“Nhưng…” Nghe những lời trên của thầy Dị Mẫn Chi, Trương Duy vẫn không hiểu.
“Thôi mà, Trương Duy, tôi vẫn luôn cảm thấy mối hận thù trong lòng em rất lớn, tôi không rõ vì sao em lại như vậy. Tôi luôn muốn tìm dịp để nói với em về điều này, song vẫn chưa thực hiện được”, thầy Dị nói.
Trương Duy nghe thế, trong lòng có phần không phục, anh cúi đầu đáp: “Điều này có lẽ liên quan tới những trải nghiệm của em. Chuyện của bố em có phần giống với thầy. Ông cũng là sinh viên tốt nghiệp trường Đại học Phương Bắc, ra trường công tác không lâu thì kết hôn, rồi khi cuộc vận động chống phái hữu bắt đầu, người đàn bà ấy đã tố cáo bố em. Cũng chỉ vì viết mấy bài thơ mà suốt đời bố em không làm được việc lớn, hơn nữa phải sống một cuộc đời rất đỗi tầm thường. Em luôn nghĩ, sao lại không có báo ứng nhỉ? Nếu như không vì bà ta thì chắc chắn bố em cũng đã có một sự nghiệp thành công”.
Thầy Dị mỉm cười, nói: “Có thể làm nên đại sự gì đây? Thế theo cậu thì tôi đã làm được sự nghiệp lớn chưa?”.
“Tất nhiên là thầy đã làm nên sự nghiệp lớn.”
“Theo tôi, thực ra cả đời tôi đã thất bại. Mấu chốt đưa đến sự thất bại ấy chính là vì muốn làm nên một sự nghiệp lớn, chính là vì ham muốn danh lợi. Trong suy nghĩ của người khác thì ngay từ hồi còn trẻ tôi đã rất nổi danh, sau này khi sửa sai cũng đã thể hiện được khả năng của mình, có thể nói là công thành danh toại, nhưng tôi thì biết rất rõ mình có hạnh phúc hay không. Cậu đã bao giờ nhìn những con chim bay trên bầu trời chưa? Dù là con chim lớn đến mấy thì sau khi lướt qua, nó cũng chẳng để lại dấu vết gì. Cậu có thể nói rằng nó chưa bay qua không? Rõ ràng là không, nhưng với một người chưa bao giờ nhìn thấy, thì rõ ràng những con chim ấy chưa hề bay qua. Nền văn minh nhân loại cũng giống như những con chim bay trên bầu trời mà thôi. Mấy nghìn năm sau, mấy vạn năm sau, tất cả đều không còn tồn tại nữa. Loài người sẽ có một ngày biến mất, đó cũng là lẽ thường tình của sự sống. Đến ngày bị tiêu diệt ấy, tất cả những gì mà loài người đã sáng tạo ra đều trở thành ảo ảnh. Tất cả những gì mà chúng ta tạo ra so với Tạo hóa cũng chỉ là thầy bói xem voi mà thôi. Có đúng là chúng ta đang sáng tạo ra thế giới không? Không, chẳng qua chúng ta chỉ phát hiện ra từng tí từng chút những bí mật của tự nhiên và dùng những bí mật ấy mang lại lợi ích cho cuộc sống của mình mà thôi. Hồi còn trẻ, tôi chưa từng nhìn thấy những điều này. Chúng tôi muốn cải tạo thế giới, muốn lập nên công trạng mà quên mất rằng bản chất của cuộc sống chính là niềm vui. Cả đời, tôi chưa hề học được cách sống của những người bình thường, và cũng có rất ít niềm vui của người bình thường. Bốn mươi năm trước, tôi chỉ quan tâm đến nhân loại mà quên mất bản thân mình; mười năm sau này, tôi bắt đầu quan tâm đến bản thân và bản chất của cuộc sống mà không quan tâm đến nhân loại nữa, lúc ấy tôi mới phát hiện ra rằng quãng thời gian bốn mươi năm trước đều là sự chuẩn bị của mười năm sau, đồng thời cũng phát hiện ra rằng, tôi không có sức lực để thay đổi thế giới này, mà dù có thay đổi thì sao nào? Cậu có thể nói rằng sự thay đổi ấy đều tốt không? Vì thế, tôi cảm thấy thời gian mười năm sau này, tôi mới là một người sống thực sự, đáng tiếc là tôi không có vợ, không có con, đó là tội bất kính đối với trời, và bất kính đối với cuộc sống.”
Nghe những lời này, Trương Duy vẫn không phục, nhưng thấy thái độ bình tĩnh của ông, anh không muốn tranh luận thêm nữa, anh nói: “Thưa thầy, em cảm thấy mặc dù cuộc đời thầy theo con mắt của những người bình thường là không trọn vẹn, nhưng em nghĩ, với một người luôn coi trọng giá trị tinh thần thì như thế đã là rất thành công rồi, thầy đã trải qua biết bao thăng trầm từ các cuộc vận động chính trị nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng, hơn nữa, một người đã ở cái tuổi xế chiều lại không phải chịu sự trói buộc của danh lợi và đón nhận số phận một cách rất bình thản, đó mới là đỉnh cao”.
“Đỉnh cao gì mới được chứ? Những văn nhân chúng ta có một cái bệnh, đó là luôn chia cuộc sống con người thành nhiều tầng bậc, đó thực ra là một sai lầm. Hạnh phúc không có sự phân biệt, mà mục đích của đời người là hạnh phúc. Những người được gọi là đã đạt tới đỉnh cao, tất nhiên sẽ gần với hạnh phúc hơn, song sự thực lại thường ngược lại. Việc đầu tiên mà một người nông dân làm sau vụ thu hoạch là hưởng thụ cuộc sống, từ khi mặt trời còn chưa lên, ông ấy sẽ ra cánh đồng, hít thở làn không khí trong lành, và hòa vào với thiên nhiên; khi mặt trời lên cao, ông ấy có thể tới một nơi nào đó, nói chuyện với những người hàng xóm về chuyện cây dâu con tằm, cùng nhau tận hưởng cái ấm áp của mặt trời; khi mệt ông ấy sẽ quay về nhà nghỉ ngơi; trời tối, ông ấy sẽ xem ti vi một lát, sau đó nằm trong chiếc chăn ấm áp ngủ một giấc ngon lành. Mọi người thường cho đó là cuộc sống ở mức thấp nhất trên đời này, đó chính là cách nói về cuộc sống vật chất và tinh thần mà mọi người thường dùng, nhưng rõ ràng, đó không thể là thước đo để xem con người có hạnh phúc hay không. Làn không khí trong lành và ánh mặt trời ấm áp không thể mua được bằng tiền, đó là sự ban tặng của thiên nhiên. Nhưng ở thành phố thì phải dùng tiền và sự sống mới đổi lại được những thứ đó, thậm chí chẳng bao giờ đổi được. Chúng ta thử tưởng tượng xem, vào thời rất xa xưa, khi mà loài người còn chưa biết cách chế tạo công cụ lao động và nấu chín thức ăn, sự ban tặng của thiên nhiên là vô cùng phong phú, đủ để nuôi sống vạn vật. Lúc đó, ngoài việc hái lượm ra, loài người chỉ cần hưởng thụ niềm vui của cuộc sống. Ngoài việc chạy trốn thú dữ, phần lớn thời gian của con người cũng giống như muôn loài đều dành để hưởng thụ. Còn bây giờ thì sao? Sức sáng tạo của con người mỗi ngày một cao, đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần mỗi ngày một phong phú, thế nhưng phần lớn thời gian của chúng ta đều dành vào việc chuẩn bị cho sự hưởng thụ cuộc sống, tức là những thứ như công việc và sự nghiệp, để rồi quên đi chính bản thân mình, quên đi việc hưởng thụ cuộc sống. Có một số người cứ hưởng thụ, đó là vì họ biết thế nào là đủ, hoặc là vì họ lười biếng; có một số người chỉ hưởng thụ được trong một thời gian ngắn, bởi vì họ tỉnh ngộ quá muộn, hoặc do họ đã nghỉ hưu; có một số người suốt đời không biết hưởng thụ cuộc sống là gì, thậm chí chết vì công việc, những người này được xã hội phong tặng danh hiệu liệt sĩ hoặc anh hùng, nhưng tất cả những điều ấy suy cho cùng đều khiến loài người chúng ta mỗi ngày một xa rời gốc rễ của cuộc sống.”
Trương Duy chìm trong suy tưởng. Anh thấy đồng tình với hầu hết những điều thầy Dị Mẫn Chi nói, tuy cũng có một vài điểm anh không tán thành. Cảm giác này khác hẳn những lần anh trò chuyện cùng ông Ngô. Ông Ngô luôn bảo vệ chính kiến một cách cương quyết, vì thế thường khiến Trương Duy phải phản kháng lại một cách bản năng; thầy Dị Mẫn Chi thì luôn dành cho anh sự lựa chọn, nhưng sự khoan dung ấy lại khiến cho người ta phải phục tùng. Anh cảm thấy thầy Dị Mẫn Chi vẫn cứ là thầy Dị Mẫn Chi, không thể nào là một người bình thường được.
Thầy Dị cũng trầm ngâm một hồi rồi lại hỏi Trương Duy: “Cậu đã từng nghe câu ngạn ngữ: Làm kẻ chăn cừu mười năm, có cho làm Hoàng đế cũng chẳng màng bao giờ chưa?”.
Trương Duy gật đầu. Thầy Dị Mẫn Chi nói: “Tôi đã từng chăn cừu ở sa mạc Gobi mấy năm, sau này tôi mới hiểu câu nói đó. Khi chăn cừu, cậu sẽ phải thường xuyên đối diện với chính mình và thiên nhiên. Trên sa mạc Gobi mênh mông ấy, có niềm vui của màu xanh, có hạnh phúc của sự bi tráng. Nó có thể khiến cậu vứt bỏ mọi thứ, có thể quên hết mọi oán hờn. Bây giờ tôi thực sự mong muốn được tới đó chăn cừu”.