S
uốt mùa sương giá khắc nghiệt đó, bọn hươu nai trong rừng, vì không có gì để ăn cũng như không có chỗ trú ẩn, lân la đến những đống ngũ cốc, cỏ khô và cỏ ba lá của chúng tôi. Gần như sáng nào chúng tôi cũng nhìn thấy cả trăm con đến tìm sự ấm áp, thức ăn và nguồn an ủi, lưu luyến không muốn rời đi. Nhiều con rất dạn người, mon men đến tận cửa và đứng nguyên đó, thở hổn hển với bộ lông cứng đơ, hai bên sườn hóp lại, có con còn bị băng đóng thành hình trụ ở cả dưới cằm. Cả đám giương đôi mắt to đầy van lơn nhìn không rời bất kỳ người nào có lòng trắc ẩn, khẩn nài một chút thức ăn và nước uống. Tôi nghĩ chúng không đủ hiểu biết để nhai tuyết, biến nó thành nước. Mọi dòng suối đã bị đóng băng, các con sông biến mất khiến những con vật tội nghiệp này phải chịu đựng cái khát còn hơn cả cái đói.
Nhưng lúc này cái khát không còn là vấn đề nữa, nguy cơ bị chết đuối đáng sợ hơn nhiều vì một cơn bão lớn đã
đổ bộ kèm theo mưa như trút từ phía tây nam, kéo dài suốt hai ngày ba đêm. Ban đầu, mưa chẳng khiến lớp tuyết dày suy chuyển chút nào, mà chảy xuống theo các con dốc, đóng băng trên mọi mặt phẳng vì mặt đất quá lạnh, khiến chúng tôi phải chống gậy mới có thể đứng vững. Tuy nhiên, sau một thời gian, không khí trở nên ấm hơn nhiều, kéo theo đó là một tình trạng tệ hơn: tuyết trên mái nhà, tảng đá, cây cối rã ra, rơi xuống, khởi nguồn cho những cơn lũ vùng lên, sủi bọt trắng xóa tại những chỗ trũng và mương máng. Những đụn tuyết lâu nay vốn trắng lóa, giờ ngả vàng, dơ bẩn, lầy lội, mất đi những đường cong duyên dáng, những gợn sóng uốn lượn cùng vẻ uyển chuyển. Nhưng đối với tôi, cảnh tượng lạ lùng nhất lại là đáy sông suối, nhất là dòng Lynn. Nếu như phải đi nhiều dặm để chứng kiến một cảnh tượng như vậy thì cũng xứng đáng, vì có thể ta không bao giờ có cơ hội thấy lại nó lần nữa.
Những đụn tuyết khổng lồ chất đống trong thung lũng và trên sông, nhiều nơi cao đến mười lăm mét, vài nơi gần gấp đôi thế. Chúng bị đóng băng ở phần trên cùng, ngạo nghễ nhìn mưa trôi tuột xuống. Trong lúc đó, cơn lũ mỗi lúc một hung hãn, cuộn trào khắp nơi, phá hủy tất cả những gông cùm bằng băng. Bên dưới những mái vòm lớn màu trắng, những đường hầm lỗ chỗ, đầy gợn sóng và giữa những cái cột trong suốt như lối kiến trúc Acsitrap, dòng nước đỏ ngầu chảy dữ dội, bọt nâu cuộn lên bắn tung tóe. Tôi những muốn nhảy ùm xuống bơi trong cảnh lộng lẫy đó vì không có gì làm tôi thích thú bằng việc bơi trong dòng nước đang mùa lũ. Nhưng nghĩ đến những tảng đá ngầm, nguy cơ bị chuột rút và trên tất cả là Lorna, tôi từ bỏ ý định đó.
Giờ là lúc phải làm việc cật lực, phần để bù lại những tổn thất trong mấy tháng sương giá và tuyết, phần để chuẩn bị sẵn sàng đương đầu với cuộc tấn công lớn và khốc liệt của gia tộc Doone, những kẻ sẽ thiêu rụi chúng tôi ngay trong giấc ngủ. Công việc nông trại thì gần như chưa thể làm được gì, cho dù chúng tôi có hăng hái, nhiệt tình đến đâu, bởi vì khi lộ ra bên dưới lớp tuyết, đất vẫn còn quá ướt và nhão - lúc này mà mó tay vào đó thì chỉ lợi bất cập hại. Tuy nhiên, việc trong sân, trong nhà và với bầy gia súc thì đủ để không ai phải “nhàn cư”.
Lorna nhất định đòi ra ngoài cho bằng được. Chẳng còn cớ gì để giữ em trong nhà nữa. Em lý luận rằng chúng tôi đã làm cho em nhiều hơn những gì em có quyền đón nhận, em phải kiếm sống bằng chính đôi tay của mình. Có bảo rằng em không cần phải làm gì cả cũng vô ích; tồi tệ hơn, em khóc lóc buồn bã nếu ai đó cam đoan rằng em chả làm được việc gì. Em thậm chí bắt đầu làm việc trên khu vườn của mẹ trước khi tuyết tan hết, gieo một hàng đậu đẹp, rồi bị bọn chuột chén sạch ngay sau đó.
Cho dù rất thích ngắm nhìn em làm việc chăm chỉ như thể việc nuôi dưỡng gia đình phụ thuộc cả vào sức lao động của em, nhưng tôi đau lòng vì nhiều lẽ, và mẹ cũng vậy. Trước tiên, em quá xinh đẹp nên công việc nhọc nhằn, vất vả không phù hợp với em. Dù nó có làm đôi má em ửng hồng lên thật, nhưng đôi chân nhỏ nhắn bị ướt là một điều rất tệ. Vả lại, chúng tôi không chịu nổi ý nghĩ em phải lao động để đổi lấy thức ăn và chỗ nương thân. Hơn hết, khu vườn của mẹ nằm tênh hênh, phơi mặt về phía một bãi trồng cây làm chất đốt - chỗ ẩn nấp lý tưởng cho bất kỳ kẻ nào muốn quan sát nhất cử nhất động của người làm vườn. Thực ra, không ai có thể tiếp cận được em vì chính giữa là con suối chảy xiết. Mặc dù vậy, khoảng cách ấy đủ để một viên đạn bay thẳng đến Lorna nếu có ai rắp tâm đoạt mạng em. Tôi nghĩ không ai có thể đang tâm làm một việc tàn độc như vậy; nhưng mẹ, có nhiều kinh nghiệm hơn, không chắc về lòng dạ con người.
Bất chấp những cơn lũ, những bãi sình lầy đầy khắp và tình trạng đường sá khiến cho việc đi lại rất khó khăn, nguy hiểm, ngài Faggus rốt cuộc cũng đến trên con ngựa màu dâu tây đình đám. Cậu và Annie tay bắt mặt mừng như thế nào, hẳn quý vị có thể tưởng tượng ra - bốn tháng xa cách cơ mà. Do vậy, chúng tôi để yên cho hai người hàn huyên tâm sự một lúc. Sau khi họ chuyện trò chán chê, hoặc ít nhất là đã đủ, mẹ và tôi đi vào để xem Tom mang về tin tức gì. Dù chưa muốn gặp chúng tôi, cậu vẫn vui vẻ đồng ý. Chúng tôi bảo Annie đi lo cơm nước trong khi người yêu em kể cho chúng tôi nghe mọi chuyện.
Tom Faggus báo một tin vui với nét mặt phấn khích khiến chúng tôi cười vang. Cậu đã mua được từ ngài Roger Bassett một mảnh đất tốt tại giáo xứ Molland. Khi các luật sư biết rõ cậu là ai cũng như cách kiếm tiền của cậu, họ đối đãi với cậu tốt bất thường, đồng thời bày tỏ sự cảm thông sâu sắc đối với nghề nghiệp của cậu. Cậu thông báo cho họ một vài chuyện; họ thúc vào mạng sườn cậu, cười vang, bảo rằng cậu thật là tài. Thế là họ khiến ngài Bassett trả tiền cho cả hai bên; số tiền ông ta nhận về sau khi bán ba trăm mẫu đất là một trăm hai mươi bảng, dù Tom đã trả năm trăm. Nhưng cánh luật sư biết đây là điều bắt buộc, bất kể tất cả những nỗ lực của họ; và quý ông luống tuổi kia, hiện đang chờ hóa đơn để chi trả, thiếu chút nữa nghĩ mình là kẻ xỏ lá.
Đúng là mảnh đất đó nghèo nàn và hoang vu, nằm trên dốc đá, xơ xác vào mùa hè nóng bức. Nhưng với chúng tôi, mùa hè nóng bức chỉ là điều được nghe lưu truyền; chúng tôi thường có nhiều hơi ẩm, nhất là vào tháng Bảy. Tôi từng biết một đợt sương mù kéo dài suốt hai tuần vào thời điểm hạ chí, và cánh nông dân râm ran với nhau trong nhà thờ về nó suốt lúc cầu nguyện. Chẳng biết bằng cách nào đó, nó luôn đến đúng vào phút chót, giống những mối tai họa khác.
Nông trại của ngài Faggus có một đồng cỏ rất xanh tốt vì được tưới tắm lượng nước mưa kha khá. Tom, sau khi cưỡi ngựa khắp những con đường ở Devon, biết rõ rằng cậu có thể tin tưởng vào thời tiết. Cỏ mọc ê hề, xanh mơn mởn, dễ chừng phải cao từ mười đến mười tám phân là ít. Tom lập tức nhận thấy nơi này rất phù hợp với việc chăn nuôi gia súc.
Vốn là người giỏi tận dụng tối đa mọi thứ, của chính cậu và của người khác, Tom thực sự đã biến kiểu thời tiết khác thường thành có lợi cho mình, trong khi chính nó lại khiến mọi người xung quanh khốn đốn. Cậu dạy con Winnie (nó luôn hiểu cậu muốn nó phải làm gì, không chỉ lời nói mà cả ánh mắt) cứ tối đến là ra ngoài. Đó là lúc lũ ngựa (cả ngựa hoang và ngựa nhà) rủ nhau tìm cỏ khô và chỗ trú tuyết. Con Winnie hí gọi những con ngựa hoang (có khi cách nhà nhiều dặm), dẫn cả bầy đang đói mốc meo về đất của chủ nhân nó. Cậu đóng móng đặc biệt cho con Winnie để giúp nó không bị lún trong tuyết và phủ lên lưng nó một tấm da cừu nhuộm màu lông của nó, khiến những con ngựa hoang rất thích sán tới, khụt khịt, xem đó là một món quà đặc biệt và bằng chứng của một cuộc sống mới đầy hứa hẹn. Lần nào trở về, con Winnie cũng dắt theo ít nhất hai mươi con ngựa hoang dè dặt chạy lon ton đằng sau, hết hất đầu lại vểnh đuôi, ra vẻ bất cần, dù đói rã họng. Đương nhiên Tom sẽ lùa chúng vào chỗ nhốt trong vòng năm phút, vì tiếng hí của cậu có thể lôi kéo được con ngựa hoang dại nhất. Rồi cậu cho chúng ăn no nê, chuyển chúng vào chuồng gia súc lớn, cho chúng nghỉ ngơi đến khi tuyết và sương giá chấm dứt.
Theo cách thông minh này, hiện giờ cậu đã có ba trăm con ngựa. Cậu bảo không gì thích thú bằng việc nhìn chúng khụt khịt, giậm chân, cáu kỉnh, vểnh tai, lùi ra sau, quất vào mình chiếc đuôi dài bờm xờm, rung bờm, rít lên, ngã dúi vào nhau, nếu một người lạ đến gần. Ngắm chúng ăn còn thích hơn cả xem năm mươi vở kịch vì chúng thường giở các chiêu trò để lừa người cho chúng ăn và lừa nhau. Khi tôi hỏi làm thế nào cậu kiếm đủ cỏ khô trong tiết trời khắc nghiệt nhường này cho một đàn ngựa lớn chừng ấy, cậu bảo rằng chúng sống bằng rơm với mùn cưa, và cậu thừa biết tôi không hề tin cậu. Đây chính là điều cậu thích - làm cho những người thật thà hoang mang và chứng tỏ được sự khôn lanh của mình. Tuy nhiên, tôi có thể phán xét cậu một cách khắt khe, vì chính tôi là người kể chuyện.
Tôi hỏi cậu định làm gì với đàn ngựa khổng lồ đó, tại sao cậu không dùng trí thông minh của mình để thu phục cả hươu nai luôn. Cậu bảo bắt hươu nai là phạm luật săn bắn, có thể đẩy cậu vào rắc rối, nhưng việc thu xếp cho bầy ngựa thì chẳng khó khăn gì mấy. Chờ đến mùa xuân, cậu sẽ thuần phục chúng, đối xử với chúng như cách chúng muốn, và giữ lại những con tốt nhất để phối giống. Số còn lại, cậu sẽ chuyển về London, nơi cậu biết nhiều lái buôn ngựa. Cậu tin rằng chúng sẽ mang đến cho cậu khoảng mười bảng mỗi con, vì hiện tại người ta đang có nhu cầu lớn. Tôi chúc cậu đạt được ý nguyện. Sau này, thực tế chứng minh là cậu đã làm được như vậy thật.
Rồi cậu lái chúng tôi sang một chủ đề khác: thời gian tổ chức đám cưới cho cậu và Annie. Mẹ nhìn tôi, tôi nhìn mẹ. Tuy nhiên, vì là người có chút hiểu biết, lại chẳng có lý do gì để phản đối thêm nữa bởi giờ đây cậu đã chí thú làm ăn, còn phát đạt nữa, tôi miễn cưỡng bảo chúng tôi chắc chắn sẽ làm theo cách người thượng lưu vẫn làm, đó là cho phép Annie tự quyết định khi nào sẽ rời khỏi nhà.
Vì hiểu biết hơn tôi (giả vờ) nhiều, đồng thời đã chuẩn bị sẵn sàng làm điều mình quyết, cho dù chúng tôi chấp nhận nó một cách miễn cưỡng hay thật tâm, vả lại, nhận thấy chọc tôi giận thì chỉ có nước thiệt, cậu bèn rời khỏi phòng, đi tìm Annie.
Còn tôi đi tìm Lorna, bảo em rằng có cậu họ của tôi đến, hỏi xem liệu em có nghĩ việc gặp cậu là phù hợp không, hay hôm nay em sẽ ăn một mình, do vẫn còn là khách của nhà tôi nên em được tự quyết định làm điều mình thích. Thực lòng, tôi không muốn em ngồi ăn cùng Tom, dù chúng tôi có thể giới thiệu em với cậu. Chẳng phải Tom không biết cách cư xử hay thiếu lịch sự, chỉ là vì sự thành thật của cậu không phải lúc nào cũng như ta mong đợi. Nhưng Lorna tò mò muốn biết con người nổi như cồn đó mặt mũi thế nào, bảo rằng em rất vui khi được dùng bữa với cậu, nếu cậu không phản đối sự có mặt của em bởi em xuất thân từ gia tộc Doone tai tiếng. Vả lại, em bảo nếu em từ chối ngồi dùng bữa với người đã có được lệnh tha từ Đức vua, và hiện giờ là hình mẫu của sự lương thiện, thì không được hay cho lắm, lại còn khiến Annie (lâu nay vẫn đối tốt với em) buồn lòng.
Tôi chẳng phản đối, cũng không thể không công nhận rằng em đúng và sáng suốt khi quyết định như vậy. Sau đó, tôi phát hiện ra mẹ chắc hẳn sẽ rất bực nếu em làm điều ngược lại.
Rồi em rời đi, sau khi vừa cười lỏn lẻn vừa bảo em không thể gặp một người tân tiến, nổi danh như vậy trong chiếc đầm làm vườn, mà phải làm sao để trông xinh xắn hết mức có thể, làm thế chính là dành sự tôn trọng đối với Annie. Quả thực, em đến dùng bữa trong trang phục tinh tươm, đẹp đẽ nhất. Em tìm cách phối màu để chúng hợp với nhau và hợp với em, nhưng là cái hòa hợp trong sự tương phản tinh tế. Lúc em bước vào phòng với khuôn mặt rạng ngời cùng phong thái tự tin, tôi hãnh diện như thể nhà mình được Nữ hoàng Anh viếng thăm.
Mẹ tôi không kìm được lời khen, dù bà biết rằng làm thế không được lịch sự lắm. Lorna trông như một nàng công chúa vì em mặc trang phục đẹp nhất của mình, nhưng có hai thứ khiến Faggus chú ý sau khi cậu cúi chào lịch sự và nhận lại một cái nhún gối duyên dáng từ em. Tom cứ dán cặp mắt táo tợn, sáng quắc vào chúng, hết cái này đến cái kia, cho tới khi mặt Lorna đỏ bừng lên. Nếu cậu không phải là khách nhà tôi thì đã bị tôi hạ đo ván rồi. Một lần nữa, tôi lại sai vì Tom không có ý gì xấu; ánh nhìn của cậu thuần tò mò, nhưng khiến cho ngay cả Annie cũng phát bực. Hai thứ mà cậu nhìn không rời mắt, một là khuôn mặt Lorna (có giá trị nhất), hai là sợi dây chuyền mà ngài Ensor Doone đã cất kĩ cho em.
Không muốn để Lorna thấy thiếu thoải mái, đồng thời để giữ mọi chuyện êm đẹp, tôi tuyên bố bữa ăn đã sẵn sàng, giọng lớn đến mức nửa giáo xứ có thể nghe thấy, khiến mẹ tôi bật cười, mắng tôi. Sau đó là một bữa ăn vui vẻ, ngon miệng (như tôi còn nhớ); phụ nữ được phục vụ trước (như phong cách trên bàn ăn hiện giờ). Thực ra, theo quan niệm của dân lao động, đàn ông (người có giờ giấc cố định) nên được phục vụ trước và tranh thủ thời gian để ăn, còn phụ nữ ăn sau cũng được. Nhưng chúng tôi không bị bó buộc về thời gian nên chẳng viện cái cớ đó để được dùng bữa trước, vả lại, phụ nữ là phái yếu, nên được phục vụ trước. Đó là thói quen của chúng tôi.
Đến giờ, quý vị đã biết Annie là một cô gái duyên dáng, còn Lizzie rất có học thức, nhưng quý vị phải chứng kiến mới thấy được Lorna ăn uống khác biệt như thế nào. Em đưa vào miệng một lượng thức ăn rất nhỏ, và chẳng có vẻ gì là em đang nhai, mặc dù chắc chắn em có nhai chứ. Quả thực, em ăn như thể việc ăn không quan trọng, cứ như em bận suy nghĩ đến những việc khác vậy. Đã có lần tôi miêu tả cho Eliza về cách ăn uống của Lorna, những muốn làm Eliza bực mình để trả đũa em tội ăn nói hỗn hào. Chưa khi nào tôi thành công hơn thế. Cô em của tôi cảm thấy bị xúc phạm kha khá vì chính em cũng đã nhìn thấy cảnh đó, khiến lời bình phẩm của tôi trở nên cay nghiệt gấp mười lần. Tôi không chắc từ hôm đó, liệu em có thôi quý mến Lorna tội nghiệp không. Nếu có thì tôi cũng đáng bị trả giá cho những lời nói mỉa mai của mình.
Tôi sực nghĩ, trong tất cả cách hành xử của con người, mỉa mai là cách hạ tiện, hèn hạ và tầm thường nhất. Nó có thể được xem như bắt nạt, chỉ khác là một đằng bằng lời nói, một đằng bằng hành động. Chỉ có kẻ ngốc mới dùng hai chiêu trò xấu xa ấy để tự nâng mình lên - mà đó là do anh ta nghĩ chứ kỳ thực anh ta vẫn thấp kém trong mắt người khác, vì ai cũng ý thức được một điều rằng chẳng người nào có trái tim bác ái, hoặc tâm hồn quảng đại, có thể hãnh diện với hai lối ứng xử đê hèn ấy. Đương nhiên, đôi khi người tốt có thể mắc sai lầm, anh ta chắc chắn sẽ ăn năn ngay sau đó và tự khinh rẻ bản thân hơn cả kẻ bị mai mỉa.
Bây giờ, các cô gái đã ra khỏi phòng ăn (hôm nay chúng tôi có một bữa ăn kiểu tân thời, Betty Muxworthy phục vụ, Gwenny Carfax rót nước thịt), chỉ còn lại mẹ, Tom và tôi ngồi lại chiếc bàn lớn màu trắng, có rượu mạnh, rượu sơ náp và bình nước nóng. Faggus thình lình lên tiếng, có lẽ là cố tình làm chúng tôi bất ngờ, phòng khi chúng tôi giấu giếm bất kỳ điều gì. “Chị biết gì về lai lịch của cô gái xinh đẹp đó không, chị họ?”
“Không bằng một nửa con trai tôi.” Mẹ đáp, nhìn tôi, mỉm cười dịu dàng. “Khi John chọn im lặng, ngay cả ngựa hoang cũng chẳng thể khiến nó mở miệng.”
“Con có thế đâu, mẹ.” Tôi đáp, giọng phật ý. “Mẹ biết gần như mọi điều về Lorna mà, cũng như con thôi.”
“Mẹ tin là mẹ biết gần như mọi điều về con bé, John, vì con không bao giờ kể sai sự thật. Nhưng vài điều chưa biết có thể là vài điều quan trọng nhất đối với mẹ.”
Tôi không đáp lại, vì sợ sẽ đi xa sự thật, nếu không thì cũng phải nói dối. Chẳng phải là tôi có, hay muốn giữ, bất kỳ bí mật nào với mẹ, thực sự cũng chẳng có bí mật gì. Những việc tôi không kể ra (chỉ vì không muốn mẹ phải suy nghĩ) là cái chết của người bà con của Lorna - Alan Brandir (nếu quả thực anh ta đã chết), việc Marwood de Whichehalse giao du với gia tộc Doone, những lời đe dọa của Carver Doone đến cuộc sống của gia đình tôi, và vài điều nhỏ nhặt khác không cần thiết phải kể.
“Xem kìa!” Faggus mỉm cười vui vẻ. “Hai mẹ con hiểu nhau gớm nhỉ? Giá như tôi có mẹ, cuộc đời tôi đã khác biết mấy!” Cậu thở dài, khiến mẹ tôi xiêu lòng. Rồi cậu lấy ra một chiếc hộp đẹp đựng đầy thuốc lá cuộn, đưa tôi một điếu (hiện giờ tôi đã gia nhập đội ngũ những người nghiện thuốc lá rồi). Tôi đón lấy nó, quan sát cậu để bắt chước.
Khi cả hai điếu thuốc được châm, tôi tận hưởng điếu của mình một cách thông thạo khiến mẹ bất ngờ. Tom Faggus bảo cậu tin chắc đã nhìn thấy mặt Lorna từ nhiều năm trước, lúc em con bé lắm, nhưng không nhớ là ở đâu, sau này cậu sẽ cố nhớ. Cậu bảo cậu không thể nhìn nhầm vì cậu đã đặc biệt chú ý đến đôi mắt em, cho đến nay, cậu chưa từng thấy đôi mắt nào như thế. Tôi hỏi cậu đã từng đánh liều đi vào thung lũng Doone lần nào chưa, cậu lắc đầu đáp cậu xem trọng mạng sống của mình lắm nên không đời nào làm cái việc xuẩn ngốc đó. Rồi chúng tôi ướm hỏi liệu có cách gì khiến trí nhớ của cậu hoạt động không, cậu bảo cậu không biết nữa, trừ phi uống thêm một ly sơ náp.
Sau khi uống thêm rượu, cậu trở nên hoạt bát hơn, thẳng thắn bảo chúng tôi rằng cả hai mẹ con rất dại dột. Cậu nói việc chúng tôi giữ Lorna có thể gây nguy hại không những đến gia súc của chúng tôi, mái nhà trên đầu chúng tôi, mà còn cả mạng sống quý giá của chúng tôi nữa. Suy cho cùng, liệu Lorna có xứng đáng với điều đó không, cho dù là một tuyệt thế giai nhân? Nghe xong, tôi giận phừng phừng, bảo cậu rằng nhan sắc chiếm phần nhỏ nhất trong những điều tốt đẹp nơi em, rằng tôi cảm ơn cậu vì đã đưa ra ý kiến.
“Hoan hô, John Ridd nhà ta!” Cậu đáp. “Đã ngốc thì suốt đời vẫn ngốc. Có thể ta cũng ngốc y như thế, nếu ta rơi vào trường hợp của cậu, John ạ. Tuy nhiên, nhân danh Chúa, đừng để đứa bé không tự lực được đó đi loanh quanh với món đồ có giá trị bằng một nửa hạt này trên người nhé!”
“Cô ấy có giá trị bằng cả hạt này ấy chứ.” Tôi nói. “Có khi còn bằng cả nước Anh nữa. Nhưng trên người cô ấy không có gì đáng giá bằng một nửa đụn rơm khô, chiếc nhẫn tôi tặng cô ấy chỉ có giá…” Nói đến đây, tôi dừng ngang, vì mẹ đang nhìn. Tôi sẽ không bao giờ nói cho mẹ biết tôi đã tốn bao nhiêu tiền để mua nó dù bà đã cố gặng hỏi đến năm mươi bận.
“Chậc, chiếc nhẫn của cậu thì tính làm gì!” Tom Faggus kêu lên khinh miệt khiến tôi khó chịu. “Có ai cố cướp nó, ta cũng chẳng thèm can ngăn. Sợi dây chuyền kia kìa, đồ ngốc ạ. Nó bằng cả nông trại nhà cậu, cộng với tài sản của ông trẻ Ben và cả thành phố Dulverton nữa chứ chẳng đùa.”
“Cái gì?” Tôi nói. “Món đồ bằng thủy tinh tầm thường mà em ấy có từ hồi bé đấy ư?”
“Thủy tinh gì chứ! Kim cương đấy - loại kim cương nhiều mặt tinh xảo nhất ta từng thấy, ta cũng đã từng sờ vào nhiều rồi.”
“Chắc là…” Mẹ kêu lên, mặt bà cũng đỏ như mặt Tom vì phấn khích. “… cậu nhầm rồi, nếu đúng như lời cậu nói thì cô tiểu thư ấy phải biết chứ.”
Tôi vô cùng hài lòng khi mẹ gọi Lorna là “cô tiểu thư” - không phải vì sợi dây chuyền kim cương của em, mà bởi bà cũng cảm thấy như tôi rằng Tom Faggus, một người chẳng thuộc dòng dõi cao quý mà lại ăn nói trịch thượng, thiếu tôn kính, nhất là khi gọi một tiểu thư như Lorna là “đứa bé không thể tự lực”. Đành rằng với cậu, những người thuộc tầng lớp quý tộc chẳng xa lạ gì - cậu từng chặn xe ngựa của họ, ở cùng quán trọ với họ, nhưng cậu chưa từng gặp một tiểu thư quyền quý, vậy nên mẹ và tôi đều cảm thấy lẽ ra cậu phải biết điều hơn, và phải cảm ơn chúng tôi về cơ hội này, tóm lại, lẽ ra cậu phải hành xử khiêm tốn hơn nhiều so với cách cậu đã thể hiện.
“Tin tôi đi!” Tom kiêu ngạo đáp. Annie bảo dáng vẻ ấy “rất quý phái”, nhưng tôi thấy nó có vẻ khá giả tạo. “Tin tôi đi, nhìn kim cương là tôi biết ngay. Tôi sẵn sàng chặn lại một chiếc xe tám ngựa kéo, có bốn kỵ sĩ trang bị súng các bin vì một chiến lợi phẩm như thế. Chúa ơi, những ngày ấy nay còn đâu - những ngày đáng sống ấy. Ôi chao, tôi sẽ không bao giờ còn biết đến cuộc sống như thế nữa. Cuộc sống dưới ánh trăng đẹp biết nhường nào!”
“Này Faggus!” Mẹ tôi cất giọng nghiêm túc, như bà thỉnh thoảng vẫn vậy - thẳng thắn, tử tế với tất cả mọi người. “Trước giờ cậu chưa từng nói với tôi kiểu đó về nghề nghiệp và cuộc sống trước đây của cậu, tôi e là tại rượu.” Bà dừng lại, vì rượu là của bà, còn Tom là khách của chúng tôi. “Ý tôi là thế này: Chẳng biết bằng cách nào đó, cậu đã chiếm được trái tim con gái của tôi, tôi đồng ý cho cậu tiến tới với con bé bởi cậu từng có cuộc sống bất hạnh, và vì thấy cậu quyết tâm làm lại cuộc đời mà không đụng chạm đến tài sản của người khác. Annie là con gái lớn nhà chúng tôi, con gái của một người cha chính trực nhất. Tôi yêu thương con bé hơn tất thảy trên đời, ngoài John.” Mẹ nắm chặt tay tôi để đảm bảo là ít nhất mẹ còn có tôi. “Tôi sẽ không phó mặc cuộc đời của Annie cho một người suốt ngày rong ruổi ngoài đường, làm chuyện sai quấy.”
Sau khi nói xong một hơi dài, mẹ ngả vào vai tôi, khóc đến mức khiến tôi suýt đấm vào mũi Tom, ném cậu và kế tiếp là con Winnie qua cổng. Quả thực, tôi có khuynh hướng hành xử bạo lực khi bị kích động; tôi sẵn sàng thừa nhận điều đó, dù ngay cả kẻ thù của tôi cũng phải thú nhận rằng kích động tôi là việc không hề đơn giản. Nhưng tôi xem sự đau khổ và nước mắt những người thân thiết nhất của tôi là thứ dễ dàng kích động tôi nhất.