C
hắc tuyết rơi dữ lắm mới dày đến mức này trong vòng tám giờ đồng hồ. Người của ngài Stickles ở ngoài suốt đêm hôm qua bảo rằng gần sáng tuyết mới bắt đầu rơi. Giờ đây, tuyết chặn kín các lối đi, phủ ngập đường sá, làm đông cứng sông suối, khiến việc đi lại còn khó khăn hơn cả trong một cái hố cưa mới được sử dụng. Chúng tôi lê bước thành hàng dọc. Tôi đi tiên phong, những người còn lại đi sau, cố lần theo dấu chân tôi, nhưng cảm thấy chân và sức khỏe không kham nổi việc đó. Nhất là John Fry, chú liên tục rên rỉ, cứ như chắc mẩm mình sắp chết đến nơi, rồi bắn tin về cho vợ và gửi lời chúc phúc cho con cái. Tuyết rơi không ngừng, mỗi lúc một dữ dội hơn. Bầu trời như sà xuống cực thấp, hệt một cái hầm mỏ úp ngược bên trên chúng tôi. Chẳng phải vì những bông tuyết quá lớn, bởi tôi từng thấy những bông tuyết còn lớn hơn thế giữa một cơn mưa tuyết vào tháng Ba trong lúc gieo đậu, mà là vì tuyết rơi dày đặc, liên tục, không chuyển hướng.
Con Watch, luôn ngoan ngoãn và trung thành, hí hửng đi theo chúng tôi dù khá chật vật, có khi còn bị chìm lút trong lớp tuyết nhão, chẳng ngoi lên nổi nếu chúng tôi không thỉnh thoảng trợ giúp nó. Sau nhiều phen suýt ngã, bật cười ha ha, thốt vài câu chửi thề, tất cả chúng tôi an toàn đến đồng cỏ thấp hơn, nơi hầu hết gia súc được quây lại.
Nhưng nào có thấy gì! Ý tôi là chẳng thấy gia súc, gia siếc đâu hết. Chỉ thấy ở góc phía đông của cánh đồng đã bị tuyết xâm lấn, biến thành một khối lớn trắng xóa, cao bằng kho thóc, rộng bằng cả một ngôi nhà. Cái khối trắng đó giờ đây đang cuộn lên bên dưới luồng gió hung hãn, dồn thành từng cụm, dập dềnh cùng những cơn gió xoáy điên cuồng. Hết đợt này đến đợt khác, cơn bão tuyết cuốn lấy những vốc tuyết nhỏ, quay tròn chúng, khiến chúng nhảy múa rồi bỏ mặc chúng nằm tênh hênh hệt những khung xương cá trích, hoặc những đường vân nổi của cát khi thủy triều rút. Trong khi đó, bầu trời âm u, mù mịt, liên tục trút xuống một cách không thương tiếc những mũi tên màu trắng buốt giá.
Với những người không nuôi cừu, ấy là cảnh tượng vui mắt, thế nhưng chúng tôi thì không, khi biết rõ bên dưới tuyết là đàn gia súc của mình. Con Watch ngay lập tức cào cào, tru lên. Nó biết bầy gia súc nó chăn bị vùi lấp ở đó, thế có nghĩa là nó bị tước mất việc làm. Bốn người chúng tôi bắt tay vào việc đào cật lực. Chúng tôi cắm xẻng vào lớp tuyết lạnh, mềm, xúc chúng rồi hất ra sau thành đống như lâu đài. Cuối cùng, sau khi đào được những đường hầm dẫn về phía chính giữa khối tuyết, chúng tôi dừng lại, lắng nghe.
Ba người kia không nghe gì cả, hoặc tuyên bố là chẳng nghe gì, muốn bỏ cuộc, bởi chân và đầu gối đã tê cóng. Tôi bảo: “Cứ về đi nếu các chú chỉ biết nghĩ cho mình. Tôi sẽ tự xoay xở lấy.” Nghe vậy, họ không đòi về nữa.
Tôi nghiêng đầu, cố lắng nghe, có tiếng “beee” phát ra yếu ớt, cầu khẩn trong tuyệt vọng. Tôi la lớn khích lệ, vì biết tiếng kêu đó là của con cừu dũng cảm nhất trong đám cừu thiến, con đã gặp tôi hôm từ London trở về, đã mừng rỡ khi trông thấy tôi. Chúng tôi tiếp tục đào bới, ngay sau đó lôi được nó ra. Con Watch lập tức tiếp quản con cừu. Ra vẻ bề trên, nó nằm lên bộ lông bị đóng băng, liếm khắp mặt và chân con cừu vừa mới được cứu. Chỉ sau chốc lát, chú ta bật dậy, khẽ húc vào Watch, như thể chưa từng bị vùi lấp, rồi nhẩn nha ngó nghiêng xung quanh, tìm gì đó để nhấm nháp.
Tiếp theo, chúng tôi tìm thấy toàn bộ số cừu tội nghiệp còn lại, đang túm tụm sát vào nhau hệt như ở bên trong một chiếc bánh nướng khổng lồ. Chừng hai, ba con cừu non yếu ớt đã chết vì thiếu không khí và bị chèn ép, nhưng hơn sáu mươi con vẫn còn sống khỏe mạnh dù bị tê cóng và cứng đờ mất một lúc.
“Làm sao đưa chúng về nhà đây?” John Fry hỏi trong cơn hoang mang tột độ, khi chúng tôi vừa mới lôi ra được hơn chục con.
“Chú trông coi chỗ này nhé, John.” Tôi đáp, lúc chúng tôi dừng lại nghỉ một lát còn lũ cừu lăng xăng xung quanh.
“Lúc này không nên để chúng ra ngoài, cứ để yên chúng đấy là tốt hơn cả. Watch, trông chừng cừu nhé!”
Con Watch chạy tới, mẩu đuôi cụt cong lên chờ lệnh. Tôi bảo nó đứng gác nơi bờ miệng hẹp của cái hang tuyết lớn.
Trong số đám cừu đã ra được bên ngoài (tất cả bây giờ bị phủ kín tuyết, lông xoăn thành búp, hệt bộ tóc giả của luật sư), tôi bốc ra hai con đẹp nhất, nặng nhất, cặp nách mỗi con một bên, đi thẳng về nhà, cho chúng vào chuồng. Tôi đã đưa về nhà hết sáu mươi sáu con theo cách đó, mỗi lượt hai con. Công việc mỗi lúc một khó khăn hơn vì phải vào sâu hơn trong hốc tuyết mới lôi được chúng ra. Không ai hỗ trợ, tôi quyết tâm vượt qua giới hạn sức lực của bản thân, thực tế đã chứng minh tôi làm được. Trong tôi, ngọn lửa mãnh liệt của niềm tin không bao giờ thôi cháy, tôi thà chết còn hơn bỏ cuộc dù công việc không hề dễ dàng. Thành công đó mãi tận hôm nay người ta vẫn còn nhắc đến, nhưng chẳng mấy ai hiểu được tôi đã nếm trải những nhọc nhằn gì bởi họ chưa hề ở trong tuyết và gió.
Chúng tôi không cứu được lũ cừu trên núi, cừu ở nông trại phía tây và gia súc ở những khu vực trên cao. Chẳng phải chúng tôi không muốn cứu mà là vì không thể tìm thấy chúng. Trận bão tuyết kinh hoàng đó không dừng lấy một giây phút nào suốt ba ngày ba đêm. Đến khi toàn bộ mặt đất chìm trong tuyết, những hàng rào cao nhất không thấy đâu nữa, những cái cây bị gãy bởi sức nặng của lớp tuyết dày, ánh mặt trời rờ rỡ xé mây tỏa rạng, phơi bày sự mất mát mà tất cả chúng tôi phải hứng chịu.
Nhà tôi ngập trong tuyết, ngoại trừ lối đi dã chiến liên tục được khơi thông bằng xẻng. Nhà bếp tối còn hơn cả hầm rượu táo. Nhiều cửa sổ đổ vào bên trong vì sức nặng của tuyết. Vài cái còn đứng vững thì phồng lên, cong hệt một chiếc đèn lồng cũ bị hỏng. Chúng tôi buộc phải nấu ăn và đọc nhờ ánh nến, còn nướng bánh thì không thể vì cái lò quá lạnh, còn củi thì ẩm cả.
Khi mặt trời cuối cùng cũng xuất hiện trên thế giới tuyền một màu trắng lóa, những gì nó mang đến không phải sự ấm áp, vui mừng hay niềm hy vọng, mà chỉ để người ta cảm nhận rõ ràng hơn về cái lạnh từ bầu trời tím ngắt, sâu hun hút. Những con đường chìm trong làn sương mù trắng đục, dài vô tận. Những tấm rèm sương giá rủ xuống ven đồi, thung lũng và bên trên rừng cây trĩu nặng.
Đêm đó, một đợt sương giá kinh hoàng xảy ra, nằm ngoài sức tưởng tượng của chúng tôi, ngay cả trong những cuốn sách cổ hoặc lịch sử của Frobisher cũng không thấy nhắc đến. Chiếc ấm bên bếp lửa đóng băng, nhiều người chết, gia súc cứng đờ. Rồi tôi nghe thấy một âm thanh rùng rợn (thứ âm thanh tôi chưa từng nghe trước đây, sau này cũng không lần nào nghe lại), âm thanh của cây cối đổ gãy mỗi khi có một luồng gió buốt giá ào ào thổi tới. Cây hồ đào lớn nhà chúng tôi gãy mất ba nhánh, chết dần chết mòn kể từ đó. Cây sồi già bị xé tan tành, hàng chục cây tần bì cũng chịu chung số phận. Tại sao tôi kể ra tất cả những điều này? Những người không chứng kiến cảnh đó sẽ chun mũi, bĩu môi không tin cho đến khi họ phải hứng chịu một đợt sương giá khác tương tự. Nhưng có lẽ là chẳng bao giờ.
Thời tiết khủng khiếp đó khiến Tom Faggus không thể đến nhà chúng tôi suốt nhiều tuần. Chỉ tội cho Annie khổ sở vì nhớ nhung chứ tôi thì chẳng việc gì vì tôi chưa bao giờ ủng hộ việc cậu cưới em gái tôi làm vợ, cho dù cậu đã tậu được đất của ngài Bassett và có được lệnh tha từ Hoàng gia. Có nhiều chuyện xảy đến một lúc khiến tôi kém vui chứ kỳ thực tâm tính tôi không phải vậy. Chỉ một điều nhỏ nhặt thế này thôi cũng đủ khiến người ta cáu gắt, thô lỗ và dễ nổi khùng rồi. Đó là mặt cùng hai bàn tay đỏ tấy, nứt nẻ, đau buốt vì làm việc trong tuyết cả ngày và nằm trong sương giá cả đêm. Tôi sợ rằng Lorna (nếu Chúa đoái thương cho tuyết ngừng rơi) sẽ xem điều đó là minh chứng cho dòng giống hạ lưu, quê mùa.
Tôi nói nó nhỏ nhặt vì còn có một sự việc nghiêm trọng hơn rất nhiều, đó là chúng tôi mất phân nửa số gia súc, dù chúng tôi đã làm hết sức để che chắn cho chúng. Ngay cả bọn ngựa trong chuồng gần như sáng nào mõm cũng bị đóng băng. Nhưng điều tệ hại hơn hết thảy là tôi chẳng có lấy một mẩu tin tức nào về Lorna. Không phải chỉ có ba ngày tuyết rơi dữ dội làm tê liệt sự đi lại, mà vì suốt ba tuần sau đó, trời không lúc nào ngừng trút xuống cơ man là tuyết. Gió cũng không ngơi nghỉ ngày nào, thổi bụi tuyết bay trắng xóa. Cứ như một quy tắc bất di bất dịch, tuyết rơi ban ngày, ngưng vào ban đêm, đóng băng cứng đanh. Khắp mặt đất trải rộng tuyền một thứ ánh sáng chói ngời, trắng xóa cùng những âm thanh lốp bốp như pháo rát buốt cả tai. Buổi sáng, tuyết lại tiếp tục rơi trước khi mặt trời kịp xuất hiện để làm không khí ấm lên đôi chút.
Tôi nhớ đó là vào buổi sáng lễ Hiển linh, hoặc quanh thời gian ấy, Lizzie chạy ùa vào nhà bếp trong lúc tôi đang ngồi sưởi ấm, em tỏ vẻ bất ngờ vì tôi thường ra ngoài xúc tuyết từ lâu trước khi “tiểu thư” nhà tôi thức giấc. Em hôn tôi. Chắc là để làm ấm môi, hoặc có điều gì đó đáng hãnh diện muốn kể.
“Anh ngốc quá!” “Tiểu thư” nhà tôi nói. (Annie và tôi thường gọi em vậy vì cung cách và thái độ của em.) “Chẳng bao giờ chịu đọc sách!”
“Đọc sách với chả đọc siếc, báu lắm đấy!” Tôi đáp, dù thích thú với vẻ ta đây của em. “Đọc sách trong lúc mái nhà sắp sửa đổ sụp, còn trơ lại ống khói hay sao hả?”
“Thì có đọc mới có kiến thức để xử lý tình huống lúc cần chứ.” Lizzie nói, càng ra vẻ bề trên hơn.
“Amen!” Tôi kêu lên. “Tiểu thư nhà ta là mục sư hay nhà thông thái đấy nhỉ? Ai cũng được, chào buổi sáng, em gái.”
Tôi toan cúi gập người trêu em như thường lệ, nhưng Eliza nắm lấy hai tay tôi, ngước nhìn tôi bằng đôi mắt to đẹp, phảng phất nét ưu tư như ẩn chứa điều gì đó. Rồi em nói:
“John này, không phải lúc đùa đâu. Đêm qua, em suýt nữa đóng băng trên giường đấy, còn chị Annie cứ như một trụ băng. Anh xem hai tay em lạnh toát đây này. Nào, anh có chịu nghe em nói là em đã đọc về những kiểu thời tiết còn tệ hơn gấp mười lần thế này không? Có nơi, không ai ngoài những người thông minh có thể sống sót được.”
“Giờ thì chưa được đâu vì trăm công ngàn việc đang chờ anh kia kìa. Sau bữa sáng, anh sẽ nghe những kiểu thời tiết lạ lùng của em nhé, em gái. Giờ thì chuẩn bị cà phê nóng cho mẹ đi.”
Trông em hơi thất vọng, nhưng em biết tôi cần làm việc. Suy cho cùng, em chẳng phải đứa không hiểu chuyện. Như đã hứa, sau khi xong việc buổi sáng, tôi kiên nhẫn lắng nghe em. Quả thực, những điều em nói không hề vớ vẩn.
Em bảo tại Bắc Cực, nơi có loài gấu Bắc Cực sinh sống, mặt trời không mọc suốt nhiều tháng trời, thế nhưng nhiều người vẫn đến đó để khám phá điều mới mẻ, tận hưởng cảm giác bị đóng băng. Có nghĩa là quanh năm suốt tháng ở đó chỉ có mùa đông khắc nghiệt hệt như thế này. Chỉ có mỗi băng và tuyết. Trời lạnh đến mức nếu không cẩn thận có khi bị bong da như chơi. Ở đó, lớp tuyết dày đến mười lăm mét, hơi vừa thở ra là đóng băng luôn, rơi xuống khỏi vai như một khúc gỗ vậy. Ấy thế mà người ở đấy vẫn quen được và biến thời gian này trong năm trở nên dễ dàng hơn bằng một chút lanh trí. Vì tuyết phủ kín mọi thứ - những ngọn đồi, thung lũng, mặt biển - họ tìm được một cách để di chuyển trên tuyết. Dù tuyết có rơi dày ra sao, gió thổi mạnh thế nào hay lạnh buốt đi chăng nữa, bất kỳ người nào cũng có thể lướt đi trên một “con thuyền“ gắn vào hai chân để khỏi chìm.
Theo miêu tả của em, “con thuyền“ rất chắc và nhẹ, hai bên sườn bọc da, dài một mét rưỡi, rộng chừng ba mươi phân, cong ở hai đầu như một chiếc ca nô vậy. Nhưng em không hề cho tôi biết, mà tôi cũng chẳng mảy may suy nghĩ một điều rằng nếu không luyện tập trước thì sẽ rất khó đi “con thuyền“ đó. Rồi em nói với tôi một điều nữa cũng có lợi với tôi không kém, dù tôi không đời nào để em biết là tôi cảm kích. Đó là về việc sử dụng xe trượt tuyết và sức trượt của chúng. Tôi có thể hiểu ngay vì ở nông trại chúng tôi cũng dùng xe trượt thay vì bánh xe trong điều kiện địa hình bằng phẳng. Khi nghe xong tất cả những điều này từ em mình - một đứa con gái hỉ mũi chưa sạch, ngay cả một quả bóng tuyết cũng chẳng làm nổi, tôi nhìn em vẻ sửng sốt, bắt đầu tiếc nuối, lẽ ra mình nên đọc sách nhiều hơn.
Chúa ban sự sống cho muôn người, sự tồn tại của mỗi người mang một ý nghĩa khác nhau. Em Eliza sinh ra là để dành cho sách. Em Annie sinh ra là để dành cho tình yêu và việc nấu nướng. Tôi, John Ridd, thì dành cho cừu, đấu vật và nghĩ về Lorna. Mẹ thì yêu cả ba anh em chúng tôi, tận dụng hết những mặt tích cực của các con bà. Không ai nhìn thấy, chỉ có thể cảm thấy hoặc lưu giữ trong tâm trí mình một người mẹ thực sự là như thế nào. Mãi yêu thương, mãi dịu dàng, luôn biến lỗi lầm thành điều tốt đẹp, những thói xấu thành đức tính tốt. Với chúng tôi, mẹ còn hơn cả thế, do vậy lúc nào tôi cũng cảm thấy tự hào, sung sướng được làm tròn bổn phận thiêng liêng của mình đối với bà. Về phần mẹ, bà luôn biết ơn và hài lòng như thể không còn đòi hỏi gì hơn ở tôi. Tuy vậy, hết lần này đến lần khác, tôi vẫn thầm đau khổ mỗi khi nghĩ đến việc không thể gặp Lorna hay biết tin tức gì về em, nhất là không biết liệu có chuyện gì không hay xảy đến với em không, bởi giờ đây em không còn ai che chở.
Vì vậy, dựa vào những miêu tả của Lizzie, chẳng bao lâu sau, tôi tự làm cho mình một đôi giày đi trong tuyết, nhẹ nhưng chắc chắn. Khung được làm từ gỗ tần bì, sườn làm từ cây liễu gai bọc da bê thuộc, và có một miếng đế bên trong để đỡ chân tôi. Thoạt tiên, tôi chẳng đi được gì cả, loạng choạng trông rất tội nghiệp, mắc chiếc nọ vào chiếc kia, rồi mắc cả hai chiếc vào những đụn tuyết, khiến các cô gái nhìn thích thú (các cô ấy đến để xem tôi “biểu diễn” cơ mà). Nhưng chẳng mấy chốc tôi trở nên thành thục hơn, sau khi tìm ra sai sót. Tôi thay đổi độ nghiêng của đôi giày nhờ vào bức vẽ Lizzie tìm thấy trong một cuốn sách thám hiểm. Điều này làm nên một sự khác biệt lớn - tôi có thể băng qua sân trại và quay trở mà không bị ngã lần nào.
Tuy nhiên, tối hôm đó, hai mắt cá chân tôi đau nhức. Khi lên lầu đi ngủ, tôi phải vịn cả hai thành cầu thang! Tôi dùng dầu làm từ chân bò xoa các khớp, thấy dễ chịu hơn hẳn. Có lẽ tôi đã từ bỏ việc tập luyện, nếu Lizzie không chế nhạo, vờ vịt thông cảm hỏi liệu chàng John Ridd khỏe mạnh có xứng đáng để bà vú già Betty nương tựa không. Thế nên tôi tiếp tục tập đi với một quyết tâm sắt đá bất chấp đau đớn. Ngày hôm đó, trước khi mặt trời lặn, tôi có thể đi khá dễ dàng. John Fry, Bill Dadds và Jem Slocombe (đang dọn dẹp đống kim tước, cột thành bó cho gia súc) mắt tròn mắt dẹt, há hốc miệng sửng sốt khi trông thấy tôi đi xuống đồi bằng đôi giày tự chế dưới ánh chiều chạng vạng. Không ai bảo ai, cả đám đồng loạt chạy biến đi, vấp phải một đụn tuyết, suýt ngã nhào. Họ và cả những người khác đều tin rằng tôi đã cướp cái sàng mà Mẹ Melldrum vẫn dùng để bay bên trên mũi đất nhô ra biển vào nửa đêm các ngày thứ Bảy.
Vào ngày hôm sau, tôi bày tỏ ý muốn của mình với mẹ. Tôi không thích đi khi mẹ chưa cho phép, nhưng lại không dám hỏi xin. Thật bất ngờ, mẹ bảo tôi muốn làm gì thì làm vì cái người giờ đây là tất cả với tôi ấy. Tôi cứ đi con đường mình đã chọn, Chúa sẽ che chở cho tôi! Tôi bất ngờ là bởi mẹ chẳng giống mẹ trước đây chút nào. Kể từ lúc tuyết rơi đến giờ, tôi vẫn chu toàn mọi việc trong ngoài, nên nghe mẹ nói vậy, tôi hơi bức xúc, toan bảo rằng bà không hiểu tôi. Tuy nhiên, ý thức bổn phận và đạo làm con đã ngăn tôi lại. Nhân lúc mẹ sơ hở, tôi chớp lấy thời cơ, bảo mẹ là tôi rất tự hào về niềm tin của bà đối với Thượng đế, rằng tôi có thể di chuyển dễ dàng trong tuyết bằng đôi giày mới, rồi tôi nhanh chóng khởi hành với ống tẩu ngậm trên môi.