Trời đã tảng sáng vào lúc Gil Bahar bắt đầu tỉnh lại. Anh cảm thấy chân tay mình nặng trịch, căng lên. Như thể bị trói nghiến xuống giường.
Nó làm sống lại những hồi ức mơ hồ.
Và rồi cơn hốt hoảng tràn qua, chúng không còn mơ hồ nữa. Hoặc không còn chỉ là hồi ức nữa. Anh có thể cảm thấy những sợi dây thừng bẩn thỉu đang cứa vào hai cổ tay và mắt cá chân mình. Ngửi thấy mùi phân và nước tiểu, mùi đồ ăn và thịt da thối rữa.
Anh nằm úp mặt xuống sàn nhà và hít một hơi dài đầy bụi.
Cơn khát. Cơn khát. Và nỗi kinh hoàng.
Rồi anh bừng tỉnh giấc, nhanh chóng định thần và ráng sức ngồi dậy. Trong cơn hốt hoảng bất thần tràn khắp toàn thân.
“Không sao rồi,” một giọng nói quen thuộc vẳng đến, cùng với đó là một mùi hương quen thuộc vừa dễ chịu vừa đáng lo ngại. “Con an toàn rồi.”
Anh vất vả một lúc mới tập trung được. “Mẹ à?”
Mẹ đang làm gì ở đây thế? Chúng cũng bắt cóc mẹ rồi à?
“Không sao đâu,” bà nhẹ nhàng nói. Gương mặt bà sát gần, nhưng không quá gần. “Con đang ở trong bệnh viện. Các bác sĩ nói con sẽ ổn sau khoảng vài ngày.”
Và rồi nó trở lại. Tâm trí đã bị hành hạ đến bầm dập của anh bắt đầu hoạt động. Lật đật lần mò kho ký ức của mình. Frankfurt. Mọi người, khách bộ hành. Xe buýt. Những gương mặt hành khách nhìn anh trừng trừng. Bọn trẻ con.
Người phụ nữ với cái túi vải. Tên cô ta là gì. Tên cô ta.
“Wie heißen Sie?”1
Một ánh sáng rực rỡ chiếu vào hai mắt anh. Một bàn tay đặt lên đầu anh, giữ anh ngồi im, ghì anh xuống. Kéo hai mí mắt anh mở ra.
“Cái gì?” Gil nói và bắt đầu giãy giụa.
Người phụ nữ đó, một bác sĩ, luống cuống lùi về phía sau.
“Xin lỗi. Tên anh. Tên anh là gì, bitte2?”
Anh phải suy nghĩ mất một lúc. “Gil”
“Trong Gilbert ja3?”
1 “Tên anh là gì?” tiếng Đức
2 Tiếng Đức, có nghĩa là “xin lỗi”
3 Tiếng Đức, có nghĩa là “đúng”
Anh ngừng lại một nhịp trước khi đồng ý. Không thể nhìn vào đôi mắt mẹ anh.
“Họ anh là gì?” Giọng bác sĩ mềm mại nhưng cương quyết, với khẩu âm Đức nặng.
Lần này thì lâu hơn. Tại sao anh lại không nhớ nổi? “Bukhari,” anh buột miệng. “Nasrin Bukhari.”
Cô bác sĩ nhìn anh, rồi quay sang mẹ anh. Cả hai đều tỏ vẻ lo lắng.
“Không, không,” anh nói, cố gắng ngồi dậy. “Tên tôi là Gil Bahar. Tên cô ấy là Tiến sĩ Nasrin Bukhari.”
“Tên tôi là Bác sĩ Gerhardt.”
“Ý tôi không phải là cô. Là người phụ nữ trên xe buýt.” Anh nhìn qua người bác sĩ về phía mẹ mình. “Tôi đang theo dõi cô ta.”
Ellen đang đứng ngay bên cạnh anh. Bà đề nghị những người khác đợi ở ngoài trong khi bà ngồi với Gil. Khi anh cựa quậy, bà đã nhấn nút gọi bác sĩ.
Giờ bà tiến lên phía trước. “Hãy để bác sĩ khám, sau đó chúng ta có thể nói chuyện.”
Bà nhìn thẳng vào mắt Gil, ra ám hiệu rằng anh không nên để lộ ra quá nhiều thông tin trước mặt bất kỳ ai khác.
Anh đồng ý. Thêm vào đó, nhờ thế anh sẽ có thời gian để sắp xếp lại đống hỗn độn trong đầu. Để lọc ra những chi tiết cụ thể. Tại sao cái tên đó, Nastin Bukhari, lại khiến anh khiếp sợ như vậy?
Cô ta là ai?
Bác sĩ Gerhardt khám xong xuôi và có vẻ thỏa mãn. Bà bảo anh rằng anh đã bị chấn thương sọ não nhẹ, gãy xương sườn và có nhiều vết bầm trên cơ thể. “Cộng thêm một vết thương dài và sâu trên bắp đùi. Anh may mắn đấy. Nếu những người xung quanh không kịp thời xử lý vết thương, anh có lẽ đã không toàn mạng. Chúng tôi đã khâu nó lại rồi, nhưng anh cần phải nghỉ ngơi vài ngày.”
Đến khi bà ta bỏ đi, Gil đã tìm được câu trả lời.
Người khiến anh khiếp sợ không phải Tiến sĩ Bukhari. Mà là người đang đứng trong bóng tối sau lưng cô ta.
Ellen nhìn cánh cửa nặng nề đóng lại sau lưng vị bác sĩ, sau đó quay sang con trai mình.
Bà cầm lấy tay anh nhưng bị anh gạt đi. Không phải do anh gay gắt mà chỉ là theo bản năng.
Cũng chính vì thế mà mọi thứ càng tệ hơn.
“Mẹ xin lỗi,” bà bắt đầu, nhưng anh cắt ngang, ra hiệu cho bà cúi xuống. Trong thoáng chốc bà đã nghĩ anh sẽ hôn lên má mình. Nhưng thay vào đó anh thì thầm.
“Bashir Shah.”
Bà quay đầu sang nhìn anh chằm chằm. Đã mấy năm rồi Ellen Adams không nghe cái tên đó. Kể từ những cuộc họp dài dằng dặc với các luật sư doanh nghiệp, khi họ cảnh cáo bà không được phát sóng bộ phim tài liệu điều tra về tay buôn vũ khí người Pakistan này.
Để làm cuốn phim này, phóng viên của họ đã phải mất hơn một năm lặn lội để thu thập thông tin. Việc đó đã gây ra rất nhiều hiểm họa cho gia đình của họ. Nhiều nguồn cấp tin của anh đã biến mất.
Sau những chuyện như vậy thì làm sao mà họ có thể không phát sóng câu chuyện này cho được.
Tiến sĩ Shah phớt lờ các cáo buộc buôn lậu vũ khí, cho dù, một cách hiếm hoi, hắn đã công khai chỉ trích những công kích nhằm vào một công dân Pakistan ngay thẳng. Chúng cũng giống các cáo buộc sai lầm nhắm vào những người tiền nhiệm và những người thầy của hắn, các nhà khoa học hạt nhân Pankistan quả cảm và xuất sắc đã khai mở con đường mới. Những người như AQ Khan.
Tiến sĩ Shah giải thích rằng Pakistan là đồng minh của phương Tây trong cuộc chiến chống khủng bố.
Sự thật hắn là kẻ khủng bố trọng tâm trong bộ phim tài liệu nói trên. Thực sự thì đứng sau lời phản đối lãnh đạm kia của hắn ẩn chứa một sự thật sâu xa hơn nhiều.
Bashir Shah muốn thế giới biết mình là kẻ đi buôn cái chết.
Ellen Adams kinh hãi nhận ra sự thực rằng bà đã vô tình, không quên trả giá kèm vài mạng người, quảng bá cho hắn. Bộ phim tàì liệu giành giải Oscar đã chỉ dẫn cho bọn khủng bố biết phải tìm kiếm vũ khí sinh học ở đâu. Chất clo. Khí sarin gây căng thẳng thần kinh. Các loại vũ khí cầm tay và súng phóng tên lửa.
Và còn tệ hơn thế.
“Hắn có mặt trên xe buýt không?” bà hỏi, ngờ vực.
“Không. Nhưng hắn đứng đằng sau nó.”
“Những quả bom à?”
Lúc này Gil lắc đầu.
“Không phải những quả bom trên xe buýt. Là một thứ khác. Con không biết kẻ nào đứng sau những quả bom.”
“Con đã nói mình đang theo dõi một phụ nữ. Nasrin…” Ellen cố gắng nhớ tên cô ta.
“Bukhari,” Gil đáp. “Một nguồn tin cho con biết rằng Shah đã tuyển mộ ba nhà vật lý hạt nhân người Pakistan. Tiến sĩ Bukhari là một trong số họ. Con muốn biết cô ta sẽ đi đâu. Rằng Shah đang âm mưu chuyện gì. Hắn ở đâu, nếu không còn chuyện gì khác.”
“Nhưng chúng ta biết hắn ở đâu,” Ellen nói. “Hắn đang bị cấm túc ở Islamabad. Đã nhiều năm nay rồi.”
Phía Pakistan cũng rất đề phòng khi kiểm duyệt kỹ càng mọi hoạt động truy cập Internet của Shah. Không giống các tay buôn vũ khí khác, Bashir Shah vừa là một thương nhân vừa là nhà tư tưởng. Hắn sinh ra tại Islamabad nhưng lớn lên tại Anh. Giờ ở tuổi ngoài năm mươi, hắn để lộ ra tư tưởng quá khích trong khi đang nghiên cứu vật lý tại Cambridge, sau đó chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các trang web của chiến binh thánh chiến trên Internet.
Trong khi bày tỏ ngưỡng mộ các nhà vật lý hạt nhân Pakistan thế hệ cũ, hắn ngày càng tin tưởng rằng họ vẫn chưa tiến đủ xa. Như những gì hắn sẽ làm.
Không có ranh giới nào mà Bashir Shah không thể vượt qua.
“Phía Pakistan vừa thả hắn ra vào năm ngoái.” Gil nói
“Họ sẽ không làm thế đâu,” bà nói, lớn giọng, rồi lại hạ giọng xuống trước cái nhìn cảnh cáo từ phía cậu con trai. “Họ không thể,” bà nói, giọng thì thầm nhẹ như tiếng thở. “Phía mẹ sẽ biết nếu có bất cứ chuyện gì như vậy. Họ sẽ không bao giờ giấm giúi làm trò đó sau lưng chúng ta đâu. Chính các đặc vụ Mỹ đã tìm thấy hắn ngay từ đầu.”
“Họ đã không giấu giếm sau lưng chúng ta. Chính quyền trước cũng đồng ý như thế.”
Ellen lùi lại, nhìn con trai mình chằm chằm. Cố gắng hiểu điều anh vừa nói.
Bà bối rối không hiểu tại sao họ lại đang thì thầm. Giờ bà đã hiểu.
Nếu điều con trai bà vừa nói là đúng…
Bà nhìn xung quanh căn phòng như thể mong được thấy Bashir Shah đứng trong góc phòng theo dõi họ.
Tâm trí bà hoạt động hết công suất để cố chắp nối những mảnh ghép lại với nhau. Cố gắng lấp kín những vết nứt, những khoảng trống.
Khi đọc các báo cáo của Bộ Ngoại giao, Ellen Adams đã biết rằng có bao nhiêu diễn viên tồi ngoài kia. Những kẻ chỉ tập trung theo đuổi mục đích của mình mà chẳng quan tâm đến bất cứ ai hay bất kỳ điều gì.
Assad tại Syria. Al-Qurashi của Nhà nước Hồi giáo. Kim Jong Un ở Triều Tiên.
Và cho dù quy tắc ngoại giao không cho phép bà nói thẳng ra, nhưng trong thâm tâm Ellen Adams sẽ bổ sung thêm Ivanov tại Nga vào danh sách này.
Nhưng không một ai sánh được với Bashir Shah. Hắn không chỉ xấu xa, hay quỷ quyệt, như bà của bà có thể sẽ nói. Bashir Shah còn là một con quỷ. Ấp ủ âm mưu tạo ra một Đia Ngục trần gian.
“Làm sao con biết về chuyện giữa Shah và các nhà vật lý hả Gil?”
“Con không nói cho mẹ được.”
“Con phải nói.”
“Đó là một nguồn tin. Con không thể.” Anh ngừng lại, tảng lờ đi ánh giận dữ trong đôi mắt mẹ anh. “Bao nhiêu?”
Ellen hiểu ý anh muốn hỏi. “Vẫn chưa có con số khẳng định, nhưng có vẻ hai mươi ba người chết trên xe buýt và năm người chết dưới đường.”
Những giọt lệ trào lên đôi mắt đen nhánh của Gil khi anh nhớ lại gương mặt của những người đó. Và anh tự hỏi mình có thể làm tốt hơn thế không. Ít nhất anh có thể cướp lấy đứa trẻ khỏi vòng tay của mẹ nó và…
“Con đã cố rồi,” mẹ anh nói.
Nhưng anh tự hỏi chừng ấy liệu đã đủ chưa. Hay phải chăng ý nghĩ an ủi ấy thực sự là một trong những viên đá cuội trải trên con đường xuống Địa ngục?
***
Katherine thay mẹ ngồi trông nom bên cạnh người anh cùng mẹ khác cha của mình khi anh đã ngủ, rồi tỉnh dậy, rồi lại ngủ tiếp.
Anahita cũng đã đến chào Gil. Anh mỉm cười khi nhìn thấy cô và chìa tay ra.
“Anh nghe nói em đã cứu mạng anh.”
“Em ước gì có thể cứu được nhiều người hơn.”
Cô nắm tay anh, thật quen thuộc. Một bàn tay biết hết cơ thể cô, có lẽ còn rõ hơn cả chính bản thân cô.
Họ nói chuyện với nhau một lúc, và khi thấy mí mắt anh trĩu xuống, cô để anh lại một mình.
Suýt nữa thì cô đã cúi xuống hôn lên má anh, nhưng cô đã kìm lại được. Không chỉ vì Katherine đang ở đó, mà là vì cô thấy đây là một hành động không quá thích hợp.
Họ không còn là “người ấy” của nhau nữa.
Vừa ra khỏi phòng, Boynton ra dấu với cô. “Hãy đi với chúng tôi.”
***
“Làm ơn đưa chúng tôi tới hiện trường vụ nổ,” Ngoại trưởng Adams nói với viên tài xế An ninh Ngoại giao khi bà, Boynton, Anahita và Betsy lên xe. “Sau đó đến Lãnh sự quán Mỹ.”
Một xe khác chở các sĩ quan phụ tá và cố vấn đi theo; vây xung quanh hai chiếc xe, cả phía trước lẫn phía sau, là các xe hộ tống của cảnh sát Đức.
“Tôi đã hẹn với ngài Lãnh sự sẽ tới đó trong vòng một giờ,” Boynton nói. “Ông ấy cùng người của mình đang thu thập càng nhiều thông tin càng tốt về chuyện đã xảy ra ở đó. Chúng ta sẽ gặp ông ta, sau đó là các nhân viên an ninh và tình báo Mỹ hàng đầu tại Đức; tiếp theo đó là họp qua video với những người đồng cấp của bà. Đây là danh sách những thành viên sẽ tham dự do phía Pháp gợi ý.”
Ellen xem qua các nước và những cái tên, gạch đi vài cái rồi thêm một cái tên. Bà muốn kiểm soát thật chặt danh sách những người tham dự cuộc họp này.
Trao lại danh sách cho Boynton, bả hỏi. “Xe này có bảo đảm không?”
“Bảo đảm?”
“Đã rà quét sạch chưa?”
“Quét?” Boynton hỏi.
“Làm ơn đừng hỏi lại nữa, trả lời thôi.”
“Vâng, nó bảo đảm, thưa Ngoại trưởng,” Steve Kowakski, người phụ trách chi tiết An ninh Ngoại giao ngồi ở ghế trước nói với lại.
Boynton nhìn thẳng vào bà. “Tại sao?”
“Cậu có thể cho tôi biết điều gì về Bashir Shah?” Bất chấp những bảo đảm, bà vẫn hạ giọng xuống.
“Shah ư?” Betsy hỏi.
Khi đế chế truyền thông của Ellen phát triển vượt mức kỳ vọng, bà đã đề nghị Betsy giã từ bục giảng đến làm việc cùng mình. Trong thế giới thừa nam tính ấy, Ellen cần một đồng minh thân cận kiêm bạn gái tâm tình. Ngoài ra, sự tài giỏi và trung thành của Betsy cũng có thể giúp ích rất nhiều cho bà.
Chính Betsy là người giúp sản xuất bộ phim tài liệu về tay buôn vũ khí.
“Hắn không đứng đằng sau vụ này đúng không?” bà hỏi. “Nói với mình thế đi.”
Ellen thấy rằng Betsy không chỉ ngạc nhiên mà vẫn còn hoài nghi. Và rồi khi Frankfurt vụt qua, nét mặt của bà thoắt chuyển từ nghi ngờ sang lo lắng rồi biến thành một vẻ mặt gần như kinh hoàng.
“Ai cơ?” Charles Boynton hỏi.
“Bashir Shah,” Ellen nhắc lại. “Cậu biết gì về hắn?”
“Chả biết gì cả. Tôi chưa bao giờ nghe nói về người này.”
Anh ta nhìn từ Ngoại trưởng Adams, sang Betsy rồi quay về bà Ngoại trưởng. Anh ta không buồn nhìn Anahita Dahir. Nhưng Ellen thì có. Và bà đã thấy trên gương mặt của cô một biểu hiện tương tự như nét mặt của Betsy.
Tương tự, nhưng không hoàn toàn giống. Khi nghe nhắc đến Bashir Shah, Anahita không chỉ đơn giản là sợ hãi, cô tỏ vẻ khiếp đảm đến cùng cực.
Điều Charles Boynton nhìn thấy là nét mặt của sếp nhằm vào mình. Ellen Adams còn tức giận hơn những khi anh ta thường thấy, cho dù anh ta mới chỉ quen biết bà được một tháng.
“Cậu đang nói dối.”
“Tôi xin lỗi?” anh ta nói, gần như không tin nổi điều mình vừa nghe.
“Chắc chắn cậu phải biết Shah,” Betsy ngắt lời. “Hắn là…”
Nhưng Ellen đã đặt bàn tay lên chân bà để ngăn lại.
“Đừng. Đừng nói thêm nữa.”
“Chuyện này thật lố bịch,” anh ta phản pháo, rồi nhanh chóng nói thêm. “Thưa Ngoại trưởng, tôi thực sự không biết hai người đang nói đến ai. Tôi cũng mới vào Bộ thôi mà.”
Điều này thì đúng. Barbara Stenhauser, với sự phê chuẩn của Tổng thống, đã lựa chọn Charles Boynton làm Chánh Văn phòng cho Ellen.
Hành động này khiến cả hai ngạc nhiên. Thay vì cho phép Ellen tự lựa chọn Chánh Văn phòng cho mình, hay thậm chí là bổ nhiệm ai đó sẵn có trong hệ thống, họ lại cài cắm một sĩ quan phụ tá chính trị hàng đầu từ chiến dịch của mình vào nắm giữ công việc hành chính cao cấp tại Bộ Ngoại giao.
Ellen đã nghi ngờ toàn bộ việc này là một phần trong nỗ lực nhằm làm suy yếu thế lực của bà của Tổng thống Williams. Nhưng giờ bà tự hỏi phải chăng còn một mục đích nào đen tối hơn. Liệu Charles Boynton có thể nào thực sự không biết không? Làm sao cậu ta có thể không biết Bashir Shah? Cứ cho là Shah sống trong bóng tối đi. Nhưng chẳng phải việc của họ là nhìn sâu vào trong cái bóng tối đó hay sao?
“Chúng ta đến nơi rồi, thưa Ngoại trưởng,” Kowalski nói từ ghế trước.
Một đám đông lên đến trăm người đã tụ tập; các hàng rào gỗ đã được dựng lên để ngăn cách họ với hiện trường vụ nổ. Khi bà xuống xe, đám đông quần chúng dõi theo từng bước.
Một sự im lặng đến rợn người bao trùm lên bầu không khí nơi đó, và chỉ bị phá vỡ nhờ tiếng cạch nhẹ khi cửa xe đóng lại.
Chào đón bà là sĩ quan cảnh sát Đức phụ trách nơi này cùng Đặc vụ Tình báo Mỹ cao cấp tại Đức, Trưởng nhánh CIA Scott Cargill.
“Chúng ta không thể tới quá gần,” viên quan chức người Mỹ giải thích.
Gần mười hai tiếng đã trôi qua kể từ khi vụ nổ xảy ra. Mặt trời vừa lên, chiếu sáng lại một ngày tháng Ba lạnh lẽo, ẩm ướt và xám xịt. Ảm đạm và khó chịu. Frankfurt, cái thành phố công nghiệp đó, đang phơi ra vẻ xấu xí nhất của mình. Vốn ngay cả trong những thời điểm tươi tắn nhất trông nó cũng chẳng đẹp chút nào.
Phần lớn trung tâm lịch sử của thành phố đã bị hủy diệt sau những vụ đánh bom thời chiến. Trong khi được xem là một trong những “thành phố kinh tế hạng Alpha,” nói một cách nôm na hơn là một trung tâm kinh tế lớn. Nó thiếu đi vẻ quyến rũ của những thành phố nhỏ hơn, cũng thiếu đi niềm phấn khích và năng lượng tuổi trẻ của Berlin.
Ellen ngoảnh cổ lại nhìn đoàn người đang im lặng tụ tập sau hàng rào chắn sau lưng mình
“Hầu hết là người thân của nạn nhân,” tay sĩ quan người Đức phân trần. Một tấm thảm hoa đã được trải trên nền đất. Gấu bông. Bóng bay. Như thể những thứ này có thể giúp an ủi người đã khuất vậy.
Quả thật chúng có tác dụng đó, theo tất cả những gì Ellen biết.
Bà nhìn vào khung cảnh tan hoang xung quanh. Những mảnh kim loại bị vặn xoắn. Gạch và thủy tinh. Những tấm chăn màu đỏ nằm trên mặt đất. Gần như phẳng lì.
Bà biết cánh báo chí đang quan tâm đến mình. Sẵn sàng ghi lại từng lời bà nói.
Nhưng dẫu vậy, bà vẫn tiếp tục nhìn chằm chằm vào những tấm chăn đang trải la liệt khắp mặt đất tới tận mãi đằng xa, những cơn gió khẽ nhấc nhẹ các góc chăn. Một cảnh tượng gần như có thể nói là rất đẹp, rất thanh bình.
“Thưa Ngoại trưởng?”
Scott Cargill nói, nhưng Ellen vẫn cứ nhìn trân trân về phía trước. Một trong các tấm chăn kia có thể đã phủ lên người Gil.
Tất cả chúng đang phủ lên con cái, cha, mẹ, vợ hay chồng của ai đó. Bạn bè.
Tĩnh lặng quá, chẳng có một âm thanh nào. Trừ tiếng tách tách của máy ảnh giờ đã quen thuộc. Nhắm vào bà.
“Chúng tôi mới chết đây thôi,” bà nghĩ, nhớ lại vần thơ chiến tranh. “Cõi dương đã thấy sớm mai bóng chiều. Đã từng biết được tình yêu…”1
1 Bài thơ “In Flanders Fields” của John McCrae, bản dịch của dịch giả.
Ellen Adams ngoảnh lại nhìn đoàn người, người thân của những người tử nạn. Họ đang nhìn bà. Rồi bà quay lại nhìn những tấm chăn. Chẳng khác nào một cánh đồng hoa anh túc.
“Ellen?” Betsy thì thầm, bước vào giữa bà với đám phóng viên, che chắn cho bạn mình, dù chỉ trong một lúc.
Ellen nhìn vào đôi mắt ấy và gật đầu. Nuốt xuống cơn buồn nôn, dằn xuống nỗi khiếp sợ, Ngoại trưởng Adams biến sợ hãi thành quyết tâm.
“Anh có thể cho tôi biết được gì?” bà hỏi tay sĩ quan Đức.
“Không nhiều, thưa bà. Đó là một vụ nổ kinh hoàng, như bà có thể thấy. Kẻ làm chuyện này, dù có là ai, cũng muốn chắc chắn mình sẽ đạt mục đích.”
“Thế mục đích của hắn là gì?”
Anh ta lắc đầu. Trông anh ta không mệt mỏi lắm cho dù hẳn đã phải làm việc tại đây gần hai mươi tư giờ liên tiếp tới mức kiệt sức.
“Cũng tương tự hai vụ kia, tôi đoán vậy. Ở London và Paris.” Anh ta nhìn quanh, rồi lại nhìn bà. “Nếu bà biết được bất kỳ chuyện gì, xin hãy nói cho tôi.”
Anh ta dò xét bà, và khi chỉ thấy sự im lặng, anh ta nói tiếp: “Theo như chúng tôi được biết, chỗ này chẳng có cái gì mà bất kỳ tổ chức nào có thể coi như mang tính chiến lược.”
Ellen hít một hơi thở sâu rồi cảm ơn họ.
Bà phải hỏi về mục đích của kẻ thủ ác, cho dù bà đã biết trước một phần câu trả lời. Nhưng bà không thể nói với họ về Tiến sĩ Nasrin Bukhari. Nhà vật lý hạt nhân người Pakistan đã có mặt trên chiếc xe buýt. Chưa được. Bà phải biết thêm nhiều thông tin hơn nữa đã.
Bà muốn giữ kín bí mật về Bashir Shah cho riêng mình, ít nhất đến chừng nào bà nói chuyện với những người đồng cấp.
Trước khi quay về xe, Ellen liếc nhìn lại một lần cuối, thật lâu. Phải chăng tất cả âm mưu này chỉ nhằm để giết một người?
Và như viên sĩ quan người Đức đã nói rất ngắn gọn, mục đích ở đây gần như chắc chắn tương tự như ở London và Paris. Có nghĩa là...
“Chúng ta cần quay về Lãnh sự quán,” bà nói với Boynton.
Nói vậy nhưng Ellen dừng chân ở chỗ hàng rào chắn để trò chuyện với những người thân của nạn nhân ở đó. Nhìn những bức ảnh họ nắm trong tay. Ảnh những đứa con trai và con gái, những người mẹ và người cha, chồng và vợ. Mất tích
“Nếu bị phản bội niềm tin, chúng tôi sẽ chết chẳng thể nào nhắm mắt...”
Ellen Adams không có ý định phản bội niềm tin của bất kỳ ai. Nhưng khi ngồi trong chiếc xe phóng vút qua Frankfrurt lúc mờ sáng, nhìn Charles Boynton và Anahita Dahir; thốt nhiên, bà tự hỏi phải chăng bà đã phản bội niềm tin ấy.