Để quên đi nỗi buồn về chuyện tình cảm, Trương Duy quyết định chuyển vào ở trong ký túc xá của trường.
Phòng anh có bốn người, ngoài anh ra, ba người còn lại đều học khoa Văn, Lục Hữu và Trần Đại Lượng học Văn học cổ điển, Ngô Văn Hàn học Văn học hiện đại. Bạn gái của Lục Hữu làm ở Bắc Kinh, vì vậy anh ta đành phải lên Bắc Kinh, Trần Đại Lượng là sinh viên vừa tốt nghiệp, vì sợ đi làm nên mới phải học tiếp, Ngô Văn Hàn là sinh viên vừa tốt nghiệp một trường đại học ở Sơn Đông và có vẻ là người có chí tiến thủ hơn một chút.
Trương Duy tìm gặp người phụ trách Câu lạc bộ Văn học của Đại học Phương Bắc. Đó là một cô gái tên Văn Thanh, là sinh viên năm thứ ba, một người chuyên sáng tác thơ. Trương Duy đã gặp cô hơn một năm trước, lúc đó tóc cô vẫn buộc túm lên, vẻ mặt còn rất ngây thơ, nhưng bây giờ, trông cô như đã trải qua một thử thách rất khắc nghiệt, nét mặt đã có nhiều đổi thay và đượm vẻ mệt mỏi. Trương Duy cũng đã đọc thơ của cô, những bài thơ rất mới mẻ, thuộc trường phái hậu hiện đại. Anh không thật sự thích dòng thơ ấy, nhưng dù sao cùng là người làm thơ, anh cảm thấy cô là người có chung chí hướng với mình. Nhìn thấy Trương Duy, Văn Thanh rất vui, cô rót nước mời anh. Những cô gái khác trong phòng nghe nói anh chính là Trương Duy thì đều nhìn với ánh mắt rất ngưỡng mộ. Anh nói: “Văn Thanh à, tìm giùm tôi mấy người anh em yêu văn học nhé, tôi muốn nhờ họ chuyển giúp ít sách”. Văn Thanh nói: “Được thôi. Nhưng mà em chưa có sách của anh đâu đấy, trong khi những người khác đều đã có cả rồi”. Anh cười đáp: “Được rồi, anh sẽ tặng em”. Văn Thanh nói: “Anh chờ em một chút!” rồi chạy xuống gác gọi mấy người lên. Một lát sau, có mấy chàng trai chạy tới, trong số đó có hai người lần trước cũng chuyển đồ giúp Trương Duy, tuy không nhớ được tên họ nhưng anh cảm thấy họ rất gần gũi, thân thiết.
Mấy người đó cùng tới chỗ Trương Duy. Nhìn thấy căn phòng bừa bộn đồ đạc, họ biết chuyện kết hôn của anh đã không thành, ai cũng bất bình thay cho anh, nhưng cũng có người cho rằng, một nhà thơ cần phải có số phận trắc trở, cần phải trải qua sự thể nghiệm tâm lý trên nhiều mặt, nếu không thì không phải là một nhà thơ chân chính. Nghe những lời ấy, Trương Duy nghĩ, cuối cùng cũng có người hiểu mình. Văn Thanh cứ gặng hỏi nguyên nhân, Trương Duy đành trả lời vắn tắt. Nghe xong, cô cười đáp: “Chuyện ấy thì có gì đâu, để em giới thiệu cho anh một cô gái xinh đẹp chẳng kém gì chị ấy nhé!”. Trương Duy chỉ mỉm cười.
Khi họ tới chỗ ông Phòng để lấy sách, ông nói: “Đúng rồi, mau mang chúng đi, nói thật ngày nào tôi cũng cảm thấy phát phiền đấy! Tôi biết các anh quý chúng như sinh mạng nhưng chẳng còn cách nào khác, mỗi người mỗi khác mà”. Trương Duy nói: “Cháu mang về phòng cháu trước, rồi sau đó sẽ mang một ít đến trường”. Mỗi người một tay, Văn Thanh thì đứng chỉ huy, bỗng có người kêu lên rằng sách đã bị chuột gặm rồi. Trương Duy đang đi lên trên gác, nghe thế liền chạy xuống. Anh mở các thùng sách ra xem thì thấy đúng vậy, anh rất giận dữ, nhưng nhìn kỹ thì hóa ra đó đều là những quyển sách bị in hỏng, anh bật cười nói: “Không ngờ những cuốn thơ mà người đời không xem thì chuột lại thích xem”.
“Chưa biết chừng lũ chuột cũng hiểu những bài thơ đó, nếu không thì làm sao lại có hẳn một lối cho cả lũ chuột vào như thế này”, Văn Thanh cũng đùa. Một người chỉ tay đếm, cả thảy gần một trăm cuốn bị chuột gặm. Văn Thanh hỏi làm thế nào với số sách này bây giờ, Trương Duy đáp: “Chúng ta hãy mang đi hai trăm cuốn, tức là vào năm túi, mỗi người một túi, riêng Văn Thanh thì không cần phải động tay vào”.
Sau đó họ cùng mang sách ra bến xe. Những người trên xe đều nhìn họ chằm chằm, Văn Thanh cười nói: “Có lẽ họ tưởng chúng ta là những người bốc vác thuê”. Trong số những người giúp Trương Duy còn có hai người nói tiếng địa phương, vì thế người bán vé càng nhìn họ bằng con mắt không thiện cảm, anh ta nói: “Những thứ này cũng phải mua vé”. Văn Thanh đáp: “Chúng tôi không chiếm chỗ của người khác là được chứ gì!”. Người bán vé nói, không được, phải mua thêm hai vé nữa mới đủ. Trương Duy đang định mua thì Văn Thanh nói: “Căn cứ vào đâu mà họ làm như vậy? Họ quen thói bắt nạt những người tỉnh lẻ đấy thôi!”. Trương Duy nói: “Thôi, tranh cãi với họ làm gì cho mất thời gian!”. Thế là anh mua thêm hai vé nữa cho xong chuyện. Lúc xuống xe, mọi người đều tức giận và nói mãi về chuyện đó, rồi dần dần lại nói tới cái nghèo của các nhà thơ. Đa số đều cho rằng, các văn nhân cần phải được hưởng chế độ đãi ngộ tử tế thì mới có thể viết được những tác phẩm hay. Cậu sinh viên lúc trước từng nói rằng nhà thơ chân chính cần trải qua những trắc trở thì phát biểu: “Các nhà thơ nhà văn thường viết ra những tác phẩm hay từ trong nghịch cảnh, một khi được hưởng thụ cuộc sống quá đầy đủ thì họ lại không viết ra được những thứ hay nữa”. Văn Thanh liền mắng cậu ta là người suy nghĩ quá cổ hủ, cô nói: “Những người làm công việc sáng tác cũng có người tốt kẻ xấu, người sáng tác chân chính thì dựa vào tài năng, tinh thần và trí tuệ của mình, điều ấy chẳng liên quan gì đến điều kiện sống tốt hay xấu!”. Mọi người quay sang hỏi ý kiến của Trương Duy về chuyện này, anh đáp: “Cái nghèo của nhà thơ là do số phận, nhưng nhà thơ không nên oán thán về việc đó, mà cần phải suy nghĩ xem mình có lương tâm, đạo đức và khí tiết thực sự hay không”. Nghe xong ý kiến của Trương Duy, mọi người đều tỏ ý tán đồng.
Nhưng Trương Duy vẫn luôn tự hỏi: Thật sự không nên buồn phiền về sự nghèo khó ư? Không, không đúng. Nếu không phải vì nghèo hèn thì anh đã không mất Ngô Á Tử. Lần đầu tiên anh cảm thấy mình đã nói dối một chuyện lớn.
Trương Duy bảo mọi người cho sách xuống gầm giường, rồi anh lấy một túi và mở ra. Trương Đại Lượng và những người khác cùng nhìn rồi kêu lên: “Ôi, Trương Duy, cậu giỏi thật đấy, đã có sách xuất bản rồi cơ à!”.
Buổi tối Văn Thanh lại tới tìm Trương Duy, nói rằng các thành viên của cậu lạc bộ thơ đã thảo luận và quyết định sẽ mua một trăm cuốn thơ của anh, coi như là ủng hộ. Vừa nghe thế, Trương Duy rất vui, anh liền nói: “Thôi, mình sẽ tặng mọi người một trăm cuốn đó!”.
Trương Đại Lượng nói với Văn Thanh: “Những người hâm mộ Trương Duy của chúng ta nhiều thế sao?”. Văn Thanh đáp: “Có lẽ các anh chưa biết, Trương Duy là một trong những nhà thơ tiêu biểu của trường phái thơ siêu thực bây giờ đấy!”.
Lúc đó Ngô Văn Hàn mới xen vào: “Trương Duy à, thật không ngờ bậc đại sư lại ở ngay bên cạnh chúng tôi!”.
Buổi tối hôm đó, nhà thơ Trương Duy ngồi kể cho các bạn cùng phòng biết trước đây anh đã làm thơ như thế nào, rồi kể về truyền thống văn học của Đại học Phương Bắc. Họ đã nói chuyện rất khuya, mấy người kia còn xin chữ ký của Trương Duy nữa. Ngô Văn Hàn nói, anh ta sẽ nghiên cứu về truyền thống văn học của Đại học Phương Bắc và nhờ Trương Duy nghĩ giùm anh ta tên đề tài.
Đêm hôm ấy Trương Duy lại mất ngủ. Lần này là vì quá phấn khích. Sáng sớm hôm sau, khi mọi người đều đã dậy thì chỉ còn Trương Duy vẫn ngủ. Trương Đại Lượng có thói quen tập thể dục buổi sáng từ hồi còn học đại học. Lục Hữu vẫn giữ thói quen hình thành trong hai năm đi làm, cứ đặt mình xuống là ngủ say tít, khi anh ta tỉnh dậy thì Trương Đại Lượng và Ngô Văn Hàn cũng đã tập thể dục xong và trở về. Thấy Trương Duy vẫn còn ngủ, Lục Hữu cúi xuống nhìn anh hồi lâu và nói với hai người kia rằng: “Sao tôi thấy con người này chẳng có chút gì giống một nhà thơ siêu thực nhỉ?”.
Đến mười giờ sáng Trương Duy mới dậy. Trương Đại Lượng đã lên thư viện, Lục Hữu không có thói quen này, anh ta thích nằm đọc sách trong chăn hơn. Còn Ngô Văn Hàn mượn sách từ thư viện về, vừa vào đến cửa đã lên tiếng trách móc thầy hướng dẫn rằng ông ta kê một danh mục sách đọc cả đời cũng không hết, thế mà lại bắt họ đọc nó trong một học kỳ, đúng là điên. Lục Hữu thấy Trương Duy đã dậy bèn nói: “Buổi sáng, lúc thức dậy, tôi đã nhìn cậu rất lâu, tôi muốn xem cậu có gì khác với mấy người tầm thường chúng tôi. Nhưng ngoài việc cậu ngủ dậy muộn hơn, tôi chẳng thấy có gì khác thường cả”. Trương Duy cười, Lục Hữu lại hỏi: “Có phải nhà thơ nào cũng giống con cú mèo không?”. Trương Duy đáp: “Không rõ nữa, tôi bị mất ngủ, gần bốn năm rồi”. Lúc ấy Ngô Văn Hàn bước tới, nói: “Mất ngủ, đau đầu, thần kinh suy nhược đều là các chứng bệnh thông thường của những người sáng tác. Tôi thì có muốn mất ngủ cũng chẳng được”. Trương Duy cười đáp: “Cậu chớ có muốn mất ngủ, bây giờ tôi đang vô cùng khổ sở đây này. Cậu nghĩ mà xem, trong khi người khác ngủ ngon lành thì tôi nằm nghe tiếng ngáy của họ và cảm thấy như mình bị gạt bỏ khỏi cuộc sống của những người bình thường. Cho dù tôi cố gắng hòa nhập với cái thế giới này thế nào chăng nữa cũng đều vô ích. Những lúc ấy, tôi nghĩ, nếu cứ sống như vậy thì còn có ý nghĩa gì nữa? Tôi thường nghĩ tới chuyện tự tử, thật đấy. Mọi người chưa biết đến nỗi khổ mà những cơn mất ngủ mang đến đâu”.
Lục Hữu hỏi: “Bây giờ cậu còn nghĩ đến chuyện tự tử nữa không?”.
“Không. Bây giờ tôi chỉ muốn làm rõ, rốt cuộc là tôi có vấn đề gì. Anh nghĩ xem, một người từ cõi chết trở về liệu có còn định tự tử nữa không? Sau mỗi lần sống lại, tôi phát hiện ra rằng, thế giới vẫn cứ như vậy, chẳng có gì thay đổi, ý nghĩa của đời người cũng chẳng thấy rõ ràng thêm. Tôi thường nghe người ta nói rằng, một người bị chết hụt thì sẽ hiểu rằng nên sống như thế nào, sẽ biết cách quý trọng cuộc sống hơn. Nhưng có lẽ đó chỉ là do người ta nghĩ ra, chứ riêng tôi, tôi thấy mình vẫn như cũ”, Trương Duy nói.
Ngô Văn Hàn nói: “Tôi từng đọc những bài viết nói về chuyện tự tử của Albert Camus10 và một số nhà phê bình thơ khác. Trong đó nói, việc tự tử của các nhà thơ là bi kịch thực sự của một thời đại, nó nói lên rằng, tinh thần của thời đại ấy có vấn đề, hoặc là nhà thơ kia đã mất đi tín ngưỡng của mình và không tìm được lối thoát nên mới tự tử”.
10 Albert Camus (1913 - 1960) là một nhà văn, triết gia người Pháp nổi tiếng, một trong những đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh.
Trương Duy nói: “Nguyên nhân sâu xa có lẽ là ở đó”.
Ngô Văn Hàn lại hỏi: “Nhưng làm thế nào để các nhà thơ này có thể tìm thấy tín ngưỡng, để họ không nghĩ tới chuyện tự tử nữa?”.
Lục Hữu nói: “Tôi cảm thấy những người này có phần điên khùng”. Nói đến đây, Lục Hữu thấy mình lỡ lời nên vội nhìn Trương Duy nói: “Xin lỗi, Trương Duy, ý tôi là, các nhà thơ thường rất khác người bình thường. Tại sao không bao giờ nghe thấy chuyện một người bình thường tự tử một cách vô duyên vô cớ? Vì thế tôi nghĩ, quan điểm của tôi tuy có phần thô thiển, nhưng nó rất thực tế. Tôi cho rằng, con người chẳng nên suy nghĩ về những chuyện như ý nghĩa của cuộc đời là gì, mà cứ sống bình thường, cần làm việc gì thì làm việc ấy, thế là đủ”.
Trương Duy nói: “Thế nào gọi là cần làm gì thì làm nấy? Cuộc sống của chúng ta hiện nay chẳng phải là do những người đi trước kiến tạo đó sao? Trước đây, khi văn hóa Nho gia chiếm vị trí chủ đạo thì mọi chuyện lễ giáo hành xử của con người ta đều căn cứ theo giáo lý Nho gia, sau đó nền văn hóa phương Tây xâm nhập vào, với những quan niệm như tự do yêu đương, giải phóng tình dục… thì chúng ta lại hành xử theo những thứ đó, nhà trường có quy định của nhà trường, Nhà nước có pháp luật của Nhà nước, mỗi chúng ta đều có cách nghĩ của mình, nhưng đều không được vượt ra khỏi khuôn khổ quy định của nhà trường và pháp luật của Nhà nước, vì thế nhiều hành vi của chúng ta đã bị thay đổi, bị hạn chế. Chúng ta làm gì còn tự do? Ai là người buộc chúng ta phải sống như vậy? Những điều họ nói có lý hay không? Nếu không có lý, thì chúng ta có cần phải tiếp tục hành động như vậy không? Những điều này, những người bình thường sẽ không nghĩ tới, chỉ có nhà thơ, triết gia và những con người có trí tuệ, lý trí và lương tri mới phải trăn trở, vì thế khi những người này tự tử cũng có nghĩa là xã hội có bi kịch. Bi kịch đó chính là mâu thuẫn giữa những giá trị xưa và nay, mâu thuẫn trong tín ngưỡng, cho nên việc tự tử của họ hoàn toàn không giống với việc tự tử của những người bình thường”.
Lục Hữu nói: “Nhưng chúng ta đều là những người bình thường cho nên cần phải sống theo kiểu của những người bình thường”.
Trương Duy tiếp tục: “Không, đó là vì anh tự cho mình là người bình thường, tự hạ thấp giá trị bản thân mà thôi. Tôi thì cảm thấy mình không phải người bình thường”.
Lục Hữu nổi nóng: “Thôi, tôi không thèm tranh luận với cậu nữa!” rồi bỏ đi. Ngô Văn Hàn cười nói: “Tranh luận mà làm gì, mỗi người một chí hướng, ai cũng có lý lẽ của mình”.
Trương Duy cũng không ngờ cuộc nói chuyện lẽ ra rất bình thường và vui vẻ lại trở nên như vậy. Một lần nữa anh ý thức được rằng, không thể đi sâu vào nội tâm của người khác, nếu cứ cố làm như vậy thì sẽ dẫn tới tranh cãi. Nhưng cũng một lần nữa anh nhận ra rằng mình đã nói dối. Anh cũng chỉ là một người bình thường, cũng cần đến tiền bạc, cũng cần đến một cuộc sống vui vẻ, chỉ có điều anh cảm thấy tất cả những thứ đó quá xa vời so với những giá trị mà anh theo đuổi.
Buổi trưa, Trương Duy không nhìn thấy Lục Hữu đâu. Anh cảm thấy thất vọng. Lục Hữu thật sự giận dữ, anh ta cảm thấy Trương Duy ít tuổi hơn mình nhưng nói năng quá ngông cuồng và dễ làm người khác tự ái. Anh ta chờ Trương Duy bắt chuyện với mình trước, nếu không anh ta sẽ không bao giờ nói chuyện với Trương Duy nữa.
Sáng hôm sau, khi Trương Đại Lượng và Ngô Văn Hàn đi tập thể dục buổi sáng, trong phòng chỉ còn lại Trương Duy và Lục Hữu. Trương Duy vẫn mơ màng không muốn dậy, Lục Hữu tuy đã dậy từ lâu nhưng vẫn nằm trên giường, xem xét động tĩnh của Trương Duy. Anh ta cũng không muốn so đo với Trương Duy nữa, bởi nếu cứ tiếp tục như thế thì chẳng có gì hay ho cả. Mãi tới khi Trương Đại Lượng và Ngô Văn Hàn trở về, Lục Hữu mới ngồi dậy. Ngô Văn Hàn nhìn thấy Trương Duy vẫn đang ngủ, bèn nói: “Này, cái gã ấy sao cứ ngủ mãi thế?”. Lúc đó Trương Duy mới tỉnh dậy, nghe thấy Lục Hữu đang nói về mình, anh liền mở mắt nói: “Này, ai đang nói gì tôi đấy?”. Ngô Văn Hàn cười nói: “Tôi đấy, anh tưởng là mình giỏi giang đến nỗi người khác không dám mắng nhiếc thật à?”. Trương Duy bật cười: “Mẹ kiếp, người ta ngủ thêm một chút cũng không được”. Ngô Văn Hàn cười nói: “Không được, dậy đi, chúng ta cần tranh luận thêm một chút”. Sau đó anh ta nói với Trương Đại Lượng: “Hôm qua cái gã này đã mắng nhiếc Lục Hữu tối tăm mặt mũi, lại còn nói mình không phải là người bình thường mà là thánh nhân”. Trương Duy phân trần: “Đấy là vì họ cứ dồn ép tôi đấy chứ”. Ngô Văn Hàn quay đầu lại cười nói với Lục Hữu: “Các anh cũng thật buồn cười. Cứ như trẻ con ấy”. Lục Hữu cũng nói: “Lần sau tôi sẽ không tranh luận với cậu ta nữa”. Trương Duy nghe thế bèn nói: “Nếu anh không tranh luận được thì đừng cố”. Nghe thế Lục Hữu lại có vẻ không vui, nhưng vẫn nói: “Được rồi, được rồi, tôi không tranh luận được với cậu, tôi biết cậu giỏi giang ghê gớm rồi!”. Trương Duy nghe vậy liền cười đáp: “Thôi mà, việc thì cũng xong rồi, tranh luận một chút về ý kiến của mình cũng chẳng sao. Tôi nghĩ, phải đổ máu vì chính kiến của mình, đó mới chính là những trí thức chân chính”.
Nhưng rồi càng nói, Trương Duy lại càng kích động, ba người còn lại thấy thế đành nhượng bộ tuyệt đối: “Được rồi, được rồi. Anh đúng, được chưa?”. Trương Duy định nói nữa nhưng mọi người cười và bảo: “Chúng tôi đã bảo là cái gì anh cũng đúng cả, còn chúng tôi đều sai, như thế vẫn chưa đủ à?”.
Trương Duy vừa tức vừa buồn cười, rõ ràng không phải mọi người nhường anh thực sự mà là đang cười nhạo tư tưởng của anh, chỉ là không muốn căng thẳng với anh thôi. Nói xong, họ đi ra ngoài hết, anh cầm chậu và khăn mặt đứng một hồi lâu suy nghĩ và tự nhủ: “Tôi không chỉ coi thường những đồ bỏ đi như các anh, mà còn coi thường cả cái thời đại này”.
Trương Duy nhìn thấy trên giá sách của những người bạn cùng phòng đều có cuốn thơ của anh, càng nghĩ anh càng thấy tức, thế là anh lấy hết những cuốn thơ ấy ném xuống giường. Anh biết, những người này chưa hề đọc chúng hoặc có đọc nhưng chẳng hề hiểu anh. Anh xé trang có lời đề tặng rồi châm lửa đốt những cuốn thơ ấy. Ngọn lửa mỗi ngày một to, anh nhớ tới thời đại học, nhớ tới Ngô Á Tử, nghĩ tới việc mình luôn khác biệt với mọi người và cả việc tự tử lần trước nữa, thế rồi anh bật khóc. Anh chưa bao giờ nghĩ rằng sẽ có một ngày anh đốt những tập thơ của mình thế này. Đây cũng coi như một lời thề, rằng anh sẽ không bao giờ bàn về ý nghĩa nhân sinh với những người như Lục Hữu nữa.
Có tiếng gõ cửa nhưng Trương Duy không ra mở. Anh không muốn người khác quấy rầy vào lúc anh đang buồn như thế này. Đốt xong ba cuốn sách cũng mất nửa tiếng đồng hồ. Anh có cảm giác máu trong người mình cũng đang bùng cháy trong ngọn lửa ấy, anh không còn phân biệt được đâu là ngọn lửa trong trái tim và đâu là ngọn lửa thực sự nữa, rồi đột nhiên anh thấy mình cần phải viết cái gì đó, anh vội lấy cuốn vở ghi chép đầu giường và viết lên đó:
Tôi, một người luôn vươn tới sự thiêng liêng bằng trái tim chân thành
Hướng về phía tây, và hướng về phía tây
Đời người thì ngắn ngủi, con đường tôi đi lại xa lắc
Tôi, một kẻ ăn trộm lửa
Một kẻ bị chư thần nguyền rủa
Hôm nay bỗng phát hiện ra
Tôi còn là một đứa con đơn côi bị đám đông vứt bỏ
Không cần sự xót thương, tôi chỉ cần chiến đấu
Tôi, một kẻ thù triệt để
Nhằm vào nhân gian mà tôi vốn từng yêu
Trút xuống ngọn lửa hờn căm
Tôi không cần giúp đỡ
Tôi chỉ cần cái chết.
Viết xong những dòng thơ này, tâm trạng anh trở nên bình thản hơn. Anh cảm thấy những sự việc xảy ra trước đó dường như chỉ là để chuẩn bị cho việc ra đời của bài thơ này. Anh đứng dậy, đọc đi đọc lại, đến khi thấy vừa lòng mới gấp cuốn vở lại. Anh nằm xuống giường và suy nghĩ một hồi lâu, cuối cùng anh nhận ra rằng, đáng lẽ không cần phải tức giận với họ như vậy, những nghiên cứu sinh này cũng chẳng khác gì các bạn hồi đại học của anh, thậm chí họ còn tầm thường hơn. Nghĩ đến đây, anh thấy lòng dễ chịu hơn. Anh tự cười nhạo mình, thấy mình quá nghiêm túc. Anh nhìn đồng hồ, đã gần mười một giờ, anh vội vàng xuống khỏi giường, thu dọn đống tro rồi đi rửa mặt, đánh răng. Mọi việc vừa xong thì Ngô Văn Hàn trở về. Anh mừng thầm vì không bị mọi người phát hiện ra việc mình đốt mấy tập thơ. Vừa bước vào, Ngô Văn Hàn đã nói: “Sao tôi lại ngửi thấy mùi khen khét như giấy bị cháy thế nhỉ?”. Trương Duy đáp: “Tôi đốt những tờ giấy dùng rồi ấy mà”. Ngô Văn Hàn hỏi: “Sao, anh cần cuộc sống mới à?”. Trương Duy cười: “Đúng thế”.
Một lát sau, Trương Đại Lượng và Lục Hữu về, Lục Hữu chủ động bắt chuyện với Trương Duy, mọi người coi như quên hết những chuyện lúc trước, có điều, không ai biết rằng trên giá sách của mình đã thiếu mất một quyển. Họ cùng nhau tới nhà ăn, trên đường đi vừa cười vừa nói.
Cuối tuần, các nghiên cứu sinh một nửa thì chơi tú lơ khơ, một nửa thì tới phòng khiêu vũ của trường. Lục Hữu tới chỗ bạn gái, Ngô Văn Hàn thì bảo Trương Duy đưa tới chỗ Lâm Hà và Dương Linh chơi bài. Lâm Hà và Dương Linh ở chung phòng, trong một dãy nhà khác. Hai người ấy vừa ăn cơm xong và đang bàn xem sẽ đi đâu, Dương Linh bảo đang định tới chỗ mấy người bạn cùng quê, còn Lâm Hà nói, cô không thích tới chỗ đó, cô muốn đọc sách. Dương Linh nói: “Thực ra, mình cũng chẳng muốn đi, nhưng ở nhà chẳng có việc gì làm, lại cũng chẳng có ai tới chơi”. Lâm Hà đáp: “Không biết bọn Trương Duy và Lỗ Liên Sinh đang làm gì, hay bọn mình tới chỗ họ chơi đi!”. Dương Linh phản đối: “Không được, bọn họ phải tới chỗ bọn mình trước chứ như thế thì mất giá lắm, họ sẽ coi thường bọn mình”. Hai người đang bàn cãi thì Trương Duy và Ngô Văn Hàn bước vào. Dương Linh và Lâm Hà đều rất vui. Trương Duy giới thiệu Ngô Văn Hàn với hai cô gái, rồi nói luôn là muốn tới để chơi bài. Ngô Văn Hàn nói: “Gần đây có một kiểu chơi mới gọi là Song khấu đang rất phổ biến, không biết các bạn có biết chơi không?”. Trương Duy lắc đầu. Lâm Hà nói, cô từng chơi hai lần, rất hay. Dương Lâm cũng chưa chơi bao giờ. Ngô Văn Hàn nói: “Vậy thì hôm nay tôi sẽ dạy cho mọi người”. Trương Duy không thích những trò này lắm, nhưng vì Ngô Văn Hàn nên anh cũng đành chơi cùng. Song vì chẳng mấy chú tâm, lại không hứng thú nên anh chơi rất tệ. Anh nghĩ, đúng là phí thời gian! Một cô gái vừa từ phòng bên cạnh sang (có mấy cô nghe nói Trương Duy tới nên đều chạy sang xem mặt anh) liền đứng bên làm quân sư cho anh. Mới đánh được một ván mà Trương Duy đã cảm thấy rất nản. Trương Duy và Lâm Hà là một đôi, vì anh không biết đánh nên họ cứ bị thua. Lâm Hà liền hỏi: “Trương Duy, việc gì anh cứ phải căng thẳng thế? Chơi bài là để thư giãn, anh đừng có nghĩ đến triết học nữa, chơi bài cũng là một dạng triết học đấy!”. Anh cười đáp: “Không phải tôi không muốn thoải mái mà là tôi không nhập tâm. Được, bây giờ thì tôi tập trung để chơi đây!”. Kể cũng lạ, nói xong câu ấy, Trương Duy thấy mình tập trung thật, anh tiến bộ rất nhanh và ngày càng ăn ý với Lâm Hà hơn. Lâm Hà rất vui, cô có vẻ điệu đà hẳn. Trương Duy không quen với kiểu cách ấy, nhưng Ngô Văn Hàn thì lại rất thích. Chơi đến mười hai giờ đêm thì một cô bạn cùng phòng với Lâm Hà trở về, lúc ấy họ mới giải tán, nhưng đúng lúc ấy thì Trương Duy bắt đầu thấy thích thú. Anh nói: “Không ngờ khi vào cuộc rồi mới thấy nó cũng rất thú vị, khiến cho tôi quên hết phiền muộn”. Lâm Hà liền nói: “Tất nhiên rồi, thế thì chúng ta giao hẹn nhé, cứ cuối tuần lại cùng nhau chơi!”. Trương Duy đáp: “Được thôi!”.
Trên đường về, Trương Duy rất phấn chấn, không phải vì Lâm Hà mà là vì lần đầu tiên anh cảm thấy trò chơi ấy cũng rất thú vị. Điều này làm anh nhớ lại những trò chơi cùng bạn bè hồi nhỏ, lúc ấy anh cũng chơi rất vui vẻ và thường giành phần thắng. Từ khi lên trung học, anh không bao giờ chơi những trò ấy nữa, còn khi lên đến đại học, mỗi lần nhìn thấy mọi người chơi, anh lại nghĩ, thật mất thời gian, vì thế chẳng bao giờ anh tham gia chơi cùng. Ngô Văn Hàn thì cứ nghĩ tới Lâm Hà, nhưng anh ta phát hiện ra rằng, hình như cô có vẻ thích Trương Duy. Đúng lúc Trương Duy đang nhớ tới Ngô Á Tử thì Ngô Văn Hàn hỏi: “Bạn gái của anh thế nào?”. Trương Duy nghĩ lại, anh chưa bao giờ chơi bài cùng Ngô Á Tử, và hình như còn hiểu lầm cô. Hôm nay anh đã hiểu ra rằng niềm vui đối với một người quan trọng tới mức nào. Anh trả lời Ngô Văn Hàn: “Tôi cũng không biết hiện giờ cô ấy ở đâu và đã có bạn trai mới hay chưa nữa”.
Trương Duy cũng thấy rằng, thật ra ở tập thể cũng có mặt tốt của nó, bởi nhờ đó người ta có thể quên đi những đau khổ của mình trong quá trình tiếp xúc với mọi người, và cũng tự thay đổi mình một cách rất tự nhiên, riêng với anh thì sự thay đổi ấy thể hiện rõ nhất ở việc anh đã hiểu hơn và bắt đầu có sự theo đuổi đối với niềm vui.