Buổi sáng hôm sau, trong lúc Trương Duy vẫn còn nằm trên giường với những dòng nước mắt thì có người gọi cửa. Anh ngồi dậy, ra mở cửa, thấy phía sau cô Tạ quản lý ký túc xá còn có một người nữa. Đó là ông Ngô, chồng cô và cũng là một giảng viên cũ của trường. Trương Duy nói “Chào thầy” rồi mời hai người vào trong nhà. Cô Tạ nói: “Ông nhà tôi là người rất nhiệt tình. Hôm qua về nhà, tôi có kể cho ông ấy nghe chuyện của cậu, ông ấy liền bảo tôi mời cậu tới nhà chúng tôi. Nhưng tôi biết thanh niên các cậu thích ngủ nướng nên không làm phiền cậu, ông ấy chẳng có việc gì làm nên cũng đi cùng tới đây”.
Trương Duy nghe xong vẫn chưa hiểu đầu đuôi ra sao. Anh không rõ họ đã biết những chuyện gì. Nhưng anh vẫn thấy rất cảm động. Anh định pha trà mời họ, nhưng hai người nhất quyết từ chối, ông Ngô nói: “Cậu cũng chớ nên nghĩ ngợi nhiều quá. Nhà tôi nói, cậu thất tình, nên hình như nghĩ quẩn. Tôi và thầy Lý Khoan là chỗ bạn cờ với nhau, ông ấy cũng đã kể với tôi về chuyện của cậu, vì thế tôi có ấn tượng khá sâu sắc về cậu. Ông ấy nói, cậu là một người có tài, ông ấy có vẻ rất yêu quý và tiếc cho cậu. Nhà tôi nói, tối qua trên giường cậu có đặt một nắm thuốc to đùng, cậu đã có ý định dại dột gì, đúng không?”.
Trương Duy thấy họ có vẻ muốn biết sự thật về chuyện của anh tối hôm trước, nên thấy ngượng. Mặc dù vậy, anh vẫn nói: “Lúc ấy quả là cháu có nghĩ quẩn, nhưng may mà cô Tạ đến gọi, cô đã cứu sống cháu”.
Ông Ngô tuy là người rất nhiệt tình, nhưng trong suốt những năm công tác tại trường, ông chỉ chuyên dạy ở khoa Toán, không có thành tích nghiên cứu gì, vì thế tới tận lúc nghỉ hưu vẫn chỉ là một giảng viên. Song ông lại là giáo viên chủ nhiệm gần như giỏi nhất khoa, ông đã làm công tác này liên tục trong mười mấy năm và luôn được bầu chọn là giáo viên chủ nhiệm ưu tú, vì thế mà sinh viên rất quý mến ông. Hai vợ chồng ông vốn có hai con, một trai và một gái, nhưng con trai ông nghiện ngập rồi đánh nhau với người khác, cuối cùng chết lúc còn đang học trung học. Con gái ông bắt chước anh, cũng dùng ma túy, nhưng sau cái chết của anh trai, cô ta đã cai nghiện và thi đỗ đại học, sau khi tốt nghiệp thì sang Mỹ du học và bây giờ đã định cư bên đó, trong nhà chỉ còn lại hai vợ chồng ông, vì thế cảnh nhà có phần cô quạnh. Khi nghe tình hình của Trương Duy, lòng nhiệt tình của ông lại nổi lên, đồng thời ông cũng nhớ tới những lời của thầy Lý Khoan, vì thế ông quyết định sẽ giúp anh.
Không có cách nào từ chối, Trương Duy đành theo hai vợ chồng ông Ngô về nhà họ. Căn hộ của vợ chồng ông không lớn, chỉ có hai phòng, đồ đạc cũng rất đơn sơ, trong phòng khách kê một chiếc giường đôi nhỏ. Ông Ngô đon đả đi lấy đồ ăn trong Tết ra khoản đãi cậu sinh viên đầu tiên đến nhà kể từ khi ông nghỉ hưu. Ông cảm thấy cậu sinh viên này đang đặt ra cho ông một thách thức. Trong những năm làm giáo viên chủ nhiệm, ông đã tiếp xúc với rất nhiều loại sinh viên, giải quyết rất nhiều sự vụ, từ chuyện thất tình tự tử, mắc bệnh hiểm nghèo cho đến chuyện sinh viên nữ có thai, nhưng tất cả đều có thể tìm ra nguyên nhân và đều có cách giải quyết, thế nhưng việc tự tử của Trương Duy lại không như vậy.
“Giảng viên hướng dẫn của cậu là thầy Dị Mẫn Chi, đúng không?”, ông Ngô hỏi.
Nhưng Trương Duy đang không muốn nói về thầy Dị Mẫn Chi.
Hôm ấy, qua cuộc chuyện trò, Trương Duy mới biết ông Ngô đã từng mất đứa con trai, đồng thời cũng biết được những điều tiếc nuối và đau khổ sâu xa trong lòng ông, cuối cùng họ còn chơi cùng nhau mấy ván cờ, nói đúng ra là ông Ngô dạy anh cách đánh cờ tướng. Trương Duy phát hiện ra rằng, nghệ thuật chơi cờ của ông rất cao siêu, có phần còn hơn cả thầy Dị Mẫn Chi.
Hôm sau, anh tỉnh dậy rất sớm, rửa mặt đánh răng và ngồi đó chờ đến giờ ăn cơm trưa. Đài Phát thanh đang phát chương trình liên hoan văn nghệ ngày Tết. Nghĩ đến hoàn cảnh của mình, trong lòng Trương Duy lại thấy rất buồn. Anh cầm bức huyết thư viết cho Ngô Á Tử lên rồi lại đau khổ cất đi. Anh không muốn khiến cô buồn phiền thêm nữa, bức thư này sẽ trở thành một vật kỷ niệm của hai người.
Anh vừa cất bức thư đi thì phía ngoài lại có tiếng gõ cửa. Là cô Tạ. Bà mang tới cho anh một ít đồ ăn và nói: “Hôm nay là mùng Hai, từ hôm nay đến mùng Sáu sẽ có rất nhiều sinh viên của ông ấy đến thăm. Ông ấy định bảo cháu đến nhà, nhưng lại sợ cháu không quen nên bảo cô mang cho cháu ít đồ ăn. Buổi tối cháu đến ăn cơm nhé, sinh viên của ông ấy đến chiều chắc sẽ về hết cả thôi. Ông ấy cũng không uống được rượu, chỉ nhấp chút ít cho vui, vì thế cũng nhanh ấy mà”.
“Cháu cảm ơn cô. Buổi tối có lẽ cháu không tới được đâu ạ.”
“Xem cháu kìa, với chúng tôi không cần phải khách sáo thế đâu. Nhà chỉ có hai vợ chồng tôi, cháu cứ coi đây như nhà mình, hơn nữa, buổi tối cháu ở đây một mình cũng buồn.”
“Nhưng thầy cô đã bận cả ngày rồi, buổi tối cũng cần phải nghỉ ngơi.”
“Thì là nghỉ ngơi đấy chứ, chúng ta sẽ cùng xem ti vi. Cứ thế nhé.” Nói xong, cô Tạ quay người đi ngay.
Trương Duy mở túi đồ ăn mà cô Tạ mang tới cho, có lạc rang, quẩy và cả thịt bò nữa, tất cả đều do hai vợ chồng họ tự tay làm. Trương Duy vừa ăn vừa nhớ lại cảnh cùng ăn Tết với bố năm nào.
Sau khi gặp gỡ Trương Duy, ông Ngô lên hẳn một kế hoạch để giúp anh. Đầu tiên là để cho Trương Duy được hưởng không khí ấm áp của gia đình, để anh có thể coi hai vợ chồng ông như người thân. Bước thứ hai, chuyện trò với anh, tìm hiểu những suy nghĩ trong lòng anh, để anh có thể tâm sự với ông mọi chuyện. Bước thứ ba, làm thay đổi những suy nghĩ của anh, để anh tuyệt đối không bao giờ còn nghĩ đến chuyện tự tử nữa. Bước thứ tư, giúp anh tìm lại niềm tin đối với cuộc sống. Bước thứ năm, giúp anh lập gia đình. Ông Ngô không nói với vợ về kế hoạch này, vì ông sợ bà sẽ không đồng ý, ông cũng không nói cho ai biết, nhưng trong lòng ông rất vui. Dường như ông muốn đem tất cả tình cảm dành cho cậu con trai của mình trước kia dồn hết cho anh.
Buổi tối, cô Tạ phải đi trực. Ông Ngô và Trương Duy vừa xem ti vi vừa nói chuyện. Đầu tiên anh kể về bố anh: “Nếu lúc đầu bố em không bị người ta khép cho tội danh theo phái tả, hoặc là sau khi sửa sai, bố em trở về nơi công tác cũ, thì có lẽ ông đã không ra đi sớm như vậy và có thể cũng đã làm nên sự nghiệp”.
“Đã là số phận thì không ai có thể thay đổi được. Phải, nếu bố cậu không bị cho là phái tả thì có thể ông ấy đã có một số phận khác. Nhưng nếu không như thế thì đã không có cậu.” Nhìn thấy vẻ không phục của Trương Duy, ông Ngô nói: “Cả đời tôi, nói về sự nghiệp thì cũng chẳng có gì, khi về hưu tôi vẫn chỉ là một giảng viên. Cậu có thể hỏi và biết, những người về hưu là giảng viên ở Đại học Phương Bắc này chắc chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Nhiều người chê cười tôi, nhưng bà nhà tôi bảo: Thôi mà, ông Ngô, con trai không còn nữa, ông còn nghĩ tới chuyện chức danh làm gì, tất cả chỉ là hư vinh mà thôi. Tuy bà ấy không được học hành nhiều, nhưng đôi khi tôi cảm thấy những lời của những người như vậy mới là chân lý của cuộc sống. Cậu quan sát cũng thấy, những người làm quan khi còn đang chức đang quyền thì đắc tội với hết người này đến người khác, nhìn người ta bằng nửa con mắt, cái gì có lợi thì đều tìm cách chiếm về cho mình, nhưng khi về hưu rồi thì chẳng ai thèm để ý đến nữa, chỉ có ra vào thui thủi một mình. Còn tôi hầu như chẳng mấy khi không có sinh viên cũ tới thăm, chơi cờ, chuyện trò. Vì sao lại như vậy? Đó là vì tôi quan tâm đến họ. Tôi vừa là thầy, vừa là bố mẹ, anh chị, vừa là bạn của họ. Bố cậu có thể không làm nên sự nghiệp gì lớn, nhưng ông ấy đã nuôi dưỡng cậu trưởng thành, như thế cũng đủ rồi. Hơn nữa, cậu có thể làm được sự nghiệp gì lớn lao hơn thế? Còn có gì quan trọng hơn việc nuôi dưỡng được một con người?”.
Trương Duy vẫn không phục: “Ngày trước, em thường xem nông dân làm việc ngoài ruộng và hỏi bố em rằng: Họ làm như vậy là vì cái gì? Bố em trả lời là để lấy cơm ăn. Em lại hỏi, ăn cơm để làm gì. Bố em lại trả lời, để làm việc. Em lại hỏi, làm việc để làm gì? Bố em trả lời, để có cơm ăn. Từ hồi nhỏ, em đã thấy con người ta sống chẳng có ý nghĩa gì. Khi lên đại học, về quê, em thấy một số bạn học cùng với em vẫn làm việc đồng áng như trước kia, có mấy người mãi không sinh được con trai, vợ họ đi “đánh du kích” khắp nơi, cuối cùng thì cũng kiếm được một mụn con trai. Em hỏi bố em, những người ấy làm như vậy để làm gì? Bố em trả lời, vì cuộc sống. Em hỏi, họ làm việc vất vả như vậy là để làm gì? Bố em bảo, để kiếm tiền. Em lại hỏi, kiếm tiền để làm gì? Bố em nói, để cưới vợ cho con. Thế cưới vợ cho con để làm gì? Để sinh cháu trai. Đó là cái vòng luân hồi của người Trung Quốc. Em cảm thấy cuộc sống như vậy thật chẳng có chút giá trị nào”.
Ông Ngô cười nói: “Tôi cũng từng nghĩ như vậy. Tôi cảm thấy chúng ta là những người hạnh phúc, cuộc sống của chúng ta khá đầy đủ, trong khi có một số người rất bất hạnh, họ luôn phải sống trong thiếu thốn vất vả. Nhưng sống gần trọn đời, tôi mới biết rằng, mỗi cuộc sống đều có giá trị riêng. Bà nhà tôi luôn hỏi tôi rằng, ông hết nói làm cái này lại nói làm cái khác, thế ông đã làm được gì chưa? Ông có thay đổi được thế giới này không? Điều đó là không thể, cho dù có thay đổi được thì sao nào? Sau khi chết có mang đi theo được không? Cũng không thể. Vì thế, con người ta sống ở đời, điều quan trọng nhất là được vui vẻ và không phải hổ thẹn, như thế là được rồi. Hạnh phúc là ở sự cảm nhận, không thể lấy giá trị để đánh giá nó. Cậu thử nói xem, những người mà cậu nói tới ấy, họ có cảm nhận không? Có chứ, họ thỏa mãn với điều đó, tri túc thường lạc13 mà, luôn vui vẻ, đó chính là hạnh phúc”.
13 Biết thỏa mãn với cuộc sống hiện tại thì mới cảm thấy hạnh phúc.
Sau khi trở về phòng, Trương Duy tìm cuốn nhật ký của mình, đem dán những trang viết gần đây lại, sau đó bắt tay viết những trang khác. Những lời của ông Ngô khiến anh phải suy nghĩ.
Ngày hôm sau, ông Ngô đi dạo rẽ vào phòng của Trương Duy rồi chơi cờ cùng anh. Ánh nắng chiều chiếu qua khung cửa sổ, mang hơi ấm tỏa khắp nơi, bốn bề xung quanh yên tĩnh khiến người ta có cảm giác vừa xa vắng vừa cách biệt. Những lời chuyện trò của họ cũng thoảng nhẹ như vọng từ một nơi xa tới. Trương Duy có cảm giác cảnh tượng mình đang trải qua giống như trong một giấc mơ trước đây. Anh nói với ông Ngô, ông có vẻ rất cảm động: “Hồi còn nhỏ, tôi cũng thường có cảm giác như vậy. Khi tôi nói lại cho người khác nghe, họ lại bảo tôi duy tâm, thế là về sau tôi không nói nữa. Tôi cho cậu biết nhé, bà nhà tôi mơ linh nghiệm lắm. Khi bố vợ tôi qua đời, bà ấy đã mơ thấy bức tường của ngôi nhà ở quê bị đổ, tỉnh dậy bà ấy bảo với tôi rằng, nhất định ở nhà đã xảy ra chuyện gì, tôi bảo đó chỉ là mê tín thôi, nhưng bà ấy vẫn rất lo. Ngày hôm sau thì chúng tôi nhận được điện báo rằng, ông cụ bố vợ tôi đã qua đời. Ngược lại, nếu nhà tôi mơ thấy phân, thì chắc chắn sẽ có chuyện xảy đến với chính bà ấy, mà cụ thể là bà ấy sẽ có một khoản thu nhập nào đó; còn nếu mơ thấy một người nào đó đang đi đại tiện thì thế nào ngày hôm sau nhà tôi cũng phải xuất tiền đi. Không hiểu ở quê cậu có tin vào những điều này không?”.
“Vâng, em cũng cứ suy nghĩ mãi về điều mà người ta nói, hoạt động ban ngày của con người mới là những hoạt động thực, còn những giấc mơ ban đêm chỉ là hoạt động trong trạng thái nghỉ ngơi của con người, là ảo giác. Nhưng em nghĩ đó cũng là một kiểu tồn tại khác của con người, là kiểu tồn tại khác với hiện thực, nếu không thì vì sao sau khi có những giấc mơ đêm trước, ngày hôm sau chúng ta lại cảm thấy mệt mỏi đến như vậy?”
Hai người nói chuyện rất hợp, mãi cho tới gần năm giờ ông Ngô mới đứng dậy: “Hai chúng ta có vẻ rất có duyên với nhau. Đi nào, đến nhà tôi, ăn cơm tối xong chúng ta lại nói chuyện tiếp”.
Trương Duy cũng rất vui và đi cùng ông. Cô Tạ đã chuẩn bị xong cơm nước. Ăn xong, Trương Duy định đi rửa bát, cô Tạ nhất quyết không cho, ông Ngô thì nói: “Thôi, cứ để Trương Duy làm! Sau này cậu ấy còn phải rửa nồi cho chúng ta nữa”.
Cô Tạ đành nghe theo, thế là Trương Duy xắn tay áo lên làm, một cảm giác về sự ấm cúng của gia đình trào dâng trong lòng, anh nghĩ, nếu đây là gia đình của mình thì tốt biết bao! Rửa bát xong, quay vào, Trương Duy đã thấy ông Ngô bày rượu ra, nhưng ông không ép anh mà bảo anh uống được thì uống, không uống được thì thôi. Hai người vừa xem ti vi vừa tiếp tục câu chuyện còn dở dang ban chiều, rồi không hiểu thế nào, hai người lại bàn tới đạo Phật và tôn giáo. Ông Ngô nói: “Con người ta sống cần phải có niềm tin vào một điều gì đó, nếu không thì sẽ chẳng hề có chỗ dựa về mặt tinh thần, làm việc gì cũng không thấy phấn chấn đâu”.
Rồi Trương Duy đem những vướng mắc trong lòng nói với ông Ngô, từ chuyện viết đơn xin thôi học, chuyện tự tử, những lần đối thoại với các giáo sư cho đến chuyện tư tưởng triết học của thầy Dị Mẫn Chi, cuối cùng là đến chuyện sa ngã của Ngô Á Tử (anh cho rằng Ngô Á Tử đã sa ngã về mặt tinh thần). Trương Duy nói một mạch, ông Ngô cứ ngồi gật đầu, thỉnh thoảng lại bình luận mấy câu, nghe anh nói, ông thấy vui vui trong lòng. Nghe xong ông nói: “Những câu hỏi của cậu thì chỉ có tôn giáo mới có thể trả lời được”.
“Nhưng em lại không tin vào tôn giáo.”
“Đó chính là điều đáng buồn của con người thuộc xã hội hiện đại. Trong vật lý học có một danh từ là vật tham chiếu, nó có thể nói rõ cho rất nhiều vấn đề. Nếu có Thượng đế thì Thượng đế đại diện cho một giá trị bất biến, sẽ mang tới cho mọi người phán đoán về mọi hành vi. Người ta sẽ coi tinh thần của Thượng đế là hệ tham chiếu để xem xét. Nhưng tất cả đều không phải, vì thế mọi hoạt động của con người đều mất đi sự phán đoán. Con người không còn tin vào những gì đã qua, thế giới đang bước vào một trạng thái không có trật tự. Tất cả thanh niên đều đang đi tìm phương hướng cho cuộc sống của mình.”
Hai người nói chuyện mãi tới khuya. Trương Duy định về thì ông Ngô đề nghị: “Thôi, ngủ lại đây cũng được mà! Cậu hãy ngủ trên chiếc giường ở phòng khách, còn tôi sẽ ngủ trong này”. Thế là Trương Duy ngủ lại trong phòng. Cũng lạ, ở nhà ông Ngô, anh đã chìm vào giấc ngủ một cách rất nhanh chóng.
Mấy ngày sau đó, ban ngày thì Trương Duy đọc sách ở phòng mình, buổi tối lại tới nhà ông Ngô xem ti vi và nói chuyện. Vốn dĩ anh không đánh giá cao học vấn của ông Ngô, nhưng sau mấy lần nói chuyện, anh lại cảm thấy thích ông và nhận ra rằng ông là người suy nghĩ rất nghiêm túc. Anh đã nói chuyện hết sức cởi mở với ông về tất cả những vấn đề của mình. Nếu trước mặt thầy Dị Mẫn Chi, anh luôn có cảm giác đứng trước một người đầy uy quyền, nói gì cũng phải lựa chọn cân nhắc, thì trước mặt ông Ngô lại khác hẳn. Anh nghĩ, cuối cùng thì mình cũng đã tìm được tri âm.
“Cậu có thích Nietzsche không?”, ông Ngô hỏi.
“Thích chứ, có lúc em cảm thấy mình giống như ông ấy vậy.” Trương Duy đáp.
Sau đó, nhân một lần nói tới thầy Dị Mẫn Chi, Trương Duy đã kể chuyện xảy ra giữa Vu Lệ và thầy Dị Mẫn Chi cho ông Ngô nghe.
Nghe xong, ông nói: “Từ xưa tới nay, hành động của các văn nhân đôi khi trái với đạo đức, sinh thời họ thường bị mọi người quở trách chửi mắng, nhưng người đời sau thì lại không coi những chuyện đó là quan trọng. Thầy Dị Mẫn Chi là người có phần lập dị. Chà, biết nói thế nào nhỉ, hễ là những người nổi tiếng, đặc biệt là những người được xếp vào bậc vĩ nhân thì thường có những thói quen và sở thích khác thường, hành động cũng rất kỳ quặc. Có lẽ, với những người như chúng tôi, không gần gũi họ thì thấy thế là hay, nhưng với những người gần gũi họ như cậu thì lại thấy như thế là không được”.
“Em cũng hiểu điều này.” Trương Duy đau khổ nói, “Thực ra, ông ấy cũng chỉ là một người bình thường, cũng có những ham muốn hay thú vui như bao người khác, nhưng ông ấy lại cũng có những điểm khác người thường. À, phải nói sao đây nhỉ?”
Ông Ngô thấy Trương Duy có vẻ lúng túng khi tìm từ để diễn đạt, liền nói với vẻ hết sức thông cảm: “Trương Duy này, để tôi nói cho cậu biết, mọi thứ thuộc về con người không phải đều có trật tự như thế đâu, thậm chí còn rất phức tạp và hỗn độn nữa, vì sao cứ phải có trật tự ngăn nắp nhỉ? Đó là vì con người đặt ra những quy định cho nó. Còn đối với thầy Dị Mẫn Chi, không thể lấy thói quen và đạo đức của người bình thường ra để phán xét về ông ấy được”.
Trương Duy nói: “Những điều này em đều hiểu cả, nhưng em luôn nghĩ, chẳng lẽ con người lại không thể kiềm chế những dục vọng của mình một cách tốt hơn sao? Khi có mâu thuẫn giữa tình và dục, chẳng lẽ lại chỉ đề cao dục mà hạ thấp tình ư?”.
“Hồi còn trẻ, chúng tôi cũng thường bàn tới những chuyện này. Thầy giáo dạy toán của chúng tôi có thể nói là một nhà nghiên cứu đầu ngành, tên thầy là Phùng Thất Đẩu, cái tên này rất thú vị phải không? Có lần lên lớp giảng bài, khi nói đến đây, ông ấy đã đưa ra cho chúng tôi một ví dụ. Ông ấy nói: Các văn nhân luôn bàn về mối quan hệ giữa tình và dục, giữa linh hồn và xác thịt, nhưng theo tôi đó là hai bộ phận không thể chia cắt, giống như một bàn cân mà một bên là tinh thần, một bên là vật chất, nếu anh quá coi trọng tinh thần thì quả cân sẽ nghiêng về bên đó, và như thế bàn cân ấy sẽ không còn thăng bằng nữa, ngược lại, nếu anh lại quá coi trọng vật chất thì bàn cân của anh cũng sẽ mất cân bằng. Ông ấy nói, trong con mắt của các nhà toán học thì con người chỉ đơn giản vậy thôi. Cho nên đừng có quá đề cao tinh thần và cũng đừng có quá coi trọng thể xác. Cả hai thứ ấy đều cần thiết với chúng ta, giống như hai đứa con của cậu, dù chỉ là một bát nước cũng phải chia đều cho hai đứa.”
Trương Duy không ngờ, một vấn đề cao siêu mà ông Ngô lại có thể nói một cách giản dị đến thế. Anh mỉm cười gật đầu: “Điều mà thầy nói tới là quan điểm của đạo Trung Dung”.
“Đúng, tôi cảm thấy trong thời đại mà thần học không còn chiếm vai trò chủ đạo thì Trung Dung là triết học mang tính thực dụng nhất.”
Một tuần ở nhà ông Ngô của Trương Duy đã trôi qua nhanh chóng. Tuy họ chỉ nói chuyện, nhưng những cuộc nói chuyện ấy chẳng khác gì những bữa tiệc thịnh soạn. Ông Ngô không hề mang thiên kiến đối với bất cứ sự việc nào, ông luôn có chính kiến của mình. Trương Duy cũng cảm thấy rất lạ, hình như cuốn sách nào ông cũng đã đọc qua, những gì anh biết thì ông cũng đã biết, có những thứ anh không biết thì ông cũng biết, hơn nữa kiến thức toán học của ông cũng hết sức uyên thâm, ông thường đem nó chuyển hóa vào thành những nguyên lý của cuộc sống. Nhưng vì sao ông lại không tiến hành các đề tài nghiên cứu hay viết thành các bài báo và không được xét phong giáo sư nhỉ? Anh không tiện hỏi và ông Ngô cũng không hề nhắc tới chuyện này với anh.
Một lần khác ông Ngô rẽ vào thăm anh, lúc đó anh đang đọc cuốn Kinh Thánh. Ông chậm rãi nói: “Đây mới là kinh điển thực sự của loài người, đáng tiếc là rất nhiều người lại coi nó là mê tín”.
“Cháu cảm thấy Kinh Cựu ước có ý nghĩa gợi mở hơn phần Tân ước, bởi nó có vẻ thần diệu hơn, còn phần Tân ước thì đã mang hơi hướng của các văn nhân, nó chứa đựng oán thán và sát khí.” Trương Duy không trả lời trực tiếp câu hỏi của ông Ngô, mà bày tỏ cảm nhận của mình.
“Tiếc là nhiều người đã không đọc nó, càng không nói tới việc tin nó. Vì sao Nietzsche Friedrich lại được tôn sùng như vậy ở thế kỷ này? Bởi ông cũng giống như những người tôn sùng ông, họ không chỉ là những người theo chủ nghĩa hoài nghi thực thụ mà còn tự hào vì điều đó. Nhưng rồi cuối cùng chính ông lại thấy mơ hồ. Tôi cũng đã nghĩ rằng cậu chẳng khác gì ông ấy”, ông Ngô nói.
“Nietzsche Friedrich có sức tác động mạnh mẽ tới nghệ thuật văn học và đời sống của nhân loại suốt thế kỷ XX, tất cả các nhà nghệ thuật tài ba hiện đại đều chịu ảnh hưởng của ông ấy”, Trương Duy tranh luận.
“Đó chỉ là xu thế, không phải là Đạo”, ông Ngô nhìn vào mắt Trương Duy và nói.
Trương Duy đột nhiên cảm thấy một luồng hơi lạnh chạy dọc sống lưng, anh thấy những lời của ông Ngô rất có lý, nhưng ngoài miệng anh vẫn chưa chịu hẳn: “Xu thế chính là Đạo, có thế mới dẫn dắt được Đạo, đó là lẽ vốn có. Cứ như hiện tại thì tư tưởng và cuộc sống của cả loài người đang diễn ra những thay đổi sâu sắc, đặc biệt là tinh thần của người phương Tây, những thay đổi lớn lao về mặt này của họ diễn ra ngay từ trước khi có Nietzsche Friedrich…”.
Ông Ngô vốn chỉ định đáp trả Trương Duy bằng vẻ điềm tĩnh, để rồi kéo tinh thần của anh trở lại, nhưng không ngờ anh gặp được đối thủ thì chẳng khác gì mãnh thú và lại càng tỏ ra giống Nietzsche Friedrich.
Ông lờ mờ cảm thấy có một mối họa đang chuẩn bị giáng xuống đầu anh.