“Cút đi.”
Betsy đưa khăn tay lên che mặt cố gắng ngăn mùi khó chịu.
“Cậu Hamilton?”
Im lặng.
“Pete Hamilton? Tôi à…” - bà nhìn vào tấm danh thiếp nhàu nát trong tay - “cần một người PR.”
“Vào lúc nửa đêm à? Cút.”
“Chuyện khẩn cấp.”
Im lặng. Rồi tiếng ghế nghiến cót két trên sàn gỗ.
“Làm sao bà tìm được tôi?” Giọng nói lúc này vẳng sang từ phía bên kia cửa.
“Cậu phục vụ quầy bar quán Off the Record đưa cho tôi địa chỉ này. Hôm nay tôi đã thấy cậu ở đó.”
“Bà là ai?”
Trên đường tới đây, Betsy đã tự hỏi mình sẽ trả lời câu hỏi này thế nào.
“Tên tôi là Elizabeth Jameson. Bạn bè thường gọi tôi là Betsy.”
Nếu bà muốn, nếu bà cần cậu ta nói thật, thì bà cũng cần phải thật thà. Khởi đầu bằng một lời nói dối sẽ chẳng hay ho gì.
Bà nghe thấy một, hai, ba tiếng xoay ổ khóa và một cái chốt được rút ra. Rồi cánh cửa bật mở.
Betsy gồng mình lên chờ đợi một làn sóng bốc mùi phả vào mặt. Nhưng phải mất tới vài nhịp thở bà mới nhận ra nơi này không hề bốc mùi chút nào. Hoặc, chính xác hơn, nó có mùi của kem cạo râu. Thứ mùi nam tính dễ chịu phảng phất.
Và mùi bánh nướng. Cụ thể hơn là bánh quy sô-cô-la.
Bà đã tưởng tượng ra cảnh đứng trước mặt mình là một người đàn ông có đôi mắt nhòe nhoẹt, lấm lem vết nôn và mặc một bộ đồ lót bùng nhùng, bẩn thỉu. Bà đã chuẩn bị tâm lý trước. Thực ra, phần lớn quãng thời gian thơ ấu của bà đã chuẩn bị cho điều đó.
Nhưng Betsy Jameson chưa hề sẵn sàng cho điều này.
Đứng trước mặt bà là một Pete Hamilton mày râu nhẵn nhụi, đôi mắt sáng, mặc một bộ đồ nỉ phẳng phiu như vừa được là xong. Mái tóc đen sẫm của cậu ta vẫn còn ướt do vừa mới tắm.
Cậu ta chỉ cao hơn bà một chút và hơi tròn người. Không quá đầy đặn nhưng đủ để khiến các đường nét trên cơ thể trông có vẻ mềm mại. Với gương mặt bầu bĩnh, trông cậu ta chẳng khác nào hình ảnh đứa bé thường được in trên những tấm áp pích quảng cáo của hãng Gerber Baby.
“Bà là cố vấn.”
“Đúng vậy. Và cậu là cựu thư ký báo chí.”
Cậu ta bước tránh sang bên. “Tốt hơn bà nên vào nhà đi.”
Cánh cửa dẫn vào một phòng khách nhỏ với các bức tường sơn màu xanh xám dịu mắt. Các sàn gỗ trông như thể đã được phủ cát và sửa lại.
Trong phòng là một chiếc xô pha có thể dùng làm giường ngủ, và một chiếc ghế bành. Trên cái bàn cạnh cửa sổ là chiếc laptop đang mở, đặt bên cạnh một tập tài liệu. Cùng với đó là một cốc nước và một cái bánh quy.
Trong góc phòng là một khu bếp nhỏ.
Bà đã phải mất vài giây để có thể thu vào đầu cảnh tượng trước mắt mình. Trong lúc đó, bà nghe thấy tiếng những ổ khóa đang được khóa lại.
“Bà muốn gì?” cậu ta hỏi. “Tôi đoán chắc không phải một nhân viên PR rồi.”
“Phải, tôi cần một nhân viên PR. Cụ thể hơn là tôi cần cậu.”
Cậu ta nhìn bà chằm chằm rồi mỉm cười.
“Để tôi đoán nhé. Chuyện này có liên quan tới các vụ nổ xe buýt.” Cậu ta nghiêng đầu. “Bà không nghi ngờ tôi đúng không?”
Cậu ta mỉm cười với bà, một nụ cười hiền hậu như thể cậu ta đang đứng trên bục diễn thuyết và tuyên truyền những lời nói dối của Dunn. Rất dễ để khiến người ta mềm lòng. Betsy đã phải rất vất vả mới duy trì được tâm thái phòng vệ của mình.
Nhưng bà lo rằng mình đã cầm chắc phần thua khi phải đối mặt với thiên thần thơ ngây và mùi bánh quy sô-cô-la đang tràn ngập khắp căn phòng. Và rồi bà nhớ lại gương mặt của các gia đình nạn nhân tại Frankfurt và lấy lại thái độ đề phòng.
“Tôi nghĩ cậu có thể giúp được tôi, cậu Hamlton.”
“Tại sao tôi lại muốn làm như vậy?”
Bà nhìn quanh căn hộ, rồi ánh mắt dừng lại ở hai mắt cậu ta.
“Bà nghĩ tôi ghét phải ở đây và mong mỏi được trốn thoát à?” Cậu ta nói. “Có thể không giống lắm, nhưng đây là nhà của tôi. Và đây thực sự là một cộng đồng, với những con người tuyệt vọng nhưng tốt bụng. Tôi hoàn toàn thích hợp với nơi này.”
“Nhưng sẽ rất tốt nếu có sự lựa chọn đúng không? Tôi nghĩ đó là thứ cậu hằng mong mỏi. Chẳng phải tất cả chúng ta đều thế sao. Cậu có thể lựa chọn sống ở đây, nhưng không có nghĩa là phải sống ở đây. Như tôi đã nói, chiều hôm nay tôi đã gặp cậu ở quán Off the Record. Cậu có vẻ say bí tỉ. Luộm thuộm, thảm hại.”
“Bà cần một nhân viên PR,” cậu ta nói, và bà mỉm cười.
“Tại sao cậu lại tỏ ra như vậy?”
Khi cậu ta không trả lời, bà bước ngang phòng tới cái bàn và nhìn xuống các tờ giấy cạnh máy tính của cậu ta. Bà chỉ kịp liếc qua trước khi cậu ta lấy bàn tay đè lên.
“Làm ơn về cho.”
“Cậu đang viết sách à. Về Dunn.”
“Không. Làm ơn về cho. Tôi không giúp bà được.”
Bà nhìn thẳng vào đôi mắt đen của cậu ta. “Cậu không phù hợp ở đây chút nào cả.”
Cậu ta khịt mũi. “Đám Dân chủ tinh anh các bà đều cùng một giuộc cả. Bà giả vờ quan tâm tới những người bị áp bức nhưng trong thâm tâm lại khinh bỉ họ.”
Bà nhướng mày. “Cậu hiểu nhầm tôi rồi. Cậu đã nói hàng xóm của mình là những người tốt bụng. Đó là lý do tại sao cậu lại không thích hợp với nơi này. Cậu chẳng tốt bụng tẹo nào. Tôi đang cho cậu cơ hội tìm ra kẻ chịu trách nhiệm những vụ nổ bom đó. Thậm chí là ngăn chặn một vụ khác. Thế mà tất cả những gì cậu quan tâm là cuốn sách của mình, sự trả thù của mình.”
“Đó không phải trả thù, mà là công lý. Tôi không viết sách, mà đang cố gắng tìm kiếm bằng chứng.”
“Về cái gì?”
“Về thứ chúng đã gây ra cho tôi. Về kẻ đã làm chuyện này.”
***
“Thưa Bà Ngoại trưởng?” Charles Boynton đứng ngay bên trong cabin của máy bay Không Lực Ba. “Họ đã sẵn sàng tại Tehran. Họ chỉ đợi mệnh lệnh từ bà. Bà có muốn liên hệ với ngài Beecham không?”
“Không cần thiết đâu.”
“Nhưng…”
“Cảm ơn, Charles. Cậu có thể mời cô Dahir và Katherine vào đây không?”
Sau khi anh ta rời đi, Ngoại trưởng Adams sử dụng chiếc điện thoại chống nghe lén để gọi.
Tay đặc vụ tại Tehran cảm thấy rất ngạc nhiên khi nghe thấy giọng nói của Ngoại trưởng Mỹ.
“Mọi người vào vị trí hết chưa?” Bà hỏi.
“Rồi ạ, thưa bà Ngoại trưởng. Chúng ta có thể thấy Ahmadi vẫn đang ở nhà. Có lẽ cô ấy sắp rời khỏi nhà và đến trường.”
“Cậu có chắc là an ninh Iran sẽ không lần ra được không?”
Người phụ nữ ở đầu dây bên kia bật cười nhẹ. “Chắc chắn là không. Nhưng chúng ta cũng cần phải hành động nhanh. Càng chờ lâu, cơ hội để họ phát hiện ra càng lớn.”
Ellen dừng lại, nghĩ tới Scott Cargill. Nghĩ tới một đặc vụ tình báo. Đã bị bắn hạ vài tiếng trước tại Bad Kötzting.
Những con người này mới dũng cảm làm sao, trong khi bà nhàn nhã ngồi trên máy bay, thưởng thức cà phê nóng và bánh quy và hương thơm từ hoa đậu.
“Làm đi. Cầu Thánh Allah phù hộ mọi người.”
“Inshallah.”
***
“Tôi có thể dùng phòng tắm của cậu được không?” Betsy hỏi.
Khi quay lại, bà thấy cậu ta đang pha trà ở trong bếp, đặt đĩa bánh quy lên trên quầy. Cậu ta hất đầu về đĩa bánh.
Bà cầm đĩa bánh lên và lấy một cái rồi bước đến chiếc ghế bành. Chiếc giường đã được chỉnh lại thành xô pha.
“Tôi có phải là nguồn gốc không?” Cậu ta hỏi khi đến ngồi cạnh bà, đưa tay về phía ấm trà. Rót cho bà một cốc trà, cậu ta nói. “Để tìm thứ bà đang tìm kiếm?”
“Thực ra” - bà nhận cốc trà - “không phải thế.”
Không có bất cứ loại thuốc nào ngoài aspirin. Giờ thì bà không cảm thấy ngạc nhiên nữa. Người đàn ông này không phải là một kẻ nghiện rượu như cậu ta muốn người khác thấy.
“Tôi cần một tay trong, cậu Hamilton. Ai đấy biết nhiều chuyện, người có thể tìm hiểu mọi chuyện và sẵn sàng trao đổi.”
“Về những quả bom trên xe buýt? Tôi chẳng biết tí gì về chúng cả.”
“Về những bí mật nhỏ bẩn thỉu của chính quyền Dunn.”
Đáp lại là sự im lặng.
“Tại sao tôi lại phải làm thế?” Cuối cùng cậu nói.
“Bởi vì cậu đang cố gắng đào sự thật lên.”
“Không, tôi chỉ đang cố tìm ra bằng chứng thôi.”
“Tôi có thể ăn thêm không? Chúng ngon tuyệt.” Bà hất đầu về phía bánh quy.
“Bà có muốn ăn sandwich không? Bà có đói không?”
Bà mỉm cười “Không, tôi ổn. Nhưng cảm ơn cậu.” Bà nghiêng người về phía cậu ta. “Chúng đã làm gì cậu?”
Khi cậu ta im lặng, bà quyết định giúp đỡ cậu ta.
“Chúng đã sa thải cậu mà không có lý do, vì vậy chúng phải nghĩ ra lý do. Chúng ngụy tạo các bức thư điện tử, các tin nhắn, thứ gì đó cho thấy cậu là một kẻ nghiện.”
Bà vừa nói vừa quan sát cậu ta. Cậu ta cụp mắt xuống. Không, bà nghĩ, còn nhiều nữa. “Vì tội lỗi của con đã đong đầy..."
“Có kẻ đã nói rằng cậu đang buôn lậu.”
Cậu ta ngước mắt lên, hít một hơi dài, thật sâu. “Tôi không buôn lậu.”
“Nhưng cậu đã từng nghiện thuốc.”
“Ai mà chưa từng? Tôi chỉ là một đứa nhóc, đó là một dạng chiết xuất từ martini. Nhưng tôi không…”
“.. hít vào?”
Cậu ta mỉm cười. “Tôi không buôn lậu. Sẽ không bao giờ buôn lậu. Và tôi cũng chẳng hút loại thuốc nào mạnh hơn cỏ. Nhưng chúng nói nghe như kiểu tôi là cái thằng nghiện nguy hiểm cho chính quyền ấy, đến nỗi có thể bán cả bí mật quốc gia để kiếm thuốc. Rằng tôi là mối nguy hiểm cho an ninh quốc gia.”
Đôi mắt cậu ta lúc này như lời van xin đối với bà. Không, không phải bà. Betsy nhận ra, cậu ta nhìn bà, như nhìn vào những kẻ buộc tội mình. Trong cuộc họp kín. Khi chúng bày bằng chứng ra trước mặt cậu ta.
Cú sốc. Những lời phủ nhận. Lời van xin. Tiếng khóc nức nở. Rằng chúng phải tin cậu ta.
Tất nhiên, điều bi kịch đó là chúng tin cậu ta.
“Tại sao họ lại làm thế với cậu?” bà hỏi.
Cậu ta mang chiếc laptop rồi nhấn một vài phím, hiện lên một file kèm một bức ảnh.
“Đây là lý do khả dĩ nhất mà tôi có thể nghĩ đến. Nó xuất hiện vào ba ngày trước khi tôi bị sa thải.”
Nó được cắt ra từ một thông cáo báo chí. Không, không phải là thông cáo. Một cột báo đăng các tin đồn chính trị tại D.C. Trong bức ảnh là Pete Hamilton, trông còn trẻ hơn cả chàng thanh niên đang ngồi trước mặt bà. Cậu ta đang cười với phóng viên của Nhà Trắng. Họ đang ngồi ở quán Off the Record.
Dòng chữ dưới bức ảnh viết, Pete Hamilton, Thư ký Báo chí Nhà Trắng, đang kể chuyện đùa.
Betsy ngước mắt lên. “Thế thôi hả? Chúng sa thải cậu vì gặp gỡ các phóng viên à? Không phải đó là việc cậu phải làm hay sao?”
“Trung thành là điều quan trọng nhất trong cái Nhà Trắng đó. Bất kỳ ai trông có vẻ sẽ phun ra bất kỳ điều gì quan trọng sẽ bị tống cổ hết.”
“Nhưng cậu chỉ cười thôi mà. Đó có thể là bất kỳ cái gì.”
“Không quan trọng. Đó là các phóng viên đài CNN. Tổng thống cho rằng tôi đang cười chuyện đùa nào đó nói về mình. Hạt giống đã được gieo. Cỏ dại mọc nhanh lắm. Tôi phải đi thôi.”
“Phải, được rồi, có thể là đi một mạch. Trong mắt chúng cậu trông như mối đe dọa an ninh quốc gia ấy. Một kẻ buôn lậu. Chúng đã hủy hoại cậu.”
“Như một ví dụ. Trong giai đoạn đầu, chúng cần phải cho mọi người thấy điều gì sẽ xảy ra với bất kỳ ai, thậm chí là bị nghi ngờ vì không trung thành. Tôi còn gặp may khi chúng không bêu đầu tôi lên cọc đấy.”
“Có thể chúng cũng sẽ làm thế. Chúng sẽ khiến cậu thất nghiệp.”
“Phải. Chúng không bao giờ ra tuyên bố, không bao giờ công khai buộc tội tôi, cũng chẳng làm gì để tôi có thể phản kháng hoặc kiện chúng ra tòa được.”
“Chúng? Eric Dunn à?”
Bà có thể thấy cậu ta ngập ngừng. “Tôi hy vọng là không. Ông ta nắm gần hết mọi chuyện xảy ra trong cái chính quyền đó.
“Còn bây giờ?” Bà nhìn xuống các thư mục trên máy tính. “Cậu đang cố gắng rửa sạch tội của mình. Tìm kiếm bằng chứng chúng để lộ ra.”
“Đợi tôi nuốt trôi cơn giận này đã. Ban đầu tôi bị sốc. Thế rồi tôi thực sự nghĩ rằng mình đáng bị thế lắm. Tôi đã tin tưởng Eric Dunn. Tin vào các mục tiêu của chính quyền đó. Nhưng khi thời gian trôi, tôi đã chứng kiến những điều tồi tệ mà chúng gây ra cho mình, nên tôi giận dữ.”
“Cậu là một kíp nổ dài đấy nhỉ.”
“Và được gắn vào một quả bom lớn.”
“Còn màn diễn xuất tại quán Off the Record hôm nay thì sao? Cậu chỉ giả vờ phê cần hoặc uống say thôi chứ gì? Tại sao thế?”
“Bà cần phải cho tôi biết tại sao bà lại đến đây, bà Jameson. Và bà cần biết rằng, không cần biết dù chuyện gì đã xảy ra với tôi, tôi vẫn là người theo Đảng Bảo thủ. Mặc dù tôi có thể không còn là một fan lớn của Dunn nữa, nhưng tôi nghĩ người đàn ông của bà cũng ngu chả kém.”
Besty cười phá lên khiến cậu ta rất ngạc nhiên. “Nếu cậu thực sự theo dõi các hoạt động chính trị, tôi sẽ không tranh cãi với cậu đâu, hay cả Ngoại trưởng Adams cũng thế.” Nhưng rồi bà nghiêm túc trở lại. “Người đàn ông của chúng tôi có thể ngu, nhưng ít nhất ông ta không nguy hiểm.”
“Một Tổng thống ngu ấy mà, theo định nghĩa, tức là nguy hiểm đấy.”
“Ý tôi là ông ta không công khai trợ giúp lật đổ chính quyền, nhưng có thể ông ta đã tuồn vũ khí cho bọn khủng bố. Cậu đã hỏi tôi đang làm gì ở đây? Chúng tôi nghĩ Eric Dunn, hoặc những kẻ trung thành với ông ta, có liên quan đến các vụ đánh bom xe buýt, và chuyện gì xảy ra tiếp theo.”
Pete Hamilton nhìn bà chằm chằm. Ngạc nhiên, có thể, nhưng không sốc, bà nghĩ.
“Và điều gì khiến bà nghĩ thế?”
“Bởi vì ông ta đã cho phép thả tự do cho Bashir Shah, người Pakistan…”
“Tôi biết hắn là ai. Hắn đã kết thúc thời gian cấm túc rồi nhỉ?”
“Và đã biến mất.”
“Bà nghĩ Shah đứng đằng sau các vụ đánh bom à?”
“Không. Vẫn chưa chính thức, nhưng trên từng chiếc xe buýt đó có một nhà vật lý hạt nhân Pakistan, do Shah tuyển mộ.”
Nhìn vẻ mặt cậu ta có vẻ kỳ dị. Trông cậu ta vẫn như một đứa trẻ ngây thơ, nhưng đứa trẻ này đủ sức nuốt chửng cả một con quỷ.
“Cậu biết những gì?” bà hỏi. “Cậu biết chuyện gì. Hoặc đã nghe được chuyện gì.”
“Bà đã hỏi tại sao tôi đến quán Off the Record và giả vờ bị say. Tôi tới đó để chứng minh với chúng rằng tôi không còn là mối đe dọa nữa. Tôi đã hoàn toàn đánh mất bản thân mình rồi nên đừng có ai phải bận tâm về tôi nữa. Và chúng đã làm thế. Thế nên tôi ngồi đó với đôi mắt lèm nhèm, tự lẩm bẩm một mình, trong khi chúng nói chuyện với nhau. Tôi đã ngồi nghe mọi chuyện. Nếu chúng xem tôi như kẻ say khướt tầm thường bị hắt hủi, thì tôi cũng có thể tận dụng điều đó.”
Betsy nhìn người đàn ông có gương mặt trẻ con này và nhận ra rằng bà có thể đang chứng kiến một Mozart của thời hiện đại. Một thằng nhóc thiên tài.
“Vậy cậu đã nghe được gì?”
“Những lời xì xào. Ai cũng có ý đồ nào đó, luôn luôn nói phóng đại ở D.C. Luôn hứa hẹn những điều đao to búa lớn, nhưng lần này thì khác. Lần này là thầm lặng. Không còn làm màu, không còn những chuyện chính trị chó chết thường ngày nữa. Tôi đã cố tìm hiểu, và tôi đã biết phải nhìn vào đâu và nhìn như thế nào. Tôi đã mất mấy năm để nghe lỏm mọi thứ. Tôi biết nơi chúng giữ các hồ sơ tuyệt mật. Thứ tôi không có chính là quyền truy cập. Tôi không thể phá được tường lửa của Nhà Trắng.”
Betsy mỉm cười.
***
Ngay sau bảy giờ sáng, Zahara Ahmadi rời khỏi nhà và đi bộ tới trường Đại học Tehran.
Một chiếc hijab1 màu hồng bao quanh khuôn mặt cô buông dài đến tận gót chân.
1 Khăn trùm đầu mà một số phụ nữ Hồi giáo mặc khi đi ra ngoài.
Mẹ cô lúc nào cũng trùm khăn màu đen, và cha cô cứ khăng khăng rằng các con gái của ông cũng phải trùm khăn mang màu sắc tối hơn, để bày tỏ sự tôn trọng. Nhưng khi đã hai mươi tuổi và học đại học, Zahara, người luôn ngưỡng mộ cha, đã buông thả mình vào hành động phản kháng này.
Các khăn trùm đầu của cô đều sáng màu và rực rỡ. Theo như lời cô giải thích với cha, Đạo Hồi khiến cô thấy hạnh phúc. Thánh Allah mang đến niềm vui và sự thanh bình cho cô.
Tuy cha cô có thể biết điều này là đúng, nhưng ông không ủng hộ hay đồng ý. Tiến sĩ Ahmadi lo lắng rằng cô con gái cả của ông, người mà ông yêu thương, không bày tỏ sự tôn trọng đúng mực đối với sự sùng kính hay thậm chí là nỗi sợ hãi với Thượng Đế của họ, chứ đừng nói tới chính quyền.
Ông biết những gì mà cả hai thế lực này có thể làm, nếu như họ cảm thấy thấy hài lòng.
Khi Zahara Ahmadi bước đi trên con đường quen thuộc, cô nhận thấy ai đó đi sau lưng mình. Trong cửa kính bày hàng cô nhìn thấy không chỉ một mà là hai người. Một nam và một nữ. Cả hai đều mặc đồ đen ngòm, người phụ nữ mặc một burqa1 trùm kín.
1 Một loại áo dài của phụ nữ Afghanistan, có phần vải để trùm lên đầu, phía trước có một tấm lưới dày để che mặt làm họ chỉ có thể nhìn từ trong ra ngoài.
Zahara biết đó là các đặc vụ VAJA - thành viên mật vụ tình báo bí mật, khi nhìn thấy họ. Họ đã từng ghé thăm nhà cô, thăm cha cô, suốt cả cuộc đời cô. Ngồi trong phòng học bừa bãi và hỏi han ông. Hướng dẫn ông. Ông tiếp nhận hết và làm theo đúng những gì được bảo.
Cô biết, không phải vì ông bị buộc phải làm thế, mà là vì ông muốn thế.
Cô không hề sợ hãi những người này. Zahara nhìn nhận họ giống như cha cô thôi. Những móc nối của Chính phủ có mục đích là bảo vệ các công dân của mình khỏi một thế giới thù địch. Nhưng giờ cô biết một điều khác. Kể từ cuộc viếng thăm cuối cùng đó. Cuộc nói chuyện cuối cùng đó đã lọt vào phòng cô qua đường ống thông gió.
Cô rảo bước nhanh hơn.
Các con phố đều vắng vẻ ngoại trừ vài người bán hàng rong đang bắt đầu bày hàng ra.
Cặp nam nữ kia cũng tăng tốc, tiếng bước chân của họ càng lúc càng gần. Cô bước nhanh hơn nữa.
Họ cũng thế.
Cô bắt đầu chạy.
Họ chạy đuổi theo cô. Rút ngắn khoảng cách. Cô chạy càng nhanh thì cô càng cảm thấy hoảng sợ.
Cô luôn cho rằng mình là người can đảm. Giờ thì cô đã nhận ra mình quá ngây thơ mà thôi.
Zahara chạy như bay xuống một con hẻm và chạy về phía đầu bên kia, chiếc hijab màu hồng rực rỡ của cô bay tung bay sau lưng. Chỉ điểm cô. Khiến cô trở thành mục tiêu không thể nhầm lẫn.
“Dừng lại,” một trong hai người họ hét lên. “Chúng tôi không muốn làm cô bị thương.”
Nhưng tất nhiên, họ còn biết nói gì nữa? Dừng lại, để chúng tôi có thể giết cô? Tra tấn cô? Làm cô biến mất ư?
Zahara không dừng lại. Nhưng khi rẽ ngoặt ở góc tiếp theo, cô đâm sầm vào một người đàn ông. Cô lao vào ông ta mạnh tới nỗi bị đẩy bật về phía sau và có thể ngã nếu người đàn bà chạy phía sau không giữ cô lại.
Zahara vùng vẫy, nhưng người đàn ông giữ cô rất chặt, một bàn tay bịt miệng cô, trong khi người đàn bà thò tay vào trong túi burqa của cô ta.
“Không,” Zahara cố gắng van xin. Giọng cô bị chặn lại bởi bàn tay. “Không, đừng.”
Một thứ gì đó ấn vào mặt cô.
“Zahara?” một giọng nói vang lên.
Cô dần dần ngừng vặn vẹo và nhìn chằm chằm chiếc điện thoại di động khi nó phát ra bằng tiếng Farsi có trọng âm nặng. Đó là giọng của một phụ nữ trẻ. Một giọng Mỹ.
“Chị là Anahita đây. Chị họ em. Những người này đến để giúp em.”
***
Trong văn phòng của máy bay Không Lực Ba khi bay qua vùng Oman, Ngoại trưởng Adams, Katherine và Anahita cùng nhìn chằm chằm vào chiếc điện thoại trên bàn.
Đợi chờ câu trả lời. Thời gian chầm chậm trôi.
“Anahita?” Một giọng lí nhí vang lên.
Mọi người tụ tập xung quanh nhìn nhau rồi mỉm cười. Thư giãn.
“Làm sao em biết đó là chị?”
Họ đã chuẩn bị cho câu hỏi này. Trong khi chờ đợi, họ đã đề nghị Irfan Dahir nói cho con gái biết điều duy nhất mà chỉ có ông và cậu em trai mới có thể biết.
Ellen gật đầu với Anahita.
“Cha chị từng gọi cha em là “nhóc đầu đất,” và cha em gọi cha chị là “thằng ngu” vì ông không học vật lý mà học kinh tế.”
Một tiếng thở ra nhẹ nhõm, thậm chí là vui vẻ vẳng ra từ loa.
“Đúng vậy. Giờ thì chị có thể gọi em gái mình như thế. Nó đang học kịch.”
“Chị còn một em họ nữa ư?” Anahita hỏi, nhìn chằm chằm vào cái hộp nhỏ trên bàn làm việc như thể nó chứa đựng cả gia đình mà cô đã mong mỏi suốt cả cuộc đời mình.
“Em có một anh trai nữa. Anh ấy đúng là thằng đầu đất.” Anahita phá lên cười.
Ellen ra hiệu rất nhanh bằng ngón tay.
Anahita gật đầu. “Chị đã nhận được tin nhắn của em nhưng không thể ngăn được các vụ đánh bom. Nghe này, những người đó ở đó để giúp em nếu em gặp rắc rối. Họ có thể đưa em ra ngoài.”
“Nhưng em không muốn đi. Iran là nhà của em. Em làm thế chỉ vì em muốn giúp, chứ không phải để Iran bị tổn thương. Sát hại những người vô tội không phải là cách tiến lên phía trước.”
“Phải, không sao, nhưng em không muốn kết thúc cuộc đời mình bởi những cảnh sát mật chứ. Nghe này, bọn chị phải biết làm sao cha em phát hiện ra các nhà vật lý. Em có biết gì về Bashir Shah không? Hắn đã âm mưu điều gì? Nếu…”
Đúng lúc này thì có một tiếng quát vang lên. Âm thanh một cuộc ẩu đả.
Và rồi đường truyền bị ngắt.