Irfan Dahir nhấc máy lên và mỉm cười.
“Dorood, Anahita. Chetori?
Không có lời hồi đáp, nhưng rồi ông nhận ra con gái mình đang ở Frankfurt. Đường dây nối với nước ngoài thi thoảng lại bị chậm.
***
Từ Farsi1 xuất hiện dưới cùng trên màn hình của Ellen trong phòng boong ke tại Frankfurt, do máy biên dịch viết ra.
1 Có nghĩa là: tiếng Perisna (Ba Tư).
Tiếp theo nhiều từ nữa xuất hiện nhanh chóng: Xin chào, Aanhita. Khỏe không?
Ellen nhìn Anahita rồi gật đầu, ra hiệu cô nên trả lời. Nhưng người phụ nữ trẻ có vẻ như đã hoàn toàn suy sụp. Tê liệt.
“Ana?” giọng nói trầm, ấm áp giờ đã pha thêm chút lo âu, vang qua loa. “Halet khubah?”
Con có ổn không? Máy biên dịch viết.
Ellen ra hiệu với Anahita nên nói gì đó. Gì cũng được.
“Salam,” cuối cùng cô nói.
***
Irfan cảm thấy tim mình như ngừng đập, rồi nó thúc mạnh vào lồng ngực của ông. Như đang cố lao ra khỏi đó.
“Salam.” Ông đã dạy từ này cho con gái mình từ lúc cô bé đủ trẻ để bắt đầu tập nói, nhưng cũng đã đủ lớn để hiểu chuyện.
“Xin chào” – nhưng bằng tiếng Ả Rập. Ông từng giải thích cho cô con gái bé bỏng nghiêm túc của mình rằng đó sẽ là mật mã giữa hai cha con. Nếu có rắc rối, nếu bất kỳ kẻ nào phát hiện ra bí mật của gia đình mình, hãy sử dụng từ “Xin chào” bằng tiếng Ả Rập. Không phải tiếng Ba Tư.
Ông quay đầu nhìn cửa sổ phòng khách, đối diện con phố tĩnh lặng.
Một chiếc xe màu đen, không có dấu hiệu gì bên ngoài, tiến lên lối xe vào nhà; còn một chiếc khác đỗ bên vệ đường.
“Irfan?” vợ ông nói khi bước ra từ nhà bếp, mang theo mình mùi hương của bạc hà, thìa là và rau mùi từ món kaftas bà đang làm. “Ở sân sau có người kìa.”
Ông thở hắt ra, một hơi thở đã bị kìm nén suốt mấy thập niên.
Lại áp điện thoại lên tai, ông nói, bằng thứ tiếng Anh có pha nhẹ chút khẩu âm địa phương, “Bố hiểu Anahita, con không sao chứ?”
***
“Bố,” cô đáp, mặt méo xệch, để lộ chiếc cằm chẻ. “Con xin lỗi.”
“Không sao đâu. Bố yêu con. Rồi mọi chuyện sẽ ổn cả thôi. Bố biết mà.”
Lắng nghe người đàn ông cao quý này, và nhìn cô con gái tuyệt vọng của anh ta, Ellen Adams cảm thấy một cảm giác xấu hổ trào lên trong lòng. Nhưng rồi bà nhớ lại những tấm chăn màu đỏ lay động trong cơn gió nhẹ, các tấm ảnh những người con trai và con gái, những người vợ, người chồng và những đứa con, níu chặt lấy nhau bằng những đôi bàn tay run rẩy.
Bà không còn cảm thấy xấu hổ nữa. Mà là căm giận. Ellen Adams sẽ không phản bội niềm tin của những người đã khuất.
Họ nghe thấy một hồi chuông cửa phía xa vẳng qua loa.
***
Irfan Dahir ra hiệu cho vợ, lúc này đang đứng im ngay giữa phòng, rằng cứ ở yên đó.
Cánh cửa bật tung ra ngay khi ông vừa mở xong khóa và bắt đầu mở cửa. Một toán lính vũ trang lao vào túm chặt lấy và, quật ngã ông xuống sàn nhà giữa lúc ông còn đang loạng choạng lùi về phía sau.
“Irfan!” người vợ thét lên thảng thốt.
***
Đôi mắt Anahita trợn tròn trong hốt hoảng.
“Bố? Mẹ?” cô kêu lên trong điện thoại. “Có chuyện gì vậy?”
Tay lính dằn mạnh đầu gối, vốn đang tì lên lưng Ifran, ép cạn chút không khí cuối cùng trong lồng ngực ông, rồi mới nhấc chân ra.
Lảo đảo đứng dậy, ông cảm thấy mình đang bị kéo đi như một con búp bê rách.
“Irfan Dahir đúng không?”
Ông quay người lại tập trung nhìn người đàn ông lớn tuổi mặc thường phục đang đứng phía sau mình. Mày râu nhẵn nhụi, mái tóc xám cắt ngắn, mặc complet và đeo cà vạt. Trông ông ta giống hiệu trưởng của một trường trung học, Iran nghĩ trong trạng thái hơi bối rối.
“Vâng,” ông thì thầm, giọng khàn khàn.
“Anh đã bị bắt.”
“Vì tội gì?”
“Giết người.”
“Cái gì?”
Sự kinh ngạc của ông truyền qua đường dây điện thoại, băng ngang đại dương Atlantic, rồi tới Lãnh Sự quán Mỹ tại Frankfurt, nơi nó lọt vào đôi tai của con gái ông. Và bà Ngoại trưởng Mỹ.
***
Betsy Jameson mang cốc espresspo đậm đặc của mình đến chiếc bàn cà phê tròn nằm trong góc. Ngoài ra bà còn mang theo cả bánh nướng xốp. Một lý do cho thấy bà cần ngồi bàn, ngay cả cho dù nơi này gần như chẳng có ai.
Nhưng ít nhất nó là khu vực công cộng.
Tên thanh niên kia không buồn che giấu bản thân nữa. Rõ ràng hắn đang theo dõi bà. Bà sờ thấy chiếc điện thoại, vẫn nằm trong túi áo khoác. Lấy nó ra, bà nhìn chằm chằm số điện thoại trong đó. Gần như chắc chắn nó thuộc về Đại tá Phelan, Biệt kích Mỹ, do Tướng Whitehead cử đến.
Ngón tay bà ngập ngừng trên nút gọi.
“Đừng ngần ngại,” Deniste Phelan đã nói vậy với đôi mắt vô cùng chăm chú.
Nhưng giờ thì Betsy thấy ngại. Làm sao bà biết viên nữ Biệt kích đó là do ông Chủ tịch Hội đồng Tham mưu Trưởng Liên quân gửi đến? Bà chỉ nghe Phelan nói như vậy. Và với một ngày như hôm nay thì những lời ấy chưa đủ đảm bảo.
Bà hạ quyết tâm. Bỏ tọt điện thoại vào túi. Betsy lấy chiếc điện thoại cá nhân của mình ra rồi bấm số. Sau một hồi chuông dài dằng dặc, một giọng nam trầm cất lên từ đầu dây bên kia.
“Bà Jameson à?”
“Vâng, tôi xin lỗi đã quấy rầy ngài, thưa Đại tướng.”
“Tôi có thể giúp gì cho bà không?”
“Chúng ta chưa từng gặp…”
“Đúng, nhưng tôi biết bà là ai. Bà có nhận được bưu kiện của tôi không?”
Betsy thở phào. Nhẹ nhõm nhưng bất ngờ thấy kiệt sức.
“Vậy đúng là ngài đã cử cô ấy đến.”
“Vâng. Nhưng bà rất thông minh khi kiểm tra trước. Có vấn đề gì không?”
“À…” Giờ bà thấy xấu hổ. Nhưng khi nhìn gã đàn ông vẫn đang ngồi nhìn phía bên kia quán cà phê, bất kỳ nỗi ngượng ngùng nào cũng đều tan biến. “Tôi đang tự hỏi liệu ngài có thời gian để cùng uống với tôi một ly không?”
“Chắc chắn rồi. Khi nào và ở đâu thế?”
Ông ta đồng ý ngay tắp lự đến nỗi Betsy vừa thấy an tâm vừa thấy rắc rối. Rõ ràng là ông ta đang lo lắng.
Bà trả lời câu hỏi của viên tướng, rồi lên một chiếc taxi, cho tài xế địa chỉ của một khách sạn bất kỳ. Sau đó, bà xuống xe, đi bộ tới một cánh cửa bên, rồi vẫy một chiếc taxi khác. Một mánh “cắt đuôi” mà bà đã học được từ trên phim ảnh. Chưa bao giờ bà tưởng tượng mình sẽ áp dụng cái mánh này trong đời thực.
Trước sự kinh ngạc của bà, nó dường như hiệu quả.
Vài phút sau, bà bước vào quán Off The Record. Quán bar nằm dưới tầng hầm của Khách sạn Hay-Adams này là một điểm đến quen thuộc đối với dân Washington, với những ánh đèn mờ ảo và mặt ghế bọc thảm nhung đỏ thẫm
Đối diện Nhà Trắng ngay bên kia đường, những góc tối của quán bar này là nơi các phóng viên và sĩ quan phụ tá chính trị tụ tập và thì thầm đủ thứ chuyện. Nơi những điều tuyệt mật được trao đi đổi lại, những thương vụ được giao dịch.
Bên trong Vành đai được xem là vùng trung lập.
Betsy chọn một trong hai ngăn riêng tư có hình trăng khuyết rồi ngồi nhìn ra cửa chờ viên Đại tướng, đồng thời cũng nhằm để mắt theo dõi kẻ bám đuôi.
Bà phải mất một lúc mới nhận ra Đại tướng Whitehead khi ông ta đến. Thực tế là chính ông ta lướt vào trong khoang và cất lời chào .
Nếu Betsy trông giống hệt June Cleaver thì người đàn ông này trông hơi giống Fred MacMurray, một nhân vật trong bộ phim Ba đứa con trai của tôi1. Gầy gò, lêu nghêu và nhân hậu. Một kiểu người hợp với chiếc áo len đan mặc nhà hơn là quân phục.
1 My Three Sons, một bộ hài kịch tình huống của Mỹ vào những năm 1960.
Betsy từng trông thấy ông ta trên ti vi nhiều lần, và thấy tận mắt từ khoảng cách xa, nhưng họ chưa bao giờ thực sự gặp mặt. Bà cũng chẳng hề mong muốn gặp gỡ người đàn ông này, cho đến tận bây giờ.
Betsy Jameson từng giữ thái độ hoài nghi với những người thuộc cấp bậc cao trong quân đội, bà tin rằng tận trong thâm tâm họ là những kẻ hiếu chiến. Và không còn ai giữ chức vụ cao hơn Chủ tịch Hội đồng Tham mưu Trưởng Liên quân.
Và không còn ai xứng đáng với sự nghi ngờ của bà hơn Đại tướng Whitehead, người còn phục vụ cả chính quyền Dunn.
Nhưng Ellen đã tin tưởng ông ta. Và Betsy tin tưởng Ellen. Thêm nữa, bà không còn biết phải dựa vào ai.
***
Trực thăng hạ cánh, Cargill chạy hết tốc lực tới chiếc xe đang chờ sẵn.
Anh ta gửi một tin nhắn nhanh cho Ngoại trưởng.
Đã hạ cánh xuống Bad Kötzting. Đang trên đường đến nhà. Sẽ cập nhật sau.
***
Một chiếc máy quay đã được chuẩn bị sẵn sàng, và giờ Anahita, tại Frankfurt, thấy bố mẹ mình đang ngồi cạnh nhau bên bàn ăn tối của gia đình tại Bethesda.
Cô đã quá quen thuộc với căn phòng này. Đó là nơi những buổi lễ sinh nhật được tổ chức. Là nơi gia đình cô tận hưởng những bữa ăn ngày lễ với bạn bè. Nơi cô ngồi làm bài tập hàng ngày suốt mười lăm năm qua.
Nơi cô đã vạch lên mặt bàn những chữ cái đầu tiên trong tên của những chàng trai mà cô xao xuyến.
Mẹ cô đã đánh đòn cô vì làm thế.
Và giờ cô đang chứng kiến một cảnh tượng cô những tưởng sẽ không bao giờ phải thấy. Giám đốc Cục Tình báo Quốc gia Mỹ ngồi cùng cha mẹ cô tại chiếc bàn khiêm tốn đó. Nhưng sự kiện này chẳng giống chút nào so với những tình huống xã giao thông thường.
Tim Beecham dò xét nhà Dahir, Ngoại trưởng Adams cũng vậy. Gương mặt họ lộ màu trắng xóa do ánh đèn công suất cực mạnh của máy quay. Nhưng có một thứ không thể tẩy xóa hết được.
Họ khiếp sợ. Họ sợ hãi như thể đang ngồi đối diện họ là Giám đốc Sở Cảnh sát mật của Iran vậy.
Ellen cố gắng xua đi hình ảnh so sánh này, nhưng nó không ngừng quay trở lại, dưới hình dáng của Abu Ghraib và Guantánamo cũng như một loạt các trang web đen bà mới biết đến trước đây không lâu.
“Nói cho chúng tôi nghe những gì anh biết về các vụ đánh bom vừa xảy ra,” Tim Beecham nói.
“Các vụ ở châu Âu à?” Maya Dahir hỏi.
“Còn những vụ khác nữa sao?” DNI gặng hỏi.
Lúc này bà Dahir có vẻ bối rối.
“Không, ý tôi là tôi không biết.”
“Một trăm mười hai người đã chết và đây vẫn chưa phải con số cuối cùng,” Beecham nói, hướng ánh mắt nhìn trừng trừng từ Maya sang Irfan. “Hàng trăm người khác bị thương. Và manh mối chỉ thẳng đến ông đấy.”
“Tôi ư?” Irfan Dahir có vẻ thực sự kinh ngạc. “Tôi chẳng liên quan gì cả. Không gì hết.”
Ông quay sang Maya tìm sự ủng hộ. Trông bà cũng choáng váng tương tự, và cũng khiếp sợ tương tự.
“Nhưng em trai ông, Behnam thì có đấy,” Beecham nói. “Có lẽ ông nên hỏi cậu ta đi.”
Irfan nhắm mắt lại và hắng giọng. “Behn,” ông thì thầm, “chú đã làm gì thế này?”
***
Tại Frankfurt, Anahita ngồi cạnh bà Ngoại trưởng và nhìn chằm chằm vào màn hình.
Tất cả những chuyện này dường như không thể xảy ra.
***
“Kể cho chúng tôi nghe về gia đình ông tại Tehran, ông Dahir.”
Sau khi mất một lúc để trấn tĩnh, Irfan bắt đầu nói. Nói ra những lời mà ông đã đào sâu chôn chặt hàng thập niên.
“Tôi có một em trai và chị gái vẫn còn ở Tehran.”
“Bố?” Anahita nói.
“Chị gái tôi là một bác sĩ,” ông nói tiếp, nhưng chưa sẵn sàng và cũng không thể nhìn vào mặt con gái mình. “Em trai tôi là một nhà vật lý hạt nhân. Cả hai đều trung thành với chế độ.”
“Còn hơn cả trung thành đấy,” Tim Beecham nói. “Chúng tôi có những bức ảnh chụp em trai ông đang dí súng vào đầu một nhà ngoại giao Mỹ cấp cao khi các con tin bị bắt.”
“Chuyện đó lâu lắm rồi. Nó và tôi rất khác nhau.”
Beecham rướn người về phía trước. “Có thể không hoàn toàn giống nhau đâu. Cái này trông có quen không?”
Ông ta giơ lên một tấm ảnh báo chí mờ tịt, nhưng dòng chữ bên dưới vẫn còn đọc được.
Các sinh viên bắt giữ những người Mỹ làm con tin tại Tehran.
“Thế nào, ông Dahir?”
Giá như Irfan Dahir có thể nói, Tôi tiêu rồi thì hẳn ông sẽ nói. Và đúng vậy.
Tim Beecham đã nói thay ông.
“Ông tiêu rồi, ông Dahir. Trong bức ảnh này chính là ông đúng không. Bên cạnh em trai ông.”
Irfan nhìn chằm chằm, đôi vai ông rũ xuống. Ông không biết là có một bức ảnh như thế tồn tại. Thậm chí ông còn cố quên đi sự tồn tại của cậu thanh niên trẻ đang giơ súng trường lên quá đầu mừng chiến thắng. Đã từng tồn tại.
“Vâng. Đúng vậy.” Ông thở ra mấy hơi nông và dồn dập, như thể vừa kết thúc một cuộc chạy đua dài quá dài. Và xa quá xa.
“Theo hồ sơ của chúng tôi, ông đã không hề rời khỏi Iran trong hai năm tiếp theo. Không phải là hành động của một người đàn ông phải trốn chạy suốt cả cuộc đời.”
Irfan cân nhắc một lúc trước khi lặng lẽ nói. “Ngài có biết câu “gần vua như gần cọp” không, ngài Beecham?”