“Thưa Bà Ngoại trưởng,” Charles Boynton nói. Chánh Văn phòng của bà gõ cửa, rồi bước vào. “Phi cơ của Quốc vương Oman đã sẵn sàng rồi. Phía Iran đang mời bà đi ngay.”
Dáng đứng gầy gò, lêu nghêu của anh ta đứng cạnh cửa, bối rối.
Cả Ngoại trưởng lẫn con gái đang đứng cạnh cửa sổ, trông như thể đang lo sợ cho mạng sống của chính mình.
“Chuyện gì vậy?” Anh ta hỏi, bước vào phòng rồi đóng cửa lại.
Ellen đã chuyển tiếp tin nhắn của Gil, bổ sung thêm vài chi tiết thằng bé nói cho bà biết trên điện thoại, gửi cho cả Katherine lẫn Betsy. Bà cân nhắc việc gửi tin nhắn này cho Tổng thống Williams và Tim Beecham, nhưng lại do dự.
Tướng Whithead không thể hoạt động một mình. Lão phải có đồng phạm trong hàng ngũ cấp cao trong Nhà Trắng, thậm chí có lẽ cả trong nội các. Nếu bà gửi đi, và tin nhắn bị chặn, chúng sẽ biết rằng âm mưu đã vỡ lở. Ngoài rủi ro bị bắt giữ, chúng còn có thể kích nổ các quả bom sớm hơn.
Không. Ellen biết bà phải nói chuyện riêng với Tổng thống Williams.
Gặp trực tiếp.
Nhưng công việc của bà tại Iran chưa xong. Họ phải có thêm nhiều thông tin hơn. Kẻ nào đó đang cung cấp cho Shah các nguyên liệu hạt nhân, hoặc có khả năng như Gil nói, là mafia Nga.
Và kẻ nào đó đã báo cho phía Iran về các nhà vật lý.
Một lần nữa, có khả năng một kẻ cấp tin người Iran đang hợp tác với mafia. Chúng đã cố tình làm rò rỉ thông tin này để dụ Nasseri và Giáo chủ làm theo những gì Shah muốn. Họ sẽ ám sát các nhà vật lý đó.
Người đó có thể biết các kế hoạch lớn hơn của Shah. Thậm chí còn biết cả biến động của hắn. Và rằng kẻ cấp tin có khả năng vẫn còn ở Iran. Nếu họ có thể tìm ra hắn, hoặc ả.
“Chuyện gì vậy?” Boynton hỏi. “Thưa Ngoại trưởng?”
“Mẹ?” Katherine hỏi.
Ellen đưa tay lên miệng rồi nghiêng đầu về phía sau, nhìn chằm chằm lên trần nhà. Cố gắng, cố gắng để nhìn thấy nó.
Nếu bà tìm hiểu được tất cả chuyện này, vậy thì Đại Giáo chủ cũng có thể. Ông ta cần bà giúp ông ta một tay để ngăn chặn Shah. Còn bà thì cần ông ta giúp chặn đứng các cuộc tấn công khủng bố.
Khosravi có biết kẻ cấp tin là ai không? Nếu biết, có lẽ ông ta không thể nói cho bà biết. Không thể nói thẳng. Từng lời nói, từng hành động của họ đều bị theo dõi.
Thế nên ông ta phải dùng cách khác để gửi cho bà thông tin mình cần.
Đó chính là nội dung trong câu chuyện mèo và chuột. Những lợi ích chung. Những câu chuyện cũng nói về sự chỉ dẫn sai. Đánh lạc hướng. Gây phân tâm. Nhìn về một hướng trong khi câu chuyện quan trọng lại đang diễn ra ở nơi khác.
“Họ có nói rằng tôi cần phải đi không?” Bà hỏi Boynton. “Hay chúng ta phải đi?”
Anh ta dường như bối rối trước câu hỏi này. “Không phải giống nhau sao?”
“Làm ơn, đừng đùa tôi như vậy. Cố gắng nhớ chính xác viên quan chức ấy đã nói gì.”
Boynton ngẫm nghĩ. “Ông ta nói, 'Hãy thông báo cho Ngoại trưởng Adams rằng bà ấy cần phải rời khỏi Iran, theo mệnh lệnh của Đại Giáo chủ.'”
“Chà, có vẻ khá rõ ràng rồi,” Katherine nói.
“Tôi tự hỏi,” Ellen nói, rồi lại quay sang Chánh Văn phòng của mình. “Giữ chân họ đi.”
Anh ta bỗng bật cười. “Tại điểm đến sao?” Nhưng khi nhìn thấy nét mặt nghiêm túc của sếp, gương mặt anh ta chùng xuống.
“Đánh lừa họ,” Ngoại trưởng Adams nói.
“Đánh lừa họ?” Boynton gặng hỏi, giọng anh ta gần như rít lên. “Như thế nào?”
“Cứ làm đi.”
Bà chẳng nói gì chỉ đẩy anh ta ra ngoài cửa. Khi cánh cửa đóng lại, bà nghe thấy Chánh Văn phòng của mình nói với quan chức Iran rằng họ sẽ ra ngoài ngay. “Chậm trễ một xíu. Chuyện phụ nữ ấy mà.” Rồi bà nghe thấy anh ta hỏi, “Ở đây các người không có chuyện phụ nữ sao?”
Chúng ta có thể không có nhiều thời gian như mình hy vọng, Ellen nghĩ.
Bà cố gắng giữ tâm trí bình thản. Gạt Tướng Whitehead là gián điệp nhị trùng sang một bên.
Gạt những gì Gil đã nói sang một bên. Các quả bom hạt nhân gần như chắc chắn đã xuất hiện tại các thành phố ở Mỹ. Sẵn sàng nổ tung. Sớm thôi.
Bà cảm thấy từng nhịp đập trái tim bà như tiếng tích tắc đếm ngược của đồng hồ.
Bà nhắm mắt lại hít một hơi sâu. Thở ra một hơi sâu. Cố gắng nghĩ nước đi tiếp theo, bà tự nhủ. Tắt hết mọi tiếng ồn, chặn hết tất cả sóng nhiễu. Nhìn thật rõ…
“Mẹ?”
Im lặng. Rồi bà mở bừng mắt.
Nhịp tim bà bắt đầu đập nhanh hơn. Đập thình thịch trong lồng ngực bà. Tháp Đồng hồ Big Ben đang điểm những thời khắc quý giá. Những bản hòa âm lúc nửa đêm vun vút lao tới.
Tâm trí bà đang chạy hết tốc lực cùng trái tim bà. Gần tới rồi. Gần tới rồi.
Rồi bà đã hiểu. Ý tứ của Đại Giáo chủ.
Ellen sải bước tới mở tung cửa ra. Khi làm thế, bà nghe thấy Boynton và vị quan chức Iran tội nghiệp đang nói chuyện về loại cây mà Nhà Tiên tri có thể có, nếu như ngài ấy có một cái cây.
Bà nghi ngờ mình đã lỡ chen ngang khoảnh khắc trước khi Chánh Văn phòng của bà bị bắt giữ, vì tội báng bổ.
“Charles!”
Anh ta nhìn bà, như con cá mắc trên lưỡi câu. “Vâng?”
“Vào đây.”
Anh ta không đợi nhắc đến câu thứ hai.
“Tôi cần phải đi,” bà nói khi đóng sập cửa lại sau lưng anh ta. “Ngay bây giờ.”
“Phải, tôi cũng đã nói thế,” Boynton nói.
“Và cậu cần phải ở lại.”
“Hả?”
“Cậu và Katherine.” Cả hai cùng nhìn bà.
“Chúng ta không bỏ Anahita được,” Ellen giải thích, giọng bà hoàn toàn bình thường. Chắc chắn tất cả những ai nghe lén bên ngoài có thể nghe thấy mình. “Tôi cần phải quay về D.C và nói chuyện với Tổng thống Williams về tình hình. Nhận các chỉ dẫn của ông ấy. Hai người cần phải ở lại Iran cho đến khi tôi quay lại. Trong khi đó, hai người có thể đi thăm quan.”
Cả hai nhìn bà như thể bà bị mất trí.
“Hai người sẽ bị theo dõi đấy. Cũng có thể tham gia trò săn đuổi vô nghĩa với họ. Cứ để họ nghĩ rằng hai người đang âm mưu gì đó. Đến thăm Persepolis chẳng hạn. Chờ đã, tốt hơn là hãy đi thăm quan nghệ thuật hang động thời tiền sử tại Baluchestan.”
“Mẹ đang nói cái gì thế?” Katherine nói.
“Mẹ đã đọc về nó trên đường tới đây,” Ellen giải thích. “Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những bức vẽ hang động tại đó. Mười một ngàn năm trước. Vài người tin rằng điều này chứng minh hàng nghìn năm trước những người Iran đã di cư tới Mỹ.”
“Cái gì cơ?” Katherine nói, hoàn toàn không hiểu gì hết, trong khi Boynton nghĩ rằng tốt nhất không nên nói gì hết.
“Các bức vẽ ấy đã vẽ chính con ngựa mà các Thổ dân Nam Mỹ đã cưỡi. Không quá bất ngờ nếu hai người muốn xem nó.”
“Thế sao?” Cuối cùng Boynton lên tiếng. “Có thật không?”
“Tất nhiên, như lời xác nhận rằng tất cả chúng ta là một dân tộc. Nghe này, vấn đề là để dụ bất kỳ kẻ nào bám theo hai người trong cuộc săn đuổi thú vị.”
“Thú vị ư?” Boynton nói.
“À cuộc săn đuồi chán ngắt, nếu cậu thích gọi thế.”
Trong khi Boynton tìm hiểu về nghệ thuật đá, Katherine hạ giọng xuống thành thầm thì khàn khàn. “Mẹ, những quả bom. Anh Gil đã nói gì với mẹ. Chúng ta không thể phí thời gian được.”
“Mẹ không phí,” Ellen nhìn thẳng vào mắt con gái mình, Katherine nhìn thấy trong đó lòng quyết tâm.
“Đến chỗ ấy mất gần mười hai tiếng đi xe,” Boynton nói, ngước mắt lên từ điện thoại.
“Tôi chắc chắn họ có thể cho hai người bay tới gần đấy, rồi đi bằng ô tô,” Ellen nói, lấy lại giọng bình thường. Hoặc cố gắng tỏ ra bình thường. “Hai người có thể ngủ trên đường đi, nếu bất kỳ ai quan tâm tới bất kỳ hành động của hai người thì họ sẽ bỏ thời gian theo dõi hai người.”
“Nhưng chúng tôi cũng sẽ lãng phí thời gian và công sức,” Boynton phản đối.
Katherine nhìn mẹ mình, đôi mắt bà đang đỏ ngầu vì kiệt sức nhưng vẫn rực sáng. Tài giỏi hay điên rồ, Katherine không nói chắc được. Phải chăng tin nhắn của Gil, và áp lực phải cố gắng ngăn chặn một thảm kịch, đã ép bà đến tận cùng giới hạn?
“Anahita?” Katherine nói. “Và Zahara? Mẹ muốn bọn con làm gì để cứu họ đây?”
“Cả hai người Iran cũng bị bắt nữa?” Charles nói.
“Mẹ sẽ xem Tổng thống Williams muốn làm gì. Những quyết định này vượt quá sức mẹ rồi. Mẹ sẽ quay lại sớm thôi. Nghe này, hai người cứ việc tạo ra ầm ĩ càng nhiều càng tốt về chuyện tham quan các hang động đó. Nếu hai người bị theo dõi, chúng sẽ không còn chú ý đến việc mẹ đang làm nữa.”
Khi đang nói, bà gửi một tin nhắn nhanh cho Katherine.
Đi đi. Hãy tin mẹ. Mẹ sẽ giải quyết nó.
***
Trời đã tối mịt khi Ngoại trưởng Adams bước lên phi cơ của Quốc vương. Vừa vào trong khoang hành khách rộng rãi, bà đã cởi ngay burqa ra và đưa lại cho vị nữ quan chức.
“Bà cứ giữ đi,” bà ta nói, bằng tiếng Anh hoàn hảo. “Tôi tin rằng bà sẽ còn quay lại mà.”
Khi phi cơ hạ cánh xuống đường băng ở chặng đầu tiên trong hành trình dài về nhà, Ellen ngồi ở hàng ghế đầu, như thể làm thế sẽ đưa bà chóng về Washington hơn.
Hình ảnh cuối cùng của bà về Katherine là con gái bà cùng Boynton đang lên một chiếc xe khác trong cuộc hành trình dài của riêng họ, tới các hang động.
Bà đã hy vọng và cầu nguyện mình hiểu đúng câu chuyện của Giáo chủ về mèo và chuột. Bà hoàn toàn chắc chắn rằng ông ta bắt giữ Anahita Dahir để ai đó trong đoàn của Ellen phải ở lại .
Việc ông ta công khai trục xuất Ngoại trưởng Adams, nhưng lại cho phép con gái bà cùng Chánh Văn phòng của bà ở lại, càng khẳng định với Ellen điều đó.
Ông ta đang chơi trò đánh lạc hướng. Ông ta muốn nói một chuyện cho họ, nhưng Ellen bị theo dõi quá chặt.
Thế nên Lãnh tụ Tối cao đành phải ép bà rời khỏi đất nước, trong khi bảo đảm rằng ai đó từ phái đoàn Mỹ sẽ phải ở lại để gặp gỡ người cấp tin và có được thông tin mình cần.
Khi máy bay lên tới độ cao hành trình, Ellen nhận được tin nhắn của Katherine.
Máy bay đang đợi bọn con tại sân bay. Bọn con bị theo dõi.
Ellen cúi đầu xuống, thở ra hơi dài nhẹ nhõm.
Bọn họ bị theo dõi. Đây là những gì Khosravi muốn bà làm.
Bà gửi lại nhanh biểu tượng tán thành, rồi ngả người vào ghế. Tự tin. Chắc chắn bà đã hiểu đúng ý của Lãnh tụ Tối cao Nước Cộng hòa Hồi giáo Iran.
Nhưng…
Bà đã cố gắng xua ý nghĩ phản bội ấy đi. Nhưng…
Người đàn ông đó là một kẻ khủng bố. Một kẻ thù không đội trời chung của nước Mỹ. Kẻ đã tài trợ cho bất kỳ cuộc tấn công nào vào phương Tây. Và bà vừa đặt con gái mình, vừa đặt cả dân tộc mình vào tay người này ư? Trên cơ sở một câu chuyện ngụ ngôn mèo-và-chuột nào đó?
Bà đang tin tưởng rằng vị giáo sĩ già quỷ quyệt này không phải đang giăng bẫy, và bà cũng không chỉ đơn giản là bước thẳng vào đó.
Đó là suy nghĩ cuối cùng của bà trước khi ngủ thiếp đi vì kiệt sức.
***
Boynton làm dấu thánh khi cánh cửa dẫn vào chiếc máy bay nhỏ đóng lại.
Họ đã cố gắng chợp mắt một chút trên chuyến bay đến tỉnh Sistan và Baluchestan, nơi mà Charles Boynton đã thông báo cho Katherine theo phong cách u sầu giống Eeyore của anh ta khi họ bắt đầu hạ cánh, ở đây nằm cách không xa biên giới Pakistan. Theo ý anh ta, bằng cách nào đó, điều này khiến tất cả mọi chuyện tệ hơn.
Nhưng khi nhìn ra ngoài cửa sổ, cố gắng căng mắt nhìn vào bóng tối để thấy một vùng đất nào đó, Katherine nghĩ anh ta chắc không biết rằng các quả bom hạt nhân đã xuất hiện tại các thành phố ở Mỹ. Anh ta không biết “tồi tệ” thực sự là như thế nào.
Một người nhiều tuổi hơn, tóc hoa râm, tên là Farhad đến đón họ ở sân bay và giải thích rằng mình sẽ là lái xe kiêm hướng dẫn viên cho họ. Họ lên chiếc xe rách nát của ông ta, nồng mùi thuốc lá, ông ta đưa họ tiến vào trong sa mạc.
Ông ta nói tiếng Anh thuần thục, giọng nhẹ nhàng và du dương. Ông ta nói mình từng đưa các nhà khảo cổ phương Tây tới địa điểm này. Rõ ràng ông ta rất tự hào về điều đó. Chỉ có ba người bọn họ trong xe, và xung quanh không còn chiếc xe nào khác. Không có lính gác và các nhà quan sát vốn phải có mặt quanh đây. Mọi người đều chẳng buồn quan tâm tới họ.
Charles Boynton cũng thấy mất hứng thú, nhìn chằm chằm quang cảnh chỉ toàn là cát và đồi nhỏ trải dài tựa như bất tận ngoài cửa sổ trong ánh chạng vạng.
Khi lái xe, Farhad kể cho họ nghe về những phát hiện chữ tượng hình và thuật khắc đá thời kỳ Đồ đá, về các con thú, cây cỏ và con người.
“Vài người đã vẽ tranh bằng thuốc nhuộm thực vật,” ông ta giải thích. “Vài người vẽ bằng máu. Có tới hàng nghìn bức vẽ như thế.”
Ông ta bảo khu vực này về căn bản bị khách du lịch làm ngơ, bất chấp sự phong phú đa dạng của nghệ thuật trên đá.
“Chẳng có du khách nước ngoài nào từng tới đây.”
Ông ta rất nhiệt tình nói về nhu cầu bảo vệ những phát hiện này. Ông ta nhìn Katherine, đang ngồi kế bên ông ta trong khi Boynton ngáy o o ở ghế sau. Đầu ngửa lên thành ghế, miệng há ra.
“Đó là lý do hai người tới đây đúng không? Để bảo vệ những gì là quan trọng?”
Ánh mắt của ông ta trở nên căng thẳng, cô gật đầu. Chỉ là không rõ cô đang đồng ý điều gì. Họ đến nơi đúng lúc mặt trời lên cao. Cố gắng đánh thức Boynton xong, họ trèo lên một cao nguyên và Farhad tổ chức nghỉ ngơi nhanh bằng cà phê mạnh từ các bình giữ nhiệt, quả chà là và quả sung, cam, pho mát và bánh mỳ.
Katherine chụp ảnh Boynton và Farhad. Cậu Chánh Văn phòng vẫn còn mặc nguyên bộ vest và đeo cà vạt, trông như thể anh ta vừa bước ra từ một cánh cửa bí mật tại Foggy Bottom đến nơi này vậy.
Bất ngờ. Sầu muộn.
Cô gửi ảnh về cho mẹ, kèm một ghi chú ngắn cho biết họ sẽ đến các hang động và sẽ nhắn tin nhiều hơn khi có thêm chuyện để kể.
Lúc này, ngồi chênh vênh trên các hòn đá khi mặt trời lên cao, Katherine nhìn ngắm khung cảnh xa xưa, như nó vẫn như thế suốt hàng chục nghìn năm, có lẽ là hàng triệu năm. Và cảm thấy rất kinh ngạc. Nhiều người khác cũng đã ngồi tại chính nơi cô đang ngồi. Chạm khắc lên đá để miêu tả cuộc sống của họ. Những niềm tin của họ. Những ý tưởng của họ. Thậm chí cả những cảm xúc nữa.
“Tôi có thể?” cô hỏi, và khi Farhad gật đầu, cô đưa ngón trỏ ra lần theo những đường kẻ.
“Đó là một con đại bàng,” ông ta giải thích. “Còn kia - ông ta đưa tay chỉ những đường kẻ phía trên - “là mặt trời.”
Katherine không hiểu tại sao mình lại cảm thấy nghèn nghẹn ở cổ họng và đôi mắt cô ầng ậng nước. Giống như một đoạn nhạc nào đó vươn đến tận những ngóc ngách sâu thẳm nhất trong cô. Hay một đoạn trong cuốn sách khiến cô xúc động. Có những bức vẽ về ngựa và thợ săn, lạc đà và bầy chim đang bay lượn. Dưới những tia nắng ấm áp. Họ là những con người rất sâu sắc.
Những bàn tay đã ghi lại những gì họ cảm thấy, về mặt đất hay về ánh mặt trời. Họ cũng muốn ghi lại nghi lễ của mình. Cuộc sống của họ không hề khác chút nào so với cuộc sống của cô.
Và không khác gì so với việc cô hay làm với mạng lưới báo chí và truyền hình cô điều hành. Với họ thì hình vẽ trên đá này chính là tin tức. Là những sự kiện trong ngày của họ.
Cô cảm thấy thật dễ chịu khi nhấm nháp cà phê, ăn trái cây và pho mát. Ngắm mặt trời mọc. Và cô cần cảm giác dễ chịu.
Cô đã rất sợ hãi với âm mưu của Shah. Sợ hãi thứ mà hắn đã gài vào các thành phố ở nước Mỹ. Cô sợ bọn họ sẽ không thể ngăn chặn nó.
Cô thấy bối rối không hiểu tại sao mẹ cô lại cử họ tới đây, việc bà cần họ làm là việc gì. Thế nhưng, lần theo dấu mặt trời khiến Katherine cảm thấy thực sự bình yên.
Những phát hiện về sự sống tồn tại một thiên niên kỷ trước. Và khi cuộc đời rồi sẽ kết thúc thì sự sống vẫn tiếp diễn.
“Đi nào,” Farhad nói khi dọn dẹp bữa sáng, “những thứ tốt đẹp nhất còn ở bên trong.”
Hất đầu về con đường trông như khe nứt hẹp trong đá, ông ta đứng dậy rồi đưa cho mỗi người một chiếc đèn lồng. Họ len qua vết nứt, Boynton lẩm bẩm, “Chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt.”
Khi đã vào trong, Katherine phủi đất đỏ khỏi áo khoác rồi nhìn quanh, di chuyển ánh sáng thành đường vòng cung chậm rãi. Cô không trông thấy bất kỳ bức vẽ nào nữa.
“Ở sâu phía dưới cơ,” Farhad giải thích. “Đó là lý do tại sao phải đến gần đây chúng mới được phát hiện.”
Ông ta đi phía trước họ khi Boynton và Katherine liếc nhìn nhau.
“Có lẽ tôi nên ở lại đây thôi,” Boynton nói.
“Có lẽ anh nên đi cùng tôi,” Katherine nói.
“Tôi không thích hang động.”
“Anh đã từng đi vào hang động nào chưa?”
“Rõ ràng cô không dành nhiều thời gian ở Nhà Trắng,” anh ta thì thầm.
Tiếng cười của Katherine vọng xuống các hang lớn rồi dội ngược lại họ như một tiếng rên khẽ.
Cô rút điện thoại ra. Không có sóng. Cô rất muốn quay lại hành trình của họ, nhưng pin không còn nhiều nữa, thế nên cô đành tắt điện thoại nhưng vẫn cầm nó trong tay, như thứ bùa hộ mệnh.
Họ đi theo Farhad rẽ ngoặt ở góc hang và thấy ông ta dừng lại. Rồi ông ta quay lại nhìn họ.
“Tôi nghĩ đến đây là đủ xa rồi.” Trong tay ông ta là khẩu súng.
Họ nhìn chằm chằm tay hướng dẫn viên. Và khẩu súng.
“Ông đang làm gì thế?” Katherine cố gắng hỏi.
“Đợi chờ.”
Và rồi họ nghe thấy nó, từ một nơi còn sâu thẳm hơn trong hang động. Những tiếng bước chân. Tiếng vọng khiến họ không thể đoán được bao nhiêu người đang đến. Nghe như có hàng trăm người. Và Katherine có ý tưởng mơ hồ rằng những bóng hình cổ xưa trên các bức tường, được vẽ bằng máu, đã sống lại. Đã bước ra khỏi phiến đá và đang bước tới gần.
Họ quay về phía phát ra âm thanh, Katherine trông thấy vũ khí của Farhad lúc này đang chĩa vào bóng tối. Vào bất cứ thứ gì đang tiến tới mỗi lúc một gần.
Cô nhanh tay đặt cây đèn xuống mặt đất rồi ra dấu cho Boynton làm theo, rồi họ lặng lẽ lùi vào bóng tối, tránh khỏi luồng sáng.
Họ mới lùi được ba bước thì trông thấy có kẻ đang tiến ra khỏi vòm sâu của hang cổ. Ban đẩu trông nó giống như một chùm sáng nhấp nhô. Những linh hồn lơ lửng.
Nhưng khi chúng tới gần hơn, các hình bóng phía sau ánh sáng đã dễ nhìn hơn.
Đó là Anahita. Cùng Zahara và cha của cô, Tiến sĩ Ahmadi. Và hai tay đặc vụ người Iran, các tài sản của nước Mỹ, những người đã gặp gỡ Zahara và gửi đến tin nhắn. Đi với họ là hai lính Vệ binh Cách mạng, tay cầm vũ khí nhưng không chĩa về phía các tù nhân mà nhắm vào Farhad, Katherine và Boynton.
Họ dừng lại cách nhau hơn bốn mét.
Phải chăng mẹ cô đã phạm phải sai lầm khủng khiếp? Katherine tự hỏi. Đây là cách mọi chuyện kết thúc sao? Máu của cô sẽ bắn lên các bức tường? Cùng nhập hội với tổ tiên từ xa xưa? Để rồi sau hàng thế kỷ, các nhà nhân loại học sẽ giải thích rằng những vết máu bắn lên tường này là nỗ lực vẽ lại sơ đồ của các vì sao ư?
Rốt cuộc có vẻ như bài báo mà mẹ cô đọc đã đúng. Những người Iran và người Mỹ cổ xưa đã phải chịu kết cục ở cùng một nơi. Chỉ là nơi ấy không phải Oregon, mà là trên những bức tường trong hang động này.
Katherine nhìn xoáy vào mắt Anahita, đôi mắt giờ cũng đang tràn ngập sự khiếp đảm. FSO cũng đang suy nghĩ giống cô.
Đây là kết cục.
Katherine nhấn vào nút quay video trên điện thoại của cô. Bất kỳ chuyện gì đã xảy ra với họ sẽ đều được ghi lại.
“Mahmoud?” Một trong các đặc vụ Iran đã bị bắt đang ngó họ. Farhad khẽ hạ khẩu súng trong tay xuống, nhưng không bỏ xuống hắn. “Tôi nghe nói họ đón các cô.”
“Đúng,” cô ta nói, không mỉm cười. “Chắc ai đó được báo tin.” Cô ta quay sang hai tay lính. “Các anh có thể hạ súng xuống được rồi. Đây là những người chúng ta sẽ gặp.”
“Mahmoud ư?” Katherine thì thầm. “Tôi tưởng tên ông là Farhad.”
“Khi làm hướng dẫn viên thì đúng thế.”
“Thế thì bây giờ ông là ai?” Boynton hỏi.
“Cứu tinh của các người.”
Nữ đặc vụ lắc đầu. “Cái bản ngã biết đi giống người thôi. Anh ta là người cấp tin cho MOIS.”
“Cơ quan tình báo Iran,” Boynton nói.
“Mahmoud cũng làm việc cho cả mafia Nga,” người phụ nữ giải thích, rõ ràng là khinh thị. “Đó là lý do tại sao chúng ta có mặt ở đây đúng chứ?”
Tất cả bọn họ vẫn đang đứng cách nhau bốn mét rưỡi. Trong khi trò chuyện có vẻ thân mật và bình đẳng, nhưng có điều gì đó vẫn khiến họ vô cùng căng thẳng. Giống như những con thú ăn thịt đang sẵn sàng vồ mồi.
Cây đèn của Katherine vẫn nằm dưới đất, hắt ánh sáng lên vách đá lởm chởm của hang động. Chiếu sáng những bức vẽ tuyệt đẹp.
Duyên dáng và khiêu gợi. Những bức vẽ này mang vẻ đẹp choáng ngợp hơn hẳn các bức vẽ bên ngoài.
Có một dòng chảy lưu chuyển về phía họ khi những người đàn ông hiếu chiến trên những con ngựa thuần chủng và lạc đà, đâm những ngọn giáo của họ về phía sinh vật như loài mèo đang gào thét, quằn quại kia.
Đây là một cuộc săn. Đây là cuộc giết chóc.