kit Badcock và Charley chết dưới bàn tay của nhau, tôi tình cờ phát hiện ra một vệt trắng to bằng đầu con cừu chuyển động trên cỏ. Vì hiếu kỳ, tôi bèn chạy tới để tìm hiểu trước khi nó đi tới lối hậu nhỏ xíu từng được gọi là “cửa của Gwenny”. Nhận thấy có người đuổi theo, cái vệt trắng đó khựng lại, dợm thụt lùi, tôi chạy hết tốc lực tới nơi mới biết hóa ra đó là mái tóc bạc phơ của Quân sư, đang lủi trốn bằng cả tứ chi. Thấy tôi, ông ta cuống quýt đứng dậy.
“John.” Ông ta nói. “Ngài John, ngài nỡ nào đoạt mạng người bạn cũ này. Ta mong chờ sự che chở từ ngài, ngài John.”
“Thưa ngài, ngài nói đúng.” Tôi đáp. “Nhưng chắc chắn bộ dạng kia không xứng đáng với ngài. Tôi cũng muốn để ngài tự do mà.”
“Ta biết. Cậu là người cao quý, John. Ta nói vậy, ngay từ đầu rồi; cậu là người cao quý, và là niềm vinh dự cho bất kỳ tầng lớp nào.”
“Nhưng với hai điều kiện.” Tôi nhẹ nhàng cầm tay ông ta, nói thêm. “Thứ nhất, ngài hãy cho tôi biết sự thật, ai đã sát hại cha tôi.”
“Ta sẽ cho cậu biết sự thật, John. Tuy nhiên, ta rất đau lòng khi thú nhận điều đó. Đó là con trai của ta, Carver.”
“Tôi cũng đã cảm giác được điều đó suốt từ trước đến giờ.” Tôi đáp. “Nhưng ngài không có lỗi gì cả, vì ngài đâu có mặt ở đó.”
“Nếu ta có mặt thì chuyện đấy đã không xảy ra. Ta luôn phản đối bạo lực. Do vậy, hãy để ta mau ra khỏi chỗ này; ta không chịu nổi cảnh tượng này nữa rồi.”
“Tôi sẽ để ngài đi sau khi đáp ứng điều kiện còn lại của tôi. Đó là, trao lại sợi dây chuyền kim cương của Lorna cho tôi.”
“Ôi chao, ta vẫn thường ước ao…” Người đàn ông già nua thở dài nặng nhọc. “… rằng ta có thể giải quyết việc này sớm để lương tâm được thanh thản.”
“Vậy thì hãy làm đi.”
“Nhưng John à, hiện ta không giữ sợi dây chuyền đó. Cậu có thể tìm nó từ Carver, con trai ta, người đã sát hại cha cậu. Ta thì cần đến trang sức để làm gì, chàng trai, khi đã bước sang tuổi xế chiều? Đồ trang sức lòe loẹt và vô giá trị là những gì ta căm ghét, vì chúng dẫn lối đưa đường đến những tội lỗi ta phải trả giá. Khi cậu sống đến tuổi ta, John, cậu sẽ khinh miệt hết thảy đồ trang sức, chỉ quan tâm đến mỗi lương tâm trong sáng và thuần khiết thôi. Nào, hãy để ta đi. Ta đã sám hối trước Chúa rồi.”
Mái tóc xám trắng sáng lên như bạc dưới ánh trăng, cộng với nét mặt thành khẩn khiến tôi suýt chút nữa tin ông ta sái cổ, nếu không tình cờ trông thấy ngực ông ta hõm vào. Theo kinh nghiệm của tôi, khi một người thành thật nói ra những cảm nghĩ lớn lao và cao quý của mình thì ngực anh ta căng lên, nhô ra như thể trái tim bên trong đang trương phình lên, trong khi đó ngực ông già này lại hõm vào bất thường.
Tôi xin lỗi trước khi thọc tay vào bên trong thắt lưng ông ta, lôi ra sợi dây chuyền kim cương sáng lấp lánh dưới ánh trăng hệt như những ngôi sao đang nhấp nháy. Ông già lập tức đâm con dao tôi không hề thấy trước đó vào tôi, nhưng cú đâm lén đầy ác ý đó thất bại. Rồi ông ta quỳ thụp xuống, lạy như tế sao.
“Ôi, vì Chúa, John, con trai, đừng có cướp của ta theo cách đó chứ. Nó thuộc về ta và ta yêu nó biết chừng nào. Ta đã hy sinh gần như cả đời mình để có được nó. Món trang sức này ta có thể ngắm hàng giờ, và nhìn thấy tất cả ánh sáng thiên đường trong nó - thứ ánh sáng mà ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy ở bất kỳ nơi đâu. Tất cả cuộc đời xấu xa, khốn nạn của ta - ôi, John, ta là một kẻ giả nhân giả nghĩa đáng trách - nhưng cậu làm ơn trả lại nó cho ta. Nếu không thì hãy giết ta tại đây, ta là một đứa trẻ trong tay cậu; nhưng ta phải lấy lại món trang sức của mình.”
Khi lọn tóc bạc phơ sáng loáng đổ xuống từ vầng trán cao quý của ông ta, hệt một tràng hoa màu bạc của sự vinh quang, và khuôn mặt đầy quyền lực của ông ta lần đầu tiên bị lay động bởi cảm xúc thực, tôi kinh ngạc, mất tinh thần trước sự tương phản ghê gớm của bản chất con người đến mức toan trả lại sợi dây chuyền cho ông ta. Nhưng sự lương thiện, điều mà người ta hay nói là bản năng đầu tiên của tất cả những người mang họ Ridd (dù bản thân tôi không bao giờ nhận thấy như vậy) chợt lóe lên trong đầu tôi, và tôi nói nhanh:
“Thưa ngài, tôi không thể trả cho ngài thứ không thuộc về mình. Nhưng nếu ngài xem loại kim cương này là thiên đường, tôi đành liều cắt ra cho ngài một ít. Như thế, chắc ngài sẽ hài lòng; và xin ngài đừng than vãn nữa.”
Nhận thấy không hy vọng nài thêm được gì hơn thế, ông ta đồng ý. Tôi nghĩ về Lorna khi cắt sợi dây chuyền và đặt vài viên kim cương vào bàn tay nâng niu của ông ta.
Một lát sau, ông ta biến mất qua lối cửa của Gwenny; và chỉ Chúa mới biết chuyện gì xảy ra với ông ta.
Còn Carver, tôi sẽ kể ngay sau đây câu chuyện liên quan đến gã sau khi sàng lọc thông tin từ cánh thợ mỏ vì mỗi người có một phiên bản khác nhau. Bọn Doone được giao nhiệm vụ cướp đoàn hộ tống giả chạm trán với Simon Carfax, như đã sắp đặt, tại ngôi nhà đổ nát tên là The Warren trong rừng Bagworthy, nơi dòng Exe (cho đến bây giờ vẫn là một con suối rất nhỏ) chảy xuyên qua. The Warren, như tất cả chúng tôi đều biết, từng thuộc về một bậc cao niên tôn kính, được gọi là “Điền chủ”, đã rút lui khỏi cuộc sống bận rộn, dành phần đời còn lại câu cá, săn bắn và giúp đỡ xóm giềng. Ông là người có chút của cải, không một người nghèo nào từng ra về tay không sau khi đến The Warren, họ lúc nào cũng được biếu một bao thức ăn ngon hay vài đồng si linh bỏ túi. Tuy nhiên, vị điền chủ đáng thương này đã phạm sai lầm lớn nhất trong đời khi hy vọng kết thúc cuộc đời mình một cách thanh thản bên bờ suối đầy cá hồi và trong cánh rừng Bagworthy xanh ngát. Vì khi ông từ suối về nhà lúc trời chạng vạng, với cần câu vắt vai, bọn Doone đã xông vào ông, giết ông, cướp sạch nhà ông rồi đốt rụi nó.
Chuyện này khiến những người lương thiện không dám đi ngang qua The Warren vào ban đêm, vì nghe nói vị điền chủ “đi lại” trong những đêm có trăng, vào ra những gốc cây trên con đường mòn dẫn ra sông. Trên vai ông vắt vẻo cần câu, một tay cầm cuốn sách về ruồi câu, trên lưng là giỏ đựng cá đan bằng cây liễu gai; thi thoảng ông phá lên cười khi nghĩ về việc mình tới quá gần bọn Doone.
Sự đời kể ra cũng lạ lùng, bởi chính tại nơi này, bọn Doone đã gây nên một tội ác đáng kinh tởm, và hai mươi năm sau, cũng tại đây, chúng phải trả giá. Mặc dù The Warren nằm khuất xa về phía tây của mỏ, vàng được hộ tống đến Bristowe hoặc London phải đi hướng khác mới đúng, nhưng Đội trưởng Carfax, nhận thấy nơi này phù hợp nhất để thực hiện kế hoạch, đã thuyết phục bọn Doone rằng vì những lý do của Chính phủ, quặng phải đi đến Barnstaple trước để kiểm tra, hoặc đại để vậy. Vì ai cũng biết rằng Chính phủ chuyển tất cả mọi thứ về phía tây nên điều này giúp củng cố niềm tin dành cho Simon.
Khi toán cướp đi ngang qua, Simon nài bọn chúng xuống ngựa. Với dáng điệu bí mật, ông dẫn bọn chúng vào dinh thự đổ nát của Điền chủ, nơi đã cháy đen thui, xanh rì cỏ dại.
“Đại ca, tôi phát hiện ra một thứ…” Ông nói với Carver Doone. “… có thể giúp giết thời gian trước khi vàng đến. Bọn buôn lậu rất tinh ranh; nhưng không qua được mắt cánh thợ mỏ bọn tôi. Có một thùng rượu loại hiếm, nhãn hiệu Hà Lan, được cất giấu bên dưới nền lò sưởi vỡ. Hãy cho một người canh bên ngoài, còn chúng ta vào tìm hiểu xem thế nào.”
Đôi bên thống nhất, cả đám Doone trở nên hứng chí. Simon kéo một xô nước lên từ cái giếng mà bọn chúng đã ném xác vị điền chủ xuống, nài chúng pha với rượu. Vài tên chịu, vài tên không.
Trong khi bọn Doone chè chén say sưa, nước được rót vào ổ nạp thuốc súng của bọn chúng. Khi gã Carver khổng lồ đứng lên, cầm ly rượu Hà Lan nguyên chất để chúc sức khỏe vong hồn Điền chủ, tại lối cửa đổ nát, một đám người đứng án ngữ, chĩa súng hỏa mai, bao vây bọn Doone lúc này đã say khật khưỡng. Bọn Doone lập tức vớ lấy súng chĩa vào họ, kéo cò, nhưng nước giếng của Điền chủ đã làm tịt ngòi nổ, lúc này chúng mới biết là mình đã mắc bẫy, nhưng vẫn cố sống cố chết đánh trả. Tôi xin được miễn kể chi tiết trận đánh vì sợ dung dưỡng thứ khoái cảm dã man mà tôi vẫn muốn hạn chế tối đa nơi mình. Chỉ cần biết là bọn Doone đã chiến đấu kiên cường và chết tại tư dinh của người đã bị chúng sát hại. Về chầu ông vải với bọn chúng còn có chàng thanh niên tội nghiệp De Whichehalse, người đã bất chấp những lời can ngăn khẩn nài của cha mình để đi theo bọn cướp. Chỉ mỗi Carver Doone thoát được. Phần nhờ vào sức mạnh kinh hồn và khuôn mặt gớm ghiếc của gã, nhưng chính ra có lẽ nhờ vào cái đầu lạnh và khả năng xử lý tình huống tốt thì đúng hơn.
Tám thợ mỏ dũng cảm đã hy sinh trong trận chiến hoặc qua đời sau đó vì vết thương quá nặng, cộng với tám người đã mất trong trận sống mái ở thung lũng lần trước, suy ra chúng tôi chỉ mất mười sáu người để tiêu diệt gần bốn mươi tên Doone, mà mỗi người trong bọn chúng hẳn đã sát hại ba người trong một, hai năm qua. Tôi có thể tự tin mà nói rằng đó là một cuộc chiến chính nghĩa và vĩ đại - gần bốn mươi tên Doone đã tiêu đời (trong thung lũng, và tại The Warren) cho dù sức khỏe phi thường và kỹ năng súng ống xuất thần. Trong khi đó, chúng tôi chỉ là những kẻ quê mùa dốt nát mà chỉ mất có mười sáu người - dù số còn lại có thể bị thương tật hay đại loại thế. Trong mười sáu người, chỉ có hai người bỏ lại vợ, cũng may là vợ của họ không quan tâm mấy đến họ.
Tuy nhiên, nghĩ đến Lorna, tôi áy náy vì đã để sổng mất Carver. Chẳng phải tôi muốn đoạt mạng gã, cũng như tôi chẳng muốn lấy mạng Quân sư làm gì; nhưng chúng tôi không thể khinh suất bởi lẽ hiện giờ gã có thể ví như một con sói đói khát đi lởn vởn quanh trại nuôi cừu. Tuy nhiên, khi tôi lên tiếng trách những tiểu điền chủ đóng chốt trên ngựa ngay bên ngoài cổng gia tộc Doone để chặn lại những kẻ trốn thoát khỏi cánh thợ mỏ, không ai chịu nhận trách nhiệm.
Đúng là Carver đã phóng nước đại qua mặt họ, thoát khỏi tầm bắn trước khi họ kịp nghĩ đến việc nổ súng. Nghe một thằng bé nói - mấy đứa ấy chẳng biết xoay xở thế nào mà có mặt khắp nơi - Thủ lĩnh Carver phi ngựa qua cổng gia tộc Doone và tiến về đỉnh thung lũng. Tại đó, gã nhìn thấy tất cả những ngôi nhà, trong đó có nhà của gã, bốc cháy đỏ rực, hắt ra thứ ánh sáng chói lòa xung quanh khiến gã liên tưởng đến việc trước đây vẫn thường chè chén say sưa tại đất nhà người khác trong thứ ánh sáng tương tự. Gã chửi thề rồi thúc con ngựa đen biến vào đêm tối.