Thầy Dị Mẫn Chi nhìn thấy Lâm Hà chạy tới chạy lui, Trương Duy cũng hằng ngày túc trực ở bên, nên cảm động nói: “Những lúc chưa ốm đau thấy ở một mình cũng rất tốt, đến khi như thế này mới thấy có vợ con thì tốt biết bao! Đó mới là hạnh phúc thật sự”.
“Thế thì thầy cứ coi chúng em như con cháu của thầy là được chứ sao!” Trương Duy cười, nói.
“Đúng thế, đúng là tôi đã đòi hỏi quá nhiều. Như thế này cũng đã cảm thấy hạnh phúc lắm rồi.” Thầy Dị Mẫn Chi nói, mắt long lanh lệ. Vốn ông định nói, lúc tôi ốm, may mà có hai em, nếu không chẳng còn ai ở bên cạnh tôi lúc này, thế nhưng ông lại không nói ra được.
Trương Duy thừa dịp: “Thầy cũng có thể tìm một người bạn đời chứ ạ!”.
“Ôi, ai mà muốn lấy tôi. Hơn nữa, nếu không ở được với nhau lại càng thêm phiền phức”, thầy Dị Mẫn Chi nói.
Nghe ông nói vậy, Trương Duy bèn đáp: “Em thấy thầy cũng chưa già, mới chỉ hơn năm mươi, có một thầy ở khoa Vật lý hơn bảy mươi tuổi rồi mà vẫn lấy được một cô vợ rất trẻ, hình như họ còn có con nữa đấy”.
Thầy Dị nhắm mắt lại thở dài, sau đó lại mở mắt ra nhìn lên trần nhà, nói: “Đời người là gì nhỉ? Có lẽ đó chỉ là một sự tiếc nuối lớn mà thôi!”.
“Không phải thế. Chỉ cần thầy thực sự muốn giành lấy thì thầy sẽ không còn tiếc nuối nữa”, Trương Duy nói.
“Khi không giành lấy thì tiếc nuối, nhưng nếu giành mà cũng không được thì còn tiếc hơn”, thầy Dị Mẫn Chi chậm rãi nói.
“Nhưng nếu thầy không giành lấy thì làm sao biết được là sẽ phải tiếc nuối?”, Trương Duy nói.
Thầy Dị Mẫn Chi quay người lại nhìn Trương Duy: “Không nói những chuyện này nữa, cậu hãy nói thật với tôi xem, liệu tôi có còn sống để ra khỏi căn phòng này không?”.
“Tất nhiên rồi ạ. Thầy chỉ bị viêm gan siêu vi trùng thôi.”
“Chớ có lừa tôi nữa. Tuy tôi chưa bao giờ vào bệnh viện, cũng rất ít khi bị ốm, nhưng tôi đã biết bệnh tình của mình qua nét mặt của các cậu và thầy Lý Khoan rồi. Tôi biết bệnh của tôi không nhẹ, mà có lẽ khó qua khỏi.”
“Không có chuyện đó đâu, thầy sẽ nhanh chóng ra viện thôi.”
“Trương Duy này, cậu đừng nghĩ rằng, nếu nói với tôi, tôi sẽ không chịu đựng nổi. Từ lâu tôi đã không quan tâm tới chuyện sống chết rồi. Người xưa nói, sinh lão bệnh tử là quy luật của đời người, là con đường mà tất cả mọi người đều phải trải qua. Lão và bệnh thì không cần phải nói đến nữa, chúng ta đều là những người nghiên cứu triết học, vì thế cần phải hiểu rõ về sự sống và cái chết hơn người bình thường. Sinh và tử, theo Đạo giáo thì đó chỉ là hình thức mà thôi, sự sống phải có cái chết, còn cái chết là để bắt đầu cho một sự sống mới, sự sống và cái chết cứ tiếp nối nhau như vậy, đó mới là con đường thực sự. Tôi muốn hòa vào con đường lớn ấy, vì thế chẳng việc gì phải sợ nó. Cậu cứ nói đi.”
Trương Duy nhìn Lâm Hà, Lâm Hà lại nhìn Trương Duy, thế là anh bèn thở dài và nói: “Thôi được, lẽ ra em đã cam đoan rằng không cho thầy biết thì phải giữ lời, nhưng em cũng nghĩ, thầy cần phải khác với những người bình thường, cần phải cho thầy biết bệnh tình của mình. Thưa thầy, bệnh của thầy không hề nhẹ, các bác sĩ đã bảo chúng em chuẩn bị tinh thần, bởi điều đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào”.
Thầy Dị nghe xong, thở dài một cái, một hồi lâu cũng không nói gì. Lâm Hà sợ quá, kêu lên: “Thưa thầy, các bác sĩ bảo vẫn còn hy vọng, họ cũng đang nghiên cứu để phẫu thuật cho thầy”.
“Không, mọi người đừng lo lắng cho tôi. Tôi sắp phải trải qua thử thách lớn nhất rồi, điều này đối với tôi cũng là hạnh phúc. Các em nghĩ xem, Socrates15 đã chết như thế nào? Tâm trạng của Trang Tử ra sao khi vợ của ông mất? Tôi phải vui mừng, các em cũng nên vui mừng cho tôi. Phải rồi, nhiều hôm nay, sao không thấy ai đến thăm tôi? Có phải để giữ bí mật không, chắc là sợ tôi sẽ biết về chuyện mình sắp mất chứ gì?”
15 Socrates (469 - 399 TCN) là một nhà hiền triết Hy Lạp cổ đại.
Trương Duy gật đầu, đáp: “Đúng vậy, các bác sĩ nói, tốt nhất là hạn chế tối đa người đến làm phiền thầy, thầy Lý Khoan cũng nói, cố gắng chỉ để ít người biết được bệnh tình của thầy. Nếu quả thực không được nữa thì mới báo để mọi người đến thăm thầy”.
“Như thế là tốt nhất, tôi quen yên tĩnh rồi, tới lúc đó mà ồn ào chắc không chịu được. Cái chết đối với một người mà nói là một việc vừa thiêng liêng vừa vui sướng. Cho dù tôi có chết, cũng đừng làm kinh động tới người khác, hãy để cho tôi được ra đi trong sự yên tĩnh.”
Đôi mắt của Lâm Hà đã đỏ hoe, nhưng cô vẫn cố nén, cô nói: “Thưa thầy, thầy cần phải kiên cường lên, các bác sĩ nói, nếu thầy luôn giữ được trạng thái vui vẻ trong lòng thì có thể sẽ có chuyển biến tốt”.
Thầy Dị nhìn Lâm Hà, đáp: “Xem em nói gì kìa, tôi vẫn vui đấy chứ. Tôi đã đợi ngày này từ lâu rồi, tôi cần phải xem cảm giác bệnh tật và cái chết đến cùng nhau là như thế nào. Các em nhất định không được lo lắng cho tôi, các em cần phải cảm thấy tự hào, có phải thế không Trương Duy, chắc chắn em không muốn thấy một thầy giáo yếu hèn, phải không?”.
Sống mũi Trương Duy cay sè, anh cố gắng gật đầu. Thầy Dị Mẫn Chi nói với cả hai: “Thôi, khuya rồi, chắc hai em đều đã rất mệt, tôi cũng vậy. Chúng ta nên đi ngủ thôi”.
Theo đề nghị của nhà trường, buồng bệnh được sắp xếp theo kiểu gia đình, để có thể tiện lợi hơn cho việc chăm sóc thầy Dị. Phía trong còn có một chiếc giường và một chiếc sô pha cá nhân. Trương Duy bảo Lâm Hà nằm trên giường, còn anh thì nằm trên sô pha.
Thầy Dị bảo Trương Duy tắt đèn, một lúc sau, Lâm Hà ngủ say, ông cũng nhắm mắt lại. Ông không thấy sợ, thực ra, ông đã đợi cái ngày này rất lâu rồi. Kể từ khi bắt đầu nghiên cứu về triết học, ông đã chờ đợi cái ngày này. Ông thực sự muốn được trải nghiệm về cái chết, coi như một cuộc thử nghiệm của ông về đời người và bản chất của thế giới. Có thể những người bình thường đều sợ cuộc thử nghiệm này, nhưng ông lại cần đến nó. Lúc này, ông rất mong mình thực sự không rơi vào cái chết như vậy.
Trương Duy không sao ngủ được, anh sợ thầy Dị nghĩ quẩn. Anh cứ nằm lặng yên suy nghĩ về những điều thầy Dị vừa nói với mình. Thầy Dị Mẫn Chi cũng biết anh chưa ngủ, nên ông hỏi: “Trương Duy này, cậu đang nghĩ gì thế?”.
Nghe ông hỏi, Trương Duy bèn ngồi bật dậy, đáp: “Em đang nghĩ, trước cái chết thì một nhà triết học có gì khác với người thường?”.
“Về bản chất thì chẳng có gì khác, cả hai đều là những sinh mệnh, nhưng chắc chắn sẽ có một vài điểm không giống nhau, ví dụ, những người bình thường thì sẽ vô cùng lo sợ trước cái chết, còn các triết gia thì lại thấy vui mừng.”
“Vui mừng thật sự, không có chút lo sợ nào ư?”
“Tất nhiên là không. Lúc này họ sẽ thấy hoài nghi với tất cả những gì mà họ kiên trì theo đuổi suốt cuộc đời, cảm thấy tiếc nuối cho những thứ rối ren trong bản chất của con người, còn có cả sự trống vắng mà những suy nghĩ về sự thể nghiệm cái chết mang đến cho họ nữa.”
“Sự trống vắng nào cơ?”
“Cậu có tin là con người có linh hồn không?”
“Em không tin, nhưng rất muốn tin. Còn thầy thì sao ạ? Em luôn muốn hỏi thầy về điều này. Lần đầu tiên em đến tìm gặp thầy cũng là để hỏi về chuyện đó, sau này em thi để được trở thành nghiên cứu sinh của thầy cũng chính vì lý do này.”
“Tôi biết, tôi biết. Thế hệ chúng tôi không tin là có linh hồn và quỷ thần, vì thế mà chúng tôi không thảo luận về nó. Tôi cũng không muốn cậu đối mặt với nó, bởi vì chẳng ai có thể đưa ra được một đáp án khiến cậu thấy tin phục. Tin hay không tin hoàn toàn phụ thuộc vào cá nhân, nó liên quan đến những trải nghiệm của một con người. Đó là một vấn đề tôn giáo, mà tôn giáo thì không thể chứng minh được. Còn tôi và cậu là những nhà triết học, triết học chỉ dựa trên cơ sở của tư duy và trải nghiệm, mục đích của chúng ta là phải tìm cho được niềm tin để sống trong thế giới hiện tại, nói cách khác là trong thế giới trần tục, phải làm cho cuộc sống thêm phần ý nghĩa. Nhưng rồi ai cũng phải chết, cũng đều phải kết thúc cuộc sống ở thế giới này, và trước lúc cái chết đến, chúng ta cần phải đối diện với những vấn đề về tín ngưỡng, đó chính là ý nghĩa của tôn giáo. Thực ra, tôi cũng không thể nào trả lời câu hỏi của cậu được, điều mà tôi có thể làm chỉ là khiến cậu vùi đầu vào trong những chi tiết của cuộc sống và tìm ra đáp án trong bản chất của con người, chứ không phải tìm nó trong những quan niệm thần thánh. Điều ấy không thể có kết quả.”
“Thưa thầy, như vậy có nghĩa là thầy cho rằng, con người chết đi thì coi như biến mất hoàn toàn?”
“Tôi không biết.”
“Em luôn nghĩ, nếu sau khi con người chết, tất cả mọi thứ đều tan biến, vậy thì ý nghĩa của cuộc sống cũng sẽ không còn nữa. Tất cả những gì gọi là chính nghĩa, lý tưởng, lương thiện, đều biến thành bong bóng. Nếu đã như thế thì chẳng thà cứ vui chơi thỏa thích theo chủ nghĩa hưởng lạc của Dương Chu cho xong.”
“Trương Duy này, cậu có biết vì sao bao nhiêu năm qua tôi không hề viết bài nào không?”
“Em luôn cảm thấy khó hiểu, đã có mấy lần em định hỏi thầy về chuyện này.”
“Khi còn trẻ, tôi luôn cảm thấy cái gì mình cũng biết, việc gì mình cũng có thể làm. Tính cách của tôi giống y như cậu, cũng rất khó thuần phục, thích sự độc lập. Tôi ngang nhiên khiêu chiến với chính thầy giáo của mình và đã nổi danh. Lúc ấy, tôi đã tưởng rằng mình có thể làm lay chuyển được cả thế giới, có thể cải tạo được cuộc sống của loài người. Nhưng sau này tôi đã gặp Chu Tứ Đức, chính ông đã tác động đến tôi, từ đó tôi mới hiểu ra rằng, còn có nhiều người tài giỏi hơn mình; rồi tôi sống ở nông thôn hơn hai mươi năm, ở đó tôi đã nhìn thấy rất nhiều chi tiết của cuộc sống mà trước đó tôi luôn coi thường, và suy nghĩ rất nhiều về những vấn đề lớn của đời người. Nhiều suy nghĩ của tôi trước đó đều đã thay đổi trong thời gian ấy. Sau này, tôi trở lại Đại học Phương Bắc, viết nhiều và cũng dạy cho rất nhiều sinh viên, những tưởng họ sẽ sống và suy nghĩ như tôi. Nhưng, cuối cùng tôi đã phát hiện ra rằng, mỗi người có một tư tưởng riêng, đó là những kinh nghiệm đúc rút từ cuộc sống, tư tưởng của tôi cũng chỉ là một trong số rất nhiều tư tưởng của đám đông mà thôi. Nói chính xác hơn, đó chỉ là tư tưởng của một mình Dị Mẫn Chi này mà thôi, nó chỉ có thể là chân lý của cá nhân tôi, hoàn toàn không phải là chân lý của người khác. Chúng ta không thể nào làm thay đổi tư tưởng của người khác, đó là điều tôi tổng kết được sau mấy chục năm dạy học. Tới lúc này, tôi mới phát hiện ra rằng, tôi suy nghĩ và nghiên cứu triết học chỉ là vì bản thân, chỉ để giải đáp những thắc mắc trong lòng tôi, để xây dựng lên niềm tin cho cuộc sống của tôi, và đó cũng mới là xuất phát điểm đích thực của học vấn. Bắt đầu từ đó, tôi lại trở về với những mối hoài nghi của cá nhân, và bắt đầu suy nghĩ về một số vấn đề mang tính khái quát. Cũng bắt đầu từ đó, tôi mới hiểu được lý do vì sao thầy giáo Hồ Lý của tôi những năm cuối đời không viết lách gì nữa.”
“Có phải vì suy nghĩ càng sâu thì sẽ càng thấy những gì mình biết là quá ít ỏi không ạ?”, Trương Duy hỏi.
“Cũng không hoàn toàn vì lý do này, đó chỉ là điều mà người xưa đã nói. Thực ra, đối với tôi và thầy Hồ Lý, những vấn đề chúng tôi phải đối diện là giống nhau, đó không chỉ là những vấn đề mang tính khái quát, mà còn có cả những vấn đề khiến các nhà khảo cổ học, nhà khoa học hiện nay phải lật lại lịch sử mấy nghìn năm về cơ sở lý tính của loài người. Không chỉ có những cơ sở của cổ nhân Trung Quốc đang bị lật lại, mà ngay cả một loạt hệ thống lý luận của cổ nhân phương Tây cũng không còn đứng vững, dường như tất cả lại trở về ban đầu, tất cả như một trò đùa của những nhà tư tưởng và các chính trị gia. Dường như bất cứ tri thức nào cũng mất đi cơ sở lý luận chính xác, cũng không còn lý luận nào khiến người ta hoàn toàn tín phục nữa. Thế là, tôi đã tiến vào một thế giới hoàn toàn xa lạ nhưng cũng rất đỗi quen thuộc, một thế giới mà cái đã biết và cái chưa biết, cái đúng và cái sai đan xen với nhau, khi cậu nói “Đúng” cũng là lúc cậu lại muốn nói “Sai”, và khi cậu nói “Sai” thì cậu lại cảm thấy có sự tồn tại của cái “Đúng”. Làm thế nào bây giờ? Đành không nói nữa, mà nếu có nói thì cũng chỉ có thể dùng hai chữ “không biết”. Đây chính là lúc không thể có chính nghĩa tuyệt đối, không có Thiện và Chân tuyệt đối, cũng không có cả tình yêu tuyệt đối. Tất cả vẫn đang thay đổi, trong cái thiện có cái ác, cái ác có thể biến thành cái thiện; trong cái thật có cái giả, trong cái giả lại cũng chứa đựng cái thật.”
“Em hiểu rồi”, Trương Duy nói. “Có nhiều lúc em cũng ở vào hoàn cảnh khó khăn ấy.”
“Vì thế, tôi bỗng hiểu ra rằng, vì sao trước kia Newton và Einstein bỗng nhiên rơi vào trạng thái mà mọi người coi là đình trệ. Người thông minh thì không nói ra, người nói ra chính là kẻ không biết gì.”
Trương Duy im lặng, anh không biết phải nói gì vào lúc này. Thầy Dị Mẫn Chi cũng im lặng. Bóng tối trùm lên họ mỗi ngày một dày và sâu. Tiếng thở của Lâm Hà càng khiến cho đêm tối tĩnh lặng hơn. Một hồi lâu sau, thầy Dị Mẫn Chi nói: “Lúc đầu thầy Lý Khoan giới thiệu cậu với tôi là vì mong muốn tôi cứu cậu thoát khỏi ý định tự tử. Thế mà không ngờ, sinh mệnh của tôi cũng đến lúc sắp kết thúc rồi”.
Thầy Dị Mẫn Chi nói xong, liền thở dài một cái đầy tiếc nuối. Trương Duy thấy thầy có vẻ buồn như vậy, liền nói: “Thưa thầy, thầy đừng lo cho em, em sẽ không tự tử nữa đâu”.
“Cậu chớ có tìm cách làm cho tôi vui. Tự tử là chuyện đáng đau lòng đối với một sinh mạng, nhưng đối với cả nhân loại thì đó là một lời cảnh báo. Nó nói với mọi người rằng, tinh thần xã hội và niềm tin đang có vấn đề. Từ thế kỷ XIX đến nay, đều có những nhà thơ, nghệ sĩ tự tử, nó nói lên một sự thực là, loài người đã rơi vào hoàn cảnh khó khăn về mặt tinh thần. Tự tử quả là một việc làm dũng cảm, rất đáng để khâm phục, nhưng tôi cũng cho rằng, tự tử là biểu hiện của sự thiếu chín chắn, thể hiện sự yếu đuối của một con người không tìm được bí mật của cuộc sống thì vội vàng vứt bỏ nó. Việc tự tử của Bắc Tử đã gây chấn động rất lớn đến tinh thần của tôi. Tính cách của Bắc Tử chẳng khác gì cậu, tôi không muốn cậu lại đi theo con đường của cậu ấy. Cậu là một nhà tư tưởng luôn tìm tòi những bí mật của cuộc sống, cậu cần phải khắc phục những khó khăn và bất hạnh trong số phận của mình, nhất định phải tìm cho được bản chất của cuộc sống. Tất cả những nhà triết học và nhà khoa học đều nói rằng, bản chất của cuộc sống và thế giới là bất khả tri. Nhưng, Trang Tử thì lại nói, hàng vạn năm sau, có thể một người thông minh hơn sẽ cho chúng ta biết, bản chất của nó là gì. Con đường từ nay về sau, cậu phải tự đi.”
Nghe xong những lời này, Trương Duy rất buồn. Thầy Dị Mẫn Chi trầm ngâm một hồi, sau đó hỏi anh: “Cậu có biết vì sao mọi người gọi tôi là Cư sĩ Vô Ưu không?”.
“Không biết ạ. Chúng em cũng không rõ, cái tên hồ Vô Ưu là do thầy đặt, hay nó có từ trước?”, Trương Duy nói.
“Hồ Vô Ưu vốn là một cái hồ tự nhiên không có tên. Tên của nó là do thầy Hồ Lý đặt cho. Thầy đã đặt tên cho hồ khi còn trẻ, lúc đầu cũng chỉ là tiện mồm thì gọi thế, nhưng không ngờ khi về già, thầy mới phát hiện ra rằng, cái tên ấy rất hợp với nó. Thầy thường bảo chúng tôi đẩy xe cho thầy đi dạo quanh hồ. Thầy thường trầm ngâm nghe tôi nói rất nhiều chuyện xong rồi mới đáp lại một vài câu. Lúc ấy, tôi cũng có một vài ý kiến về những chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời kỳ Cách mạng văn hóa. Nhưng thầy Hồ Lý nói với tôi rằng, lẽ nào cậu lại quên bốn chữ mà Chu tiên sinh đã cho cậu? Tất nhiên là tôi biết thầy muốn nói tới bốn chữ “Không nên ôm hận”. Nhờ có sự khai tâm của thầy mà những mối hận trong lòng tôi dần dần tan biến. Nhưng thầy vẫn cảm thấy tôi chưa thực sự giác ngộ, thầy bảo, để tôi đặt cho cậu một biệt hiệu nhé. Tôi đáp, vâng ạ. Thầy nói, gọi cậu là Cư sĩ Vô Ưu vậy. Không có hận thù đã là một giới hạn, nhưng Vô Ưu, nghĩa là không buồn phiền, lại là một cảnh giới cao hơn nữa. Mong rằng cậu sẽ không phải buồn phiền. Thế là từ đó tôi có tên là Cư sĩ Vô Ưu.”
Trương Duy nghĩ, thầy Dị Mẫn Chi thật may mắn, vì trong cuộc đời của mình, thầy đã lần lượt được học hỏi từ hai bậc đại sư, còn anh thì chẳng may mắn chút nào, vì anh vừa mới được học và trò chuyện với thầy Dị Mẫn Chi một chút thì ông đã sắp từ giã anh. Nghĩ đến đây anh thấy rất buồn, hai hàng nước mắt ứa ra.
Đêm ấy thầy Dị Mẫn Chi không chợp mắt chút nào, ông cứ nói chuyện với Trương Duy mãi, dường như ông muốn đem tất cả những lời của thầy mình để lại và những lời định nói sau này trút hết với anh. Lần đầu tiên, Trương Duy cảm thấy trong lòng mình tràn đầy niềm yêu kính đối với thầy Dị Mẫn Chi. Trong lần nói chuyện đêm ấy, một lần nữa hai thầy trò lại nói tới sự việc xảy ra giữa ông với Vu Lệ. Ông nói: “Chuyện này tôi nhất định phải nói thật rõ để cậu hiểu, tôi không muốn vì tôi mà cậu với Vu Lệ mất vui. Tôi phải thừa nhận rằng, lúc nhảy cùng Vu Lệ, tôi đã bị rung động trước vẻ tươi trẻ của cô ấy. Đã lâu lắm rồi tôi không quan sát kỹ đến vẻ đẹp của phụ nữ như vậy, cũng lâu lắm rồi tôi không bị những rung động sâu xa trong lòng đánh thức. Nhưng tôi chỉ nhìn cô ấy như nhìn đứa con của mình. Đó là một lần hoài niệm về tuổi trẻ khi mình đã về già. Cô ấy đã thắp sáng cuộc sống của tôi trong khoảnh khắc ấy, nhưng trong lòng tôi chỉ có tình yêu mà không có ham muốn. Mọi người đều đã ngà ngà say, cô ấy nằm trong lòng tôi, tôi nhìn xung quanh, thấy mọi người đều đã ngủ, thế là tôi nhẹ nhàng ôm lấy cô ấy, tôi rất muốn hôn cô ấy, đúng vậy, chính là cái cảm giác đó, nhưng tôi đã không làm thế. Tôi nhớ tới quá khứ, tôi vừa ôm vừa kể cho cô ấy nghe chuyện tình yêu của tôi hồi còn trẻ. Thế rồi cô ấy nôn, không chỉ làm bẩn hết quần áo của mình mà còn làm dây sang cả quần áo của tôi nữa. Nôn xong thì cô ấy thiếp đi. Lúc đó tôi thực sự cảm thấy cô ấy giống như một đứa con của tôi, lại giống như một người yêu đã lâu lắm rồi không gặp. Tôi vô cùng cảm động, có lẽ cậu không hình dung nổi khi cảm giác ấy bỗng dâng tràn trong một con người đã già yếu là như thế nào đâu. Tôi đã khóc, khóc một cách rất đau lòng, không ai biết. Tôi thực sự cảm thấy mình đã già nua. Tôi khóc cho số phận của mình. Một nhà triết học thì lẽ ra không nên như vậy, nhưng lòng tôi cứ quặn thắt lại và nước mắt cứ thế chảy vào trong. Tôi đã khẽ khàng bế cô ấy đặt lên giường để cô ấy ngủ một lúc, nhưng quần áo của cô ấy vừa ướt vừa bẩn, cần phải cởi nó ra. Đúng lúc ấy thì cậu xuất hiện và cô ấy tỉnh dậy. Cũng đúng giây phút đó, tôi bỗng cảm thấy mọi chuyện thật hoang đường. Cậu kinh ngạc, Vu Lệ thì bàng hoàng, còn tôi chẳng biết phải nói gì. Tôi biết bất cứ lời giải thích nào cũng đều là vô nghĩa. Sau đó, suốt một thời gian dài cậu không đến nhà tôi, tôi biết là cậu đang căm ghét tôi. Tôi cũng biết, Tết vừa rồi cậu ở lại đây. Tôi không trách cậu, cũng không tới tìm cậu. Tôi biết nhất định cậu sẽ đem chuyện lần này liên hệ với những gì mà cậu nhìn thấy lần trước, và cho rằng tôi là một người chẳng ra gì, một người thầy không có đạo đức”.
“Thưa thầy, nói thực lòng, lúc ấy em cũng đã nghĩ như vậy, nhưng bây giờ thì không.”
“Không sao, cậu không cần phải vội vàng bày tỏ thái độ như thế đâu”, thầy Dị mỉm cười nói. “Cậu vẫn cần phải tiếp tục suy nghĩ. Cậu có biết tôi đã nghĩ gì sau khi cậu và cô ấy đi khỏi không?”
Trương Duy gật đầu, trong bóng tối, thầy Dị cũng cảm nhận thấy, ông nói: “Tôi không hề hối hận, bởi tôi không hề làm bất cứ chuyện gì sai trái. Tôi phát hiện ra rằng, sự sống của mình vẫn còn có thể đánh thức, vẫn có thể bừng sáng lên. Sau đó tôi cảm thấy tiếc nuối vô cùng. Tôi nghĩ mình nên yêu một lần nữa, nhưng cũng lại cảm thấy lực bất tòng tâm. Thậm chí tôi đã hối hận rằng, sao lúc ôm Vu Lệ tôi đã không làm như vậy, đó quả là một điều rất đáng buồn. Lúc đó tôi đã ước sao mình có thể trẻ lại một chút. Gần đây, tôi thường nghĩ tới những vấn đề này. Tối nay cậu lại bảo tôi hãy yêu một lần nữa. Từ sâu thẳm trong lòng, tôi không phải là không muốn như vậy. Nhưng số phận thật khắc nghiệt”.
“Em thực sự nghĩ rằng thầy nên thử một lần nữa.” Trương Duy nói với vẻ rất trịnh trọng.
“Ha ha, sắp xuống lỗ rồi mà còn nói tới những chuyện đó ư? Làm gì còn có cơ hội nữa! Thôi, chúng ta ngủ đi, trời sắp sáng rồi.”
Họ ngủ được một lát thì trời sáng, hai người ở lớp nghiên cứu sinh khóa trên đến thay ca cho Trương Duy và Lâm Hà, để họ về lên lớp. Trên xe không có chỗ ngồi, cả hai đều phải đứng, chẳng ai nói gì. Sau khi xuống xe đi bộ về trường, Lâm Hà mới lên tiếng: “Trương Duy này, tôi hỏi anh một câu, nhưng anh nhất định phải trả lời thật nhé”.
“Chuyện gì cơ?” Trương Duy biết Lâm Hà định hỏi điều gì.
“Anh nghĩ sao về tôi?” Lâm Hà hỏi, vẻ ngượng ngùng.
“Chúng ta là bạn học và là bạn tốt của nhau.”
“Anh nghĩ giữa chúng ta liệu có thể có gì được không?”
“Không.” Trương Duy cảm thấy cần phải kiên quyết hơn.
“Con người anh thật là lạnh lùng!” Nói xong, Lâm Hà bỏ đi.