• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tình thế hiểm nghèo
  3. Trang 29

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 28
  • 29
  • 30
  • More pages
  • 50
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 28
  • 29
  • 30
  • More pages
  • 50
  • Sau

Chương 25

Gil Bahar đã rời bệnh viện tại Frankfurt ngay sau khi mẹ anh rời đi.

Khi mặc quần áo, cô y tá trẻ đã đưa tiền cho anh. Anh nghi ngờ đây là khoản tiền tiết kiệm của cô.

“Tôi sẽ quay lại. Tôi sẽ trả tiền cho cô.”

“Em gái tôi nhẽ ra đã có mặt trên chiếc xe buýt đó. Nhưng nó đã lỡ chuyến. Tôi biết anh đã cố gắng ngăn cản một vụ nổ trên xe buýt. Cầm lấy. Đi đi.”

Khi anh ngồi trên xe trên đường tới sân bay, anh mở túi ra. Có mấy tờ euro. Cộng thêm một ít thuốc và băng gạc.

Anh lấy ra một viên thuốc giảm đau rồi để dành phần còn lại. Nhiều tiếng đồng hồ sau, vào lúc mẹ anh cố gắng gọi tới phòng bệnh của anh tại Frankfurt, Gil Bahar đã xuống máy bay và nhìn xung quanh.

Peshawar. Pakistan.

Anh cảm thấy dạ dày mình thít chặt lại và nhịp tim tăng nhanh, trong khoảnh khắc anh tự hỏi liệu mình có bị ngất đi không khi máu đang đổ dồn từ đầu xuống tới bụng. Như thể đang cố gắng chạy trốn hồi ức về tất cả dòng máu khác. Tất cả những cái đầu khác.

Anh đã không quay lại Peshawar kể từ vụ bắt cóc. Từ nỗi kinh hoàng của anh khi nhận ra đó không phải ISIS hay Al-Qaeda, chỉ riêng chúng thôi đã đủ khủng khiếp rồi. Không, anh đã rơi vào tay của Pathan.

Ít được biết đến hơn các nhóm Hồi giáo Jihad khác hay thậm chí mọi người còn không dám biết tới sự tồn tại của chúng, chưa nói đến chuyện nói ra tên của chúng, Pathan là một nhóm khủng bố gia đình mở rộng có tầm ảnh hưởng lan rộng tới tận Al-Qaeda, Taliban, thậm chí chúng ở trong các lực lượng an ninh. Chúng là những bóng ma. Và bạn chắc chắn không muốn có mặt ở đó khi chúng hiện hình.

Nhưng khi đầu anh không còn nặng trịch và đôi mắt anh đã quen với khung cảnh, thì anh đã đến nơi. Trong một trại của Pathan, trên biên giới Pakistan-Afghanistan.

Và Gil Bahar biết mình có thể đã chết. Và điều ấy thật khủng khiếp.

Nhưng thay vào đó anh đã cố gắng trốn thoát. Anh đã chạy nhanh hết sức có thể để trốn khỏi nơi đây. Và giờ anh quay lại.

Anh cố tỏ ra thư giãn khi lính hải quan tại sân bay lục soát anh. Họ vốn không đón nhiều khách du lịch.

“Tôi là sinh viên,” anh giải thích. “Đang viết bài luận lấy bằng Tiến sĩ. Về Con Đường Tơ Lụa. Anh có biết…”

Có tiếng thịch khi con dấu đóng xuống hộ chiếu của anh, và họ vẫy tay chào anh.

Khi ra khỏi sân bay, bước vào bầu không khí nóng bỏng, bụi bặm và ồn ã của thành phố có gần hai triệu dân, Gil dừng lại. Những người đàn ông gầy còm lao về phía anh.

“Taxi không?”

“Taxi không?”

Gil đưa tay lên lông mày, che bớt ánh nắng chói chang, rồi chọn một trong các tài xế, người đưa tay ra đỡ lấy túi của anh. Nhưng Gil giữ chặt lấy túi, gần như đánh mạnh vào tay người đàn ông.

Lên chiếc taxi rách nát, anh ngả người vào lưng ghế. Chỉ khi thành phố này hiện ra trong gương chiếu hậu, Gil mới lên tiếng.

“Chúc anh bình an, Akbar.”1

1 Nguyên văn: Salam alaikum, Akbar.

“Trọng âm của cậu tốt dần rồi đấy, mặt bã đậu.”

”"Đầu bã đậu' thì hay hơn. 'Mặt bã đậu' thường mang nghĩa là say xỉn.” “Trong trường hợp của cậu, nó có thể mang nghĩa là đít đấy,” Akbar nói, nghe thấy Gil cười phá lên. “Chúc cậu bình an nhé, bạn tôi.”

Akbar ngoặt khỏi đường cao tốc chính, họ đi theo những con đường có nhiều vết lún. Con Đường Tơ Lụa còn lâu mới mềm mại, khi Alexander Đại Đế, Marco Polo, Genghis Khan và những người khác phát hiện ra mối nguy hiểm mà mình gặp phải.

***

Gương mặt của Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân nghiêm túc khi ngồi tại bàn làm việc của Charles Boynton đọc các tin nhắn và email.

“Cho đến giờ vẫn chưa thấy bất cứ bằng chứng nào có thể buộc tội cả,” ông ta nói, nhìn lên nhìn xuống máy tính. “Có nhắc đến Shah, nhưng chỉ nhắc một cách ngẫu nhiên. Gần như thể đến cả Beecham cũng không biết hắn là ai.”

Tướng Whitehead xem các tài liệu khác. Văn phòng của Chánh Văn phòng thông sang văn phòng Ngoại trưởng thơm mùi cà phê và bánh cuốn quế. Betsy Jameson và Pete Hamilton đứng phía bên kia bàn làm việc, trong khi Đại tá Phelan chiếm vị trí trung tâm cạnh cửa ra vào.

Các màn che đã kéo xuống hết, các rèm cửa cũng vậy. Đây là việc đầu tiên vị Tướng làm ngay sau khi đến nơi. Không chỉ nhằm che ánh mặt trời, mà còn để chắn tầm nhìn của bất kỳ loại tên lửa tầm xa nào.

Họ tìm hiểu thật sâu vào các thư mục được giấu kín về Timothy Trouble Beecham. Nhưng điều này cũng đồng nghĩa rằng nguy hiểm với họ ngày càng tăng.

“Phải có lý do gì đó để họ cố gắng xử lý đống tài liệu của Beecham,” Whitehead nói, nhường ghế lại cho Hamilton, khi cậu quay lại với công việc. “Che giấu tất cả những tài liệu này chắc phải mất vài tuần.” Ông ta gật đầu khi suy nghĩ. “Phải, chắc hẳn phải có gì trong đó.”

“Tôi sẽ tìm ra,” Hamilton nói, kéo lên kéo xuống và dò quét máy tính.

“Tên đệm của ông ta có phải thực sự là Trouble không?” Whitehead hỏi.

“Rõ ràng,” Betsy đáp. “Tôi có thể hiểu tại sao ông ta không bao giờ dùng đến nó. Tôi nghĩ có thể chữ T ấy là Traitor.”

Bert Whitehead hướng ánh mắt khó chịu nhìn chiếc máy tính, như thể nó đang phản bội. Rồi ông ta chuyển ánh nhìn sang Betsy. “Bây giờ Ngoại trưởng Adams đang ở đâu?”

Betsy chưa kịp đáp, Hamilton đã nói. “Được rồi, giờ tới đây thôi. Hai con mắt tôi díp cả lại rồi, tôi e rằng mình đang phạm sai lầm. Tôi cần phải đi ngủ.”

Cậu tắt máy tính.

“Tôi có thể tiếp quản,” Betsy nói.

“Không, bà cũng cần phải nghỉ đi. Bà đã thức trắng cả đêm rồi. Hơn nữa, tôi biết mình đã xem đến những tài liệu nào. Tôi đã sắp xếp thành hệ thống rồi. Bà sẽ làm loạn tất cả lên mất. Một tiếng thôi, rồi tôi sẽ khỏe lại.”

“Cậu ta nói đúng đấy,” Whitehead nói, rồi quay sang Đại tá Phelan. “Chúng ta hiểu được tầm quan trọng của nghỉ ngơi. Tốt cho sự sắc bén, đúng không Đại tá?”

“Vâng, thưa sếp.”

Tướng Whitehead cầm lấy mũ từ trên mặt bàn, liếc nhìn Hamilton như thể đánh giá bằng cặp mắt sắc sảo. Rồi ông ta bước ra cửa.

“Bà có chắc mình có thể tin tưởng cậu ta không?” Ông ta thì thầm với Betsy. “Cậu ta từng làm việc cho Dunn.”

“Ngài cũng thế mà.”

“À, không. Tôi làm việc cho người dân Mỹ. Giờ vẫn thế. Nhưng cậu ta?” Ông ta nhấc mũ hướng về phía Pete Hamilton, người đang khoanh tay trên bàn phím rồi gục đầu xuống. “Tôi không chắc đâu.” Ông ta quay lại với Betsy rồi mỉm cười. “Nơ bướm. Bà đúng là không phải vừa. Khi chuyện này kết thúc, tôi hy vọng bà sẽ đến ăn tối cùng vợ chồng tôi. Không phải tại quán Off the Record đâu nhé.”

Betsy mỉm cười. “Tôi rất sẵn lòng.”

Khi chuyện này kết thúc, bà nghĩ, nhìn Đại tá Phelan tháp tùng Đại tướng khi ông ta bước xuống văn phòng Mahogany Row rồi đến dãy thang máy. Họ nói chuyện với nhau bằng giọng thấp để bà, hay bất kỳ ai khác, không thể nghe được.

Khi chuyện này kết thúc.

Đó là một cách nghĩ thật hay.

“Đóng cửa lại,” Pete Hamilton nói khi bà quay vào văn phòng của Boynton. Cậu đã hoàn toàn tỉnh táo và đang nhập lại mã vào máy tính. “Tốt hơn nên khóa lại đi.”

“Tại sao?”

“Làm ơn đi.”

Bà làm theo rồi bước đến bên cậu ta. Các ngón tay cậu ta đang múa trên bàn phím. Nghe như các tiếng bước chân đang chạy, đua. Trong một cuộc đua gay gắt.

Rồi cậu ta dừng lại và đứng lên để Betsy có thể ngồi xuống và đọc những gì cậu ta vừa tìm thấy, và tóm gọn trong hình chữ nhật đen ngòm của màn hình máy tính.

“Cậu tìm được rồi à?” Bà nói, ngồi xuống, và biểu hiện trên nét mặt cậu ta, trong vẻ tái nhợt, khiến bà chột dạ. Đó không phải là thứ họ mong đợi. Bà có thể đoán nó còn tệ, tệ hơn rất nhiều.

Bà phải đọc lại nó hai lần, ba lần. Rồi bà kéo chuột xuống. Rồi lại kéo lên. Bà trấn tĩnh bản thân trước khi ngước lên nhìn cậu ta.

“Có phải đây là lý do cậu tắt máy tính không?” Bà hỏi.

Cậu ta gật đầu, nhìn chằm chằm vào Biên bản ghi nhớ trên màn hình.

Biên bản về kế hoạch hỗ trợ đầy đủ của Pakistan để thả tự do cho Tiến sĩ Shah khỏi cảnh cấm túc.

Kéo chuột xuống, họ nhìn Biên bản ghi nhớ thứ hai trong câm lặng và choáng váng. Lời khuyến cáo mạnh mẽ phải rút khỏi hiệp ước hạt nhân với Iran.

Biên bản ghi nhớ thứ ba đi vào chi tiết về lý do tại sao kế hoạch cho Afghanistan sau khi rút quân là không cần thiết hoặc không thích hợp.

Từng biên bản ghi nhớ đều gắn cờ ưu tiên và xếp loại tuyệt mật. Có chữ ký của Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân. Tướng Albert Whitehead.

“Ôi trời.”

“Thưa bà Ngoại trưởng,” trưởng nhóm An ninh Ngoại giao cúi xuống thì thầm, “bà có điện thoại.”

“Cảm ơn ngài,” bà cũng thì thầm trả lời. “Nhưng giờ tôi không thể nhận điện thoại được.”

“Đó là cố vấn của ngài, bà Jameson.”

Ellen chần chừ. Đôi mắt bà vẫn không rời Tổng thống Nasseri. “Làm ơn bảo bà ấy tôi sẽ gọi lại sớm nhất có thể.”

Tổng thống Iran đã gặp Ngoại trưởng Adams cùng đoàn tùy tùng nhỏ của bà tại lối vào tòa nhà Chính phủ, nơi ông ta có các văn phòng. Ellen đã xin phép ông ta được tháo burqa trước khi bắt đầu cuộc gặp, để nhìn ông ta được rõ hơn và cũng để ông ta nhìn bà được rõ hơn.

“Nhưng trước đó, thưa Tổng thống, cho phép tôi được giới thiệu ngài với những người bạn đồng hành của tôi, Chánh Văn phòng của tôi, Charles Boynton.”

“Ngài Boynton.”

“Chào ngài Tổng thống.”

“Con gái tôi, Katherine.”

“A, người khổng lồ truyền thông. Cô đã tiếp quản từ mẹ mình.” Ông ta mỉm cười đầy quyến rũ. “Ta cũng có một cô con gái. Ta hy vọng ngày nào đó con bé sẽ nối nghiệp ta, nếu người dân đồng thuận.”

Ý ngài là nếu vị Lãnh Tụ Tối Cao đồng thuận, Ellen nghĩ, nhưng không nói ra.

“Tôi cũng hy vọng thế,” Katherine nói. “Thật tuyệt vời khi thấy một phụ nữ làm Tổng thống Iran,”

“Cũng sẽ rất tuyệt khi chứng kiến một phụ nữ làm Tổng thống Mỹ. Chúng ta sẽ xem ai đạt được điều đó trước. Có lẽ cô sẽ đạt được mục tiêu. Hoặc có thể mẹ cô...?"

Ông ta lại quay sang Ellen và khẽ cúi đầu.

“Ôi trời Tổng thống Nasseri,” Ellen nói. “Tôi đã làm gì không phải với ngài sao?”

Ông ta phá lên cười. Đó chính xác là phản ứng đúng đắn. Thừa nhận nhận xét của ông ta, trong khi khiêm tốn một cách thích hợp.

Bây giờ bà có thể kết thúc trò giả vờ ngớ ngẩn này, và chiếc burqa lại đằng sau. Nhưng vẫn còn một màn giới thiệu nữa. Ellen quay sang người phụ nữ đang đứng bên trái bà.

“Còn đây là Anahita Dahir, cán bộ phục vụ ngoại giao tại Bộ Ngoại giao.”

Anahita bước lên phía trước, rất nhẹ nhàng. Chiếc burqa của cô che giấu đi gương mặt, nhưng không thể che giấu nổi sự căng thẳng trên cơ thể. Nó tỏa ra từ cô. Nếu ai đó đứng sát gần Ellen thì có thể nhìn thấy tấm khăn rộng thùng thình ấy đang run rẩy.

“Chào Tổng thống,” cô nói bằng tiếng Anh, trước khi chuyển sang tiếng Farsi, “họ của tôi đã từng là Ahmadi.”

Cô hơi ngẩng mặt lên nhìn ông ta, khi ông ta cũng chằm chằm nhìn lại. Một trong các cận vệ của ông ta bước lên phía trước nhưng ông ta xua tay.

Tuy không hiểu tiếng Farsi, nhưng Ellen nghe thấy từ “Ahmadi” và biết rằng Anahita đã làm thế.

Ngoại trưởng Adams bước đến ngay cạnh FSO của mình .

“Tôi biết cô là ai,” Tổng thống Nasseri nói bằng tiếng Anh. “Con gái của Irfan Ahmadi. Cha cô đã phản bội Iran. Ông ta đã phản bội các anh chị em của mình trong cuộc cách mạng. Ông ta đã phản bội em trai và chị gái ruột của mình. Và xem nước Mỹ đã đối xử với ông ta như thế nào? Các nguồn tin của tôi báo cáo rằng ông ta cùng mẹ cô đã bị tống giam. Bị bắt vì họ là người Iran. Họ không sợ chúng tôi. Mà họ sợ” - ông ta quay sang Ellen - “bà.”

Chuyện này đang tan vỡ nhanh hơn nhiều so với Ellen dự đoán. Hàn Quốc đang bất chợt hiện lên như một chiến thắng.

Bà há miệng ra định nói, định phủ nhận, nhưng rồi bà chợt nhớ Azhi Dahaka. Kẻ đã tồn tại nhờ những lời nói dối.

Ellen nghĩ, thật dễ dàng làm sao khi phủ nhận sự thật vì nỗi sợ hãi khi phải nuôi dưỡng một lời nói dối còn lớn hơn nhiều. Và bà đã nhận ra Azhi Dahaka thật sự nguy hiểm như thế nào. Không phải vì sinh vật đó đang truy đuổi người vô tội. Không có truy đuổi nào ở đây hết. Mà nó đã ở sẵn đó. Bên trong bọn họ. Đang tạo ra, đang sai khiến những lời dối trá.

Đó mới chính là kẻ phản bội cuối cùng.

“Đúng vậy,” bà nói.

Những lời của bà khiến ông ta choáng váng đến câm lặng. Ông ta nhìn bà như thể đang cố gắng tìm hiểu xem tại sao Ngoại trưởng Mỹ lại thừa nhận một chuyện như thế.

“Và ông ta có lý do để sợ hãi,” bà nói tiếp. “Không phải vì ông ta là người Iran, mà còn vì ông ta đã nói dối về việc đó. Cho dù đó không phải là lý do chúng tôi có mặt ở đây,”

“Tại sao bà lại đến đây?”

“Có lẽ ngài sẽ cho phép chúng tôi cởi burqa ra đã trước khi chúng ta tiếp tục nói chuyện.”

Tổng thống Nasseri hất đầu về phía vị nữ quan chức trùm khăn choàng mà họ đã gặp trên máy bay. Bà ta dẫn họ vào một văn phòng liền kề để thay đồ và nghỉ ngơi.

Ellen thấy nhẹ nhõm khi tháo burqa ra, nó khiến bà ngộp thở.

“Em có sao không?” Katherine hỏi Anahita, tuy đã xanh xám mặt mày nhưng bình tĩnh.

“Ông ta biết rất nhiều chuyện về bọn em,” Anahita nói. “Cha em đã nghi ngờ có gián điệp, nhưng em nghĩ ông chỉ đang tưởng tượng thôi.”

Cô lững thững bước về phía cửa sổ trông ra thành phố cổ.

Katherine nắm tay cô. “Không sao đâu.”

“Không sao ư?” Anahita hỏi.

“Ở đây em cảm thấy mình như ở nhà. Em đang cảm thấy như thế đúng không? Bất chấp cuộc tranh luận với Nasseri.”

Anahita mỉm cười với Katherine rồi thở dài.

“Rõ ràng thế sao ạ? Làm sao em có thể vừa hạnh phúc vừa sợ hãi được nhỉ? Một phần trong em sợ hãi vì em đang cảm thấy hạnh phúc. Như thế có hợp lý không? Em đã bị khiếp sợ, thậm chí là xấu hổ, với đất nước Iran trong suốt cả cuộc đời mình. Nhưng ở đây em có thể nói chuyện với Tổng thống, về tất cả mọi chuyện. Bằng tiếng Farsi. Và” - cô nhìn ra ngoài cửa sổ - “Em cảm thấy thoải mái ở đây. Như thể em thuộc về nó.” Cô quay sang Ellen. “Chẳng hợp lý tí nào cả.”

“Mọi thứ không nhất thiết phải hợp lý,” Ellen nói. “Có một vài điều đối với chúng ta rất quan trọng mà chẳng có lý do gì cả.”

“Và giờ đây là bí mật của tôi, một bí mật rất đơn giản1,”” Katherine nói, siết chặt tay Anahita. ” Đôi khi, chỉ có trái tim mới có thể nhìn thấu những điều quan trọng chứ không phải đôi mắt.2” Cô mỉm cười với mẹ. “Hồi con còn nhỏ, bố mẹ thường đọc truyện trước giờ đi ngủ cho con nghe. Truyện con thích nhất là Hoàng Tử Bé.”

1 Câu thoại trong truyện Hoàng tử bé của Antoine de Saint-Exupéry

2 Câu thoại trong truyện Hoàng tử bé của Antoine de Saint-Exupéry

Ellen mỉm cười. Quãng thời gian ấy thật đơn giản biết bao. Với Quinn, Gil và bé Katherine. Như Anahita, Ellen Adams có thể không bao giờ dự đoán được cuộc sống rồi sẽ dẫn bà tới đâu. Tới Iran. Bước vào trái tim của kẻ thù. Chưa nói đến chuyện làm Ngoại trưởng. Bản thân bà trong quá khứ hẳn sẽ kinh ngạc lắm.

Và trong khi không có bằng chứng, tận trong thâm tâm Ngoại trưởng Adams lúc này đã biết rằng Anahita Dahir trung thành với nước Mỹ. Thật mỉa mai khi cô bé nói rằng mình cảm thấy như ở nhà tại Iran lại thuyết phục được Ellen.

Một gián điệp, một kẻ phản bội sẽ không bao giờ thừa nhận điều đó.

Bà đã nghi ngờ liệu Tổng thống Mỹ và Tình báo Mỹ sẽ chấp nhận lý lẽ ấy của cô bé không. Nhưng Hoàng Tử Bé thì có.

Đáng buồn là cậu ta chẳng thể nắm giữ số phận của họ trong đôi bàn tay nhỏ bé của mình.

Bắt gặp ánh mắt hai người họ, bà chuyển ánh mắt sang vị nữ quan chức đang đứng cạnh cửa ra vào.

“Tôi xin lỗi,” Anahita nói, bằng giọng thì thầm. “Lẽ ra tôi không nên nói những điều đó với Tổng thống Nasseri. Nó khiến ông ta tức giận.”

“Không.” Ellen cũng nhỏ giọng. “Nếu ông ta hỏi cô bất kỳ cái gì, cứ việc nói thật thôi.”

“Nếu ông ta biết về cha tôi, chắc chắn ông ta biết rằng Zahata là em họ tôi.”

“Phải.” Giờ là lúc Ellen phải quyết định xem sự nguy hiểm của trò chơi bà đang sẵn sàng tham gia như thế nào. Những lời tiếp theo bà nói bằng giọng bình thường. Để tất cả mọi người cùng nghe. “Nhưng ông ta có thể không nhận ra cô ta đã gửi đến cô lời cảnh báo. Có thể họ chỉ biết rằng nó đến từ nhà Ahmadi và được gửi đến Bộ Ngoại giao.”

“Họ sẽ làm gì với Zahara?” Anahita hỏi.

“Họ nói sẽ xem cô ta là gián điệp và kẻ phản bội,” Ellen nói.

“Vậy họ sẽ làm gì với những kẻ phản bội và gián điệp?” Katherine hỏi.

“Sẽ bị hành hình.”

Có một khoảng lặng.

“Và nếu họ phát hiện ra Anahita thì sao?” Katherine nhìn mẹ chăm chú. “Họ sẽ làm gì cô ấy hả mẹ?”

Ellen hít một hơi sâu.

“Hãy tiếp tục với những gì chúng ta biết thôi, đừng có suy đoán.”

Cho dù trong thâm tâm bà đã biết. Và bà tự hỏi sai lầm bà đã phạm phải khi mang FSO đi theo lớn đến cỡ nào. Và bằng cách lớn giọng thay vì thì thầm, sai lầm bà đã mắc phải mới thật lớn làm sao.

Và giờ trong bộ váy phương Tây đơn giản với chiếc Rijab trùm trên đầu và bao quanh gương mặt, Ngoại trưởng Adams ngồi đối diện Tổng thống Nasseri trong phòng họp không có nét đặc biệt, trong một tòa nhà chẳng có gì nổi bật, mà Ellen nghi ngờ, do phía Xô Viết thiết kế và xây dựng hồi những năm 1980.

Bà còn tiếp tục giả định rằng phía Nga đã lắp đặt các máy nghe lén và đang lắng nghe mọi điều họ nói. Cũng như giới Tình báo Iran và cảnh sát mật của họ. Theo bà biết, các đặc vụ tình báo của chính bà cũng đang lắng nghe. Gồm cả Timothy Trouble Beecham.

Có vẻ khán thính giả của cuộc họp này còn nhiều hơn cả buổi biểu diễn của Big Brother.

“Ngài đã hỏi tại sao chúng tôi tới đây. Tôi đang cho rằng Bộ trưởng Aziz” - bà hất đầu về phía người đàn ông khác - “đã nói với ngài rồi. Chúng tôi biết ngài chịu trách nhiệm về những quả bom làm nổ tung ba xe buýt đó.”

Khi Tổng thống Nasseri bắt đầu nói, bà giơ tay lên.

“Làm ơn hãy để tôi nói hết. Điều đó cho chúng tôi biết nhiều chuyện, bao gồm nỗ lực ngăn chặn các nhà vật lý đó của ngài. Chúng tôi cũng biết rằng Bashir Shah đứng đằng sau họ. Điều đó có nghĩa là ngài có thông tin về các nhà vật lý đó và ai đó đã từng tiếp xúc với hắn.”

“Còn rất nhiều thông tin nữa mà bà không biết,” Nasseri nói.

“Đó là lý do tại sao tôi ở đây, thưa Tổng thống. Để lắng nghe và học hỏi.”

Trước khi có cơ hội nói thêm, Tổng thống Nasseri bỗng đứng dậy, gần như là nhảy dựng lên. Aziz cũng vậy. Tất cả mọi người khác trong phòng cũng vậy, ngoại trừ những người Mỹ.

Ellen quay lại thì thấy một ông già bước vào phòng. Ông ta có chòm râu dài trắng được cắt tỉa gọn gàng, mặc chiếc áo choàng rủ màu đen.

Bà cũng đứng dậy, quay người và thấy mình đối mặt với Lãnh tụ Tối cao của Cộng hòa Hồi giáo Iran, Đại Giáo chủ Khosravi.

“Chúa ơi,” Anahita thì thầm.