• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tôi là kẻ ác
  3. Trang 14

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 27
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 27
  • Sau

Mười một

Việc xui xẻo mà Mã Vạn Lương gặp phải khiến Lưu Nhất Mai cảm thấy chắc chắn là có chỗ nào không ổn. Chị luôn tin những việc ở dương gian và những việc ở cõi âm chắc chắn có mối quan hệ nào đó. Việc dương gian chị đã nhìn thấy. Nhưng việc cõi âm thì không. Chị phải đi hỏi, nếu không ngày nào đó trong nhà lại xảy ra chuyện lớn mà không biết vì sao.

Buổi trưa, Lưu Nhất Mai đi mời Thanh Quả. Thanh Quả là một kỳ nhân, giỏi việc gọi hồn. “Gọi hồn” chính là thay người khác nói chuyện với linh hồn của tổ tông. Trước đó rất lâu, ở trấn Dã Mã, nhà ai xảy ra tai họa gì, việc cần làm đầu tiên, chính là gọi hồn, xem xem rốt cuộc vì sao lại xảy ra tai họa. Sau khi tìm ra nguyên nhân, cần làm phép thì làm phép, cần quét nhà (quy mô nhỏ hơn làm phép một chút) thì quét nhà. Sau đó gọi hồn bị cấm vì bị coi là mê tín, không có ai dám gọi hồn nữa, nhà ai có xảy ra việc gì, thì chỉ tự đoán mò.

Đi đến nhà Thanh Quả, Lưu Nhất Mai nhìn thấy vợ Khâu Đại Muội của Thanh Quả đang mắng Thanh Quả: “Đồ chết giẫm, còn không mau đi đơm cơm”. Vợ Thanh Quả là người trấn Cửu Độ, rất đanh đá, nhưng cũng rất đảm đang, việc nặng trong nhà đều do chị ta làm cả, bình thường Thanh Quả chỉ làm mấy việc nhỏ như cho lợn ăn, đơm cơm, cho nên để mặc cho chị ta mắng.

Nhìn thấy Lưu Nhất Mai, Khâu Đại Muội tưởng chị ta đến tìm mình, liền nói: “Nhất Mai, tìm tôi có việc gì?”. Lưu Nhất Mai nói: “Tôi tìm Thanh Quả”. Khâu Đại Muội cảm thấy rất kỳ lạ, chị kết hôn với Thanh Quả bao nhiêu năm nay, sinh một trai một gái, trấn Dã Mã chưa từng có ai đến tìm Thanh Quả nói chuyện. Bao nhiêu năm nay, Thanh Quả không xuất hiện quá một giây trong đầu hay trên miệng người khác. Hôm nay Lưu Nhất Mai đến tìm anh ta, thật là một việc hiếm có.

“Tìm anh ta có việc gì?” Khâu Đại Muội nói.

“Tôi muốn mời Thanh Quả đến nhà tôi gọi hồn.” Lưu Nhất Mai nói.

Muôi múc cơm của Thanh Quả rớt xuống đất.

Đã hai mươi năm nay Thanh Quả không gọi hồn rồi. Hai mươi năm trước, anh ta theo bố Mậu Lâm học gọi hồn, học rất nhanh. Vốn dĩ bố anh ta còn có một đồ đệ tên là Bạch Tùng, nhưng Bạch Tùng không chịu khó học, dạy anh ta đánh kim cương (một loại ma thuật), anh ta không làm sao học được. Mậu Lâm cảm thấy anh ta không có duyên với nghề này, liền cho anh ta về nhà, chuyển sang dạy dỗ con trai mình. Ông tự mình đi khắp các nhà, được mọi người mời đi nói chuyện với tổ tông của họ, một năm bốn mùa dường như không có lúc nào ngơi, nếu Thanh Quả học được, cũng có thể xem như nắm được một ngón nghề để sống qua ngày, liền chuyên tâm dạy Thanh Quả. Thanh Quả vốn thông minh, vừa dạy là biết. Hai cha con thường xuyên được mọi người mời đến nhà, có lúc thì Mậu Lâm gọi hồn, khi Mậu Lâm gọi hồn, Thanh Quả liền ở bên cạnh giúp chủ nhà đốt hương. Có lúc Thanh Quả gọi hồn, khi Thanh Quả gọi hồn, Mậu Lâm ở bên cạnh, chốc chốc lại hát giúp đôi câu. Hai cha con không giống hai cha con, mà giống như hai người hợp tác có quan hệ thân thiết. Hai cha con đều ra đi vào lúc trời tối, trở về khi trời sáng, ban ngày ngủ, cho nên trông rất trắng, giống như người có lương. Tiếc rằng từ sau năm 1960, nghề này không thể làm tiếp nữa. Nhà Thanh Quả bị sục sạo từng ngõ ngách, tất cả mọi nhạc cụ và tranh thần đều bị thu giữ. Mậu Lâm rất thảm, bị người từng làm đồ đệ của ông mấy ngày là Bạch Tùng trói lại đánh, Bạch Tùng nói mình bị Mậu Lâm lừa, bây giờ người không ra người quỷ không ra quỷ.

Bạch Tùng là con trai, nhưng lại mắc bệnh đau đầu mà phụ nữ thường mắc, hễ đau đầu là lăn lộn trên đất. Cậu ta đem tất cả tội lỗi đổ lên việc hồi đầu theo Mậu Lâm học gọi hồn, đá liền mấy cái lên ngực Mậu Lâm. Mậu Lâm không chịu được, cảm thấy nửa đời mình cho dù vào nhà nào, cũng đều được ăn ngon uống ngon, bây giờ Bạch Tùng sỉ nhục, sống không bằng chết, liền nhảy xuống sông Dã Mã. Hôm đó đúng vào ngày nước lớn, thi thể của ông không biết bị xô đi đâu. Thanh Quả men theo sông Dã Mã đi về phía dưới chừng 100 ki-lô-mét tìm thi thể của cha, tìm ra tận sông Hồng Thủy. Nhìn sóng nước ngút trời của sông Hồng Thủy, anh nghĩ bố anh nhất định đã bị xô đến một nơi rất xa rất xa, liền đứng trước sông Hồng Thủy òa khóc. Sau đó anh cởi áo và quần trên người ra, vứt xuống sông, xem như lần hiếu thuận cuối cùng với bố – bố phải đi một đoạn đường rất xa, chỉ có quần áo trên mình chắc chắn là không đủ, vứt quần áo của mình cho ông, ông sẽ có thêm một bộ quần áo để thay rửa. Thanh Quả chỉ mặc một chiếc quần đùi trở về trấn Dã Mã, suốt cả đường đi bị người khác coi là mắc bệnh thần kinh.

Thanh Quả từ nhỏ gắn với cha như một định mệnh, bây giờ cha không còn nữa, căn nhà trống trải một nửa. Cha chết rất oan uổng, cuối cùng không biết trở thành quỷ nơi nào, phương Đông hay là phương Tây, phương Nam hay là phương Bắc, anh hoàn toàn không biết. Anh càng nghĩ càng không cam tâm, không làm rõ những việc này, sau này anh cũng không thể sống. Anh quyết định gọi hồn cho chính mình. Cũng giống như đoán số không thể nào đoán được cho chính mình, những người làm việc gọi hồn kỳ thực cũng không thể gọi được hồn người nhà của mình. Điều này Thanh Quả biết, nhưng anh ta muốn thử, nhỡ đâu ông trời có mắt. Anh muốn hỏi bố anh rất nhiều câu hỏi, bây giờ đang ở đâu? Ăn uống thế nào? Mặc có đủ ấm không? Không có nhạc cụ, anh dùng vung nồi nấu cơm nhà mình, không có tranh thần, anh tìm Thụy Cầu nhờ vẽ giúp một bức. Thụy Cầu không sợ chết, lúc này vẫn muốn giúp anh vẽ tranh thần, sau này Thanh Quả luôn coi anh ta là huynh đệ. Ca từ thì dễ, đều ở trong đầu anh. Có nhạc cụ và tranh thần vẫn không đủ, còn cần một người giúp anh ghi chép, bởi vì sau khi gọi hồn, anh không phải là anh nữa, hồn của bố anh đã nhập vào anh rồi, lời của anh nói chính là lời của bố anh, cần có một người giúp anh ghi lại, nếu không sau đó anh không thể nào nhớ nổi. Anh đi tìm Mã Vạn Lương, gọi anh ta đến giúp đỡ. Mã Vạn Lương nhận lời một cách sảng khoái. Thanh Quả nói hết những lời mình cần hỏi với anh ta. Nói rất nhiều, Mã Vạn Lương không nhớ được, Thanh Quả liền ghi lại trên giấy, yêu cầu Mã Vạn Lương đọc theo. Anh nói: “Tai bố tôi có chút nghễnh ngãng, khi đọc anh đọc to một chút”. Mã Vạn Lương lúc đầu không dám, nói: “Đọc to không dễ, sợ Bạch Tùng nghe được đem người đến phá hoại”.

Thanh Quả nhìn anh ta, bộ dạng rất đáng thương. Mã Vạn Lương liền nói: “Đọc to thì đọc to, chết thì thôi!”. Mã Vạn Lương khoáng hoạt nói. Sau khi chuẩn bị xong, Thanh Quả liền bắt đầu gọi hồn, anh hát mấy phút, liền trở nên co giật, đây chính là bước then chốt của gọi hồn, điều này chứng tỏ, hồn mà Thanh Quả muốn hỏi đã bay đến rồi. Ông trời quả là có mắt, hồn của bố anh quả thực đã bay đến rồi. Mã Vạn Lương vội vã đọc các câu hỏi trên giấy, càng đọc càng to. Nhưng Thanh Quả trừ co giật ra thì không mở miệng. Mã Vạn Lương tưởng rằng mình đọc không đủ to, liền ngắm trúng tai Thanh Quả gào lên. Cho dù Mã Vạn Lương gào thế nào, Thanh Quả từ đầu đến cuối đều không nhả ra một chữ. Sau 20 phút, mặt Thanh Quả trở nên xanh nhợt, hơi thở gấp gáp, Mã Vạn Lương vội vã nhéo nhân trung Thanh Quả, đi tẽ bàn tay nắm chặt thành nắm đấm của anh ta, dùng nước phun lên mặt anh, lại gào to: “Thanh Quả, hồn của bố anh không hỏi được, anh nhanh nhanh trở về đi. Đừng đi xa quá”. Mã Vạn Lương sợ anh ta không gọi được hồn, mình cũng bị kéo theo, liền gọi anh ta nhanh hoàn hồn. Đây chính là bước cuối cùng của một cuộc gọi hồn, không nói như vậy, người gọi hồn sẽ bị hồn phách kéo đi. Quằn quại một lúc, Thanh Quả tỉnh lại, anh hỏi Mã Vạn Lương: “Bố tôi nói những gì?” Mã Vạn Lương lắc đầu nói: “Ông ta không nói gì cả”. Thanh Quả rất thất vọng, còn muốn thử thêm lần nữa.

Mã Vạn Lương kéo mạnh anh ta, nói: “Anh không muốn sống nữa sao?”. Còn nói: “Bình thường bố anh ít nói. Không nói cũng là bình thường. Đúng rồi Thanh Quả, hồn đến vừa rồi có khả năng không phải là hồn của bố anh, mà là hồn người khác, thấy không phải là người nhà mình, liền không muốn nói, nói ra cũng không có tác dụng”. Vừa rồi Thanh Quả không mở miệng, Mã Vạn Lương lo lắng thay cho anh ta, từng nghĩ chờ khi anh ta tỉnh lại, thử bịa ra vài đáp án trả lời những câu hỏi trên giấy xem sao, coi như bố anh ta trả lời, an ủi anh ta một chút. Nhưng những câu hỏi trên giấy quá nhiều, phải nghĩ ra nhiều đáp án như vậy, anh không nghĩ ra ngay, đành phải nói thật. Thanh Quả lê tấm thân mệt mỏi, thu dọn nắp nồi và tranh thần, cắt một nửa miếng thịt mỡ đã luộc chín cho Mã Vạn Lương. Mã Vạn Lương không lấy, nói: “Nếu như vừa nãy bố anh nói, thì tôi nhận, ông ấy không nói, tôi không thể nhận”. Liền đi. Từ đó về sau, Thanh Quả không giúp mọi người gọi hồn nữa, lúc nhớ bố, anh ta ngồi thẫn thờ bên bờ sông.

Thoắt cái đã gần hai mươi năm. Khi hai chữ “gọi hồn” buột ra khỏi miệng Lưu Nhất Mai, Thanh Quả và vợ Khâu Đại Muội của anh ta giật thót cả mình.

Khâu Đại Muội nói: “Nhất Mai, chị đùa đấy à, mọi người không sợ bị bắt, nhưng chúng tôi sợ. Nhìn bộ dạng anh ấy thế này, bị bắt ngồi tù, chắc chắn là chết.”

Đôi mắt Thanh Quả vô hồn, khom lưng, gầy giơ xương, vài sợi râu thưa thớt dưới cằm, trông như một đám cỏ rối.

Lưu Nhất Mai nói: “Nhà tôi có việc xui xẻo, nếu không hỏi rõ, ai biết sẽ còn xảy ra chuyện gì. Việc này không ai giúp được, chỉ có Thanh Quả giúp được. Bây giờ không như trước đây nữa, chị xem, những bài hát trước đây không dám hát, bây giờ trên đài còn dám bật mà”.

Đài nhà Hoàng Tinh Trung trên phố đang bật bài hát “Cô nương xinh đẹp”: Cô nương xinh đẹp anh đã gặp cả vạn ngàn, chỉ có em là đáng yêu nhất, em giống như mặt trời mới mọc lúc ban mai, em gái hào quang vạn dặm à.

Lưu Nhất Mai nói: “Trước đây ai hát bài này, đều bị bắt đi đấu tố. Chị nghĩ mà xem, bây giờ có phải không giống trước đây nữa không?”

Khâu Đại Muội nói: “Đó là hát. Khác với việc gọi hồn. Gọi hồn là mê tín”.

Lưu Nhất Mai nói: “Chị đừng nói hồ đồ, chị nói gọi hồn là mê tín, có nghĩa là mắng Thanh Quả. Gồm cả bố Thanh Quả nữa”.

Khâu Đại Muội không đáp lời. Lưu Nhất Mai nói: “Tôi không quan tâm mê tín hay không mê tín, Thanh Quả, anh đến nhà tôi hát một lúc, hát là hát, gọi hồn cũng là hát, giống nhau. Hơn nữa, nửa đêm canh ba, không có ai biết cả”.

Thanh Quả không mở miệng, Khâu Đại Muội nói tranh: “Không có ai biết? Vừa gõ vừa hát, người khác không vây lại mới lạ. Người trấn Dã Mã thích hóng hớt chị còn không biết.”

Thanh Quả bưng hai bát cơm đến bên bàn, anh ta không quan tâm đến hai người đàn bà, dường như những lời họ nói không có liên quan gì đến anh ta.

Lưu Nhất Mai nói: “Thanh Quả, Vạn Lương muốn tôi đến tìm anh. Nếu như anh không muốn đi thì thôi. Hai người ăn cơm đi, tôi đi đây”. Nhưng cũng không đi ngay, chị còn xem Thanh Quả có phản ứng gì. Thanh Quả không đáp lời, ngồi xuống và một miếng cơm to vào miệng. Lưu Nhất Mai lắc lắc đầu, liền đi ra.

Khâu Đại Muội nói: “Anh bị câm à, đi hay không đi thì cũng nên đáp một tiếng, anh không nói gì, ra vẻ mình rất tài năng, ra vẻ rất khó mời, sau này đứng trước Lưu Nhất Mai, không biết phải nói thế nào”. Khi Khâu Đại Muội lấy Thanh Quả, Thanh Quả đã sớm không gọi hồn rồi, chị nghe người khác nói lại, mới biết chồng mình trước kia làm việc này. Nghĩ đến việc rất nhiều người đã chết lại nói chuyện thông qua miệng Thanh Quả, chị có chút sợ hãi, về sau ngủ bên cạnh anh ta, cũng đồng nghĩa với việc ngủ bên cạnh người chết, liền không muốn lấy anh ta nữa. Bà mối nói, gì mà gọi hồn, cô đừng có tin, không phải thật đâu, vì để có cơm ăn mới làm như vậy. Khâu Đại Muội bán tín bán nghi, nghiến nghiến răng, liền gả cho anh ta, mới đầu còn có chút lo lắng, e rằng những hồn phách ở trên người anh ta sẽ bất ngờ bay ra, sợ anh ta ở trong nhà mình giả thần giả quỷ, sau đó thấy anh ta không có phản ứng gì, liền yên tâm.

Từ khi lấy Thanh Quả, đây là lần đầu tiên có người đến mời Thanh Quả đi gọi hồn. Khâu Đại Muội cảm thấy rất mới lạ, chị chưa bao giờ biết gọi hồn là thế nào, nhiều năm như vậy, bộ dạng vô dụng của Thanh Quả đã cắm rễ sâu trong tim chị, chị căn bản không tin rằng người đàn ông vô dụng này sẽ gọi hồn, không giống với trước khi lấy anh ta, bây giờ chị lại hy vọng anh ta sẽ gọi. Chị muốn xem chồng mình còn có bản lĩnh đó không. Vừa rồi chị thay Thanh Quả từ chối Lưu Nhất Mai, là để kích anh ta.

Thanh Quả kẹp một miếng rau trong miệng. Bát cơm càng ăn càng vội.

Khâu Đại Muội nói: “Tôi cảm thấy hơi mất mặt”.

Thanh Quả đứng dậy, chạm vào một góc bàn ăn cơm, bát đũa trên bàn kêu xoảng một cái. Khâu Đại Muội giật mình, mắng: “Đồ vô tích sự”. Lúc nói chuyện, Thanh Quả đã lên lầu, trên lầu ầm ĩ một hồi, sau mấy phút, Thanh Quả cầm một bao giấy dầu xuống. Anh mở bao giấy dầu trước mặt Khâu Đại Muội, bên trong là mấy cuốn kinh thư bằng những tờ giấy nhám được ghim lại với nhau và một bức tranh thần, vàng đến mức không thể vàng hơn được nữa. Thanh Quả giơ bức tranh thần lên, trên đó vẽ một cụ già đang cầm cành trúc, là bức tranh mà sau khi bố anh chết, Thụy Cầu đã giúp anh vẽ khi anh gọi hồn, bộ dạng thần tiên có vẻ giống với bố anh. Đặt bức tranh thần xuống, anh lại lật cuốn kinh thư, nhìn cái đã thấy ngay là những văn tự kỳ quái, hai giọt nước mắt của anh lăn xuống.

“Cứ tưởng rằng sẽ không ai đến tìm tôi nữa.” Anh ta quệt quệt đuôi mắt, nói. Thanh Quả dường như đang đợi một ngày như thế này.

Nhìn thấy chồng khóc, Khâu Đại Muội cảm thấy không thể tưởng tượng nổi. “Bố tôi chết anh còn không khóc. Có gì hay mà khóc vậy?” Vừa nói xong, chị ta nhìn thấy một bóng đen bay nhào về phía chị, còn chưa rõ là việc gì, chị liền bị Thanh Quả ép dưới người. Hai tay của Thanh Quả bóp chặt lấy cổ chị.

“Tôi bóp chết cô, tôi bóp chết cô.” Thanh Quả gằn giọng nói, mấy sợi râu dưới cằm run lên bần bật. Mặt Khâu Đại Muội đỏ lịm như gan lợn, hai chân đạp không ngừng. Á, á. Chị ta gào không ra tiếng. Thấy chị sắp đứt hơi, Thanh Quả mới buông chị ra, nói: “Lần sau nếu dám nói tôi, tôi sẽ lấy dao chém cô. Cô có tin không? Cô có tin không?”

Khâu Đại Muội ngồi dậy, liên tục ho, sau đó đập hai tay xuống đất: “Trời ơi, ông mở mắt ra mà nhìn”, chị nói như hát. Chị đang “hát trời”. Bất cứ người phụ nữ nào ở trấn Dã Mã đều biết “hát trời”. Có nghĩa là khi bị oan ức cùng cực, dùng điệu hát để khóc lóc tố cáo với trời.

Khâu Đại Muội hát rằng:

Trời ơi, ông mở mắt ra mà nhìn. Tên quỷ sứ này, từ khi tôi đến nhà hắn, không ngày nào được dễ chịu. Nào có ngày nào không bận rộn. Hắn làm việc ẻo lả, công điểm đều do tôi tranh. Tôi làm hùng hục giữa một đám đàn ông, hắn trốn trong nhà nhàn rỗi, tôi mắc nợ gì, làm trâu rồi lại làm ngựa, tôi sinh con đẻ cái, hắn nào có quan tâm, tôi đã khóc bao giờ, tôi đã phá bao giờ, bây giờ hắn đối xử với tôi như thế này, lương tâm của hắn đã bị chó tha đi rồi…

Chị liền gào đi gào lại mấy câu như vậy theo điệu của những bài hát trong núi, điệu này khi vui cũng có thể hát, chỉ có điều tiết tấu sẽ nhanh hơn một chút.

“Cô kêu đi, có kêu trời cũng chẳng tác dụng gì, kêu mệt rồi thì bò dậy đi.” Vừa rồi Thanh Quả múc bát cơm cho chị, chị còn chưa ăn miếng nào thì xảy ra tình huống ngoài ý muốn. Sau khi bò dậy, việc đầu tiên chính là lấy bát cơm trên bàn, ăn hết nửa bát cơm còn dở. Thanh Quả chẳng nhìn chị một cái, cầm lấy tranh thần và kinh thư, vào trong phòng nghiên cứu. Khi nhìn kinh thư, Thanh Quả phát hiện ra mắt mình hoa lên, anh lấy đôi kính lão mà bố anh Mậu Lâm trước đây đeo lên, lau đi lớp bụi trên mặt kính, chữ trên cuốn sách trở nên rõ ràng hơn nhiều. Anh nhớ lại từng câu từng chữ, những chữ kinh thư đó dần dần trở thành ca khúc sống lại trong đầu anh, anh lại trở về với những ngày đầu cùng với bố anh đến từng nhà từng hộ để gọi hồn.

Này nến đỏ lửa hồng

Thành tâm ắt sẽ linh

Thần phía tây đi ra

Thần phía đông đi ra

Thần phía nam đi ra

Thần phía bắc đi ra

Đầu lợn đã kính dâng

Rượu ngon đã kính dâng

Gà trống đã kính dâng

Gạo thơm đã kính dâng

Đã vái ba mươi vái

Đã khấu ba mươi lần

Nghe thấy thì phù hộ

Nhìn thấy thì phù hộ

Ngửi thấy thì phù hộ

Ăn rồi thì phù hộ

Nhà tôi tỉnh này huyện này thôn này

Trước mặt là núi Đầu Lợn sau lưng là sông Dã Mã

Nhà có nam này nữ này già này trẻ này

Có tai đang đọa có họa đang đày

Hôm nay xin tổ tông linh hiển

Chỉ bảo bến mê

Có tai trừ tai có họa trừ họa

Thầy phía tây đi ra

Thần phía đông đi ra

Thần phía nam đi ra

Thần phía bắc đi ra

Hồn phách tổ tiên từ phía tây đến

Hồn phách tổ tiên từ phía đông đến

Hồn phách tổ tiên từ phía nam đến

Hồn phách tổ tiên từ phía bắc đến

Mọi người đừng có ngăn…

Giọng nói khàn đặc của bố anh ở bên tai vọng lại, anh đập cái hòm gỗ theo những tiết tấu ca từ đó trong đầu. Anh liên tục lắc đầu. Chính lúc này, anh linh hoạt hẳn lên.

Buổi tối, Thanh Quả xách một cái túi vải bố, đến nhà Mã Vạn Lương. Anh ta không dám gõ cửa to, như thể đang gõ cửa nhà một người xa lạ. Người trong nhà không nghe thấy. Anh lại gõ thêm mấy lần nữa.

Mã Thọ nghe thấy. Nói: “Mẹ, có người gõ cửa”.

Lưu Nhất Mai ra mở cửa. Nhìn thấy Thanh Quả, chị vui mừng rạng rỡ. Nói: “Thanh Quả, tôi biết anh sẽ đến mà”.

Thanh Quả không đáp lời, cúi đầu đi vào.

Mã Vạn Lương nằm trên chiếc ghế dài, mặt đen sạm. Thanh Quả đến anh cũng chẳng vui lên. Thanh Quả đến trước bàn thần, ngồi xuống, lấy kinh thư ra đặt trên đất, mở bức tranh thần ra, treo trên một góc bàn thần. Nhìn thấy bức tranh thần đó giống với Mậu Lâm, Mã Vạn Lương từ ngồi dậy khỏi chiếc ghế dài, anh nhớ lại rất nhiều năm trước Thanh Quả nhờ anh giúp, khi gọi hồn Mậu Lâm, cũng là bức tranh này, điều không giống là bức tranh khi đó rất mới, người được vẽ chỉ hơi giống Mậu Lâm, còn bức tranh này rất cũ, thật kỳ lạ, tranh càng cũ, người trong tranh càng giống Mậu Lâm. Bức tranh này bây giờ như bị hun khói vậy, năm đó Mậu Lâm cũng giống như bị hun khói, bao nhiêu năm qua rồi, bộ dạng người trong tranh này, cuối cùng cũng đuổi kịp được Mậu Lâm. Mậu Lâm đang nhìn cả nhà anh đấy.

Mã Vạn Lương nói: “Đáng tiếc, nếu như ông ấy còn, có thể sẽ không xảy ra nhiều chuyện như vậy. Ông ta hỏi hồn rất chuẩn”. Nói rồi lắc đầu.

Lưu Nhất Mai cảm thấy Mã Vạn Lương nói như vậy trước mặt Thanh Quả không hay cho lắm, tuy rằng Mậu Lâm là bố của Thanh Quả, nhưng có thể xem là cùng hội cùng thuyền, cùng hội cùng thuyền thì thân thiết, anh lắc đầu nói Mậu Lâm hỏi rất chuẩn, có nghĩa là dường như đang nói Thanh Quả chưa chắc hỏi chuẩn như bố anh ta, Thanh Quả nghe được, chắc chắn trong lòng không vui. Lưu Nhất Mai vội nói: “Em tin rằng Thanh Quả cũng giống như bố anh ấy, làm việc đâu ra đấy. Phải không Thanh Quả?”

Thanh Quả cười gượng, cúi đầu bận rộn với công việc của mình.

Mấy đứa trẻ không biết Thanh Quả đến nhà mình làm gì, vô duyên vô cớ treo bức tranh khó coi trên bàn, chúng chưa bao giờ nhìn thấy một bức tranh nào khó coi như vậy, tường nhà chúng cũng treo mấy bức tranh, nếu không phải là mặt trời thì cũng là mặt trăng, nếu như là người thì cũng phải đoan chính, tươi cười, bức tranh thế này khiến chúng cảm thấy có chút sợ hãi.

Mã Thọ nói: “Người trong tranh có phải là quỷ không?”

Lưu Nhất Mai nói: “Không được nói linh tinh, người trong tranh là thần tiên, sẽ phù hộ che chở cho chúng ta”.

Mã Tiến nói: “Nhìn bộ dạng ốm o của ông ta thế này mà bảo vệ chúng ta, con sắp bị ông ta dọa chết khiếp rồi. Mau hạ xuống, thiến gà thì thiến gà, treo tranh này ở đây làm gì?” Nó không biết Thanh Quả đến nhà nó làm gì. Thanh Quả biết thiến gà, nó tưởng rằng Thanh Quả nhân lúc trời tối, mấy con gà trống nhà nó buồn ngủ thì thiến chúng.

Lưu Nhất Mai nói: “Không hiểu thì đừng nói linh tinh, Thanh Quả đến giúp chúng ta hỏi chuyện tổ tiên, rốt cuộc chúng ta phạm đến thần phương nào, gần đây suốt ngày có chuyện.”

Mã Tiến nói: “Thanh Quả, trước đây không nghe nói ông biết cái này, làm sao nói biết là biết. Không ngờ ông còn có tài năng này, chẳng trách mẹ tôi mua đầu lợn. Hóa ra là chuẩn bị cho ông”.

Lưu Nhất Mai nói: “Mã Tiến, con không được nói linh tinh, mau đi giết gà đi. Thanh Quả cần làm xong việc trước khi trời sáng”.

Mã Vạn Lương nói: “Thanh Quả, trông chờ cả vào ông đấy”.

Lúc này chính là lúc Thanh Quả thường lên giường đi ngủ, anh ta có chút buồn ngủ, hơi rũ đầu một chút, sau đó lại ngẩng đầu lên mạnh mẽ, ngẩng lên mạnh quá, đốt sống cổ kêu răng rắc. Bị Mã Tiến, Mã Vạn Lương, Lưu Nhất Mai nghe thấy, Mã Tiến cười ha ha thành tiếng, bị Lưu Nhất Mai vỗ một cái cũng không ngừng lại được, thậm chí còn cười to hơn, tiếng cười đầy vẻ thiếu tin tưởng Thanh Quả. Thanh Quả không tức giận, chỉ xoa xoa đầu, liếc họ một cái như thể làm sai việc gì, cúi đầu rồi lại đi bày biện kinh thư trong tay. Lưu Nhất Mai trải một chiếc chiếu trên đất cho Thanh Quả. Nói: “Thanh Quả, anh hãy nghỉ ngơi trước, sau khi chuẩn bị xong tôi lại gọi anh”.

Thanh Quả cũng không từ chối, không cởi giày mà nằm ngã xuống trước tranh thần, chẳng bao lâu tiếng ngáy đã vang dậy.

Mã Vạn Lương nói: “Ôi dào, giống như lợn ấy”.

Lưu Nhất Mai liếc anh ta một cái, nói: “Không được nói Thanh Quả như vậy”.

Sau mấy chục phút, đầu lợn và gà trống đã luộc chín, được cung trước tranh thần, bốc hơi nghi ngút. Tranh thần hít hơi nước, có chút ủ rũ.

Lưu Nhất Mai nói: “Đừng đặt gần quá, còn phải để chỗ thắp hương và đốt nến.” Mã Tiến liền kéo đầu lợn và gà trống ra. Lưu Nhất Mai nói: “Đừng kéo xa quá, kéo xa quá thần tiên không với tới được.”

Sau khi chuẩn bị xong, Lưu Nhất Mai đi lay Thanh Quả, “Thanh Quả, dậy thắp hương.”

Thanh Quả ngồi dậy, đi đến bên bể nước, lấy gàu múc nước, dùng ngón tay chấm một cái, đi lau mí mắt. Đứng trước bể nước, anh vẫn là Thanh Quả vô dụng như trước đây, chờ sau khi đi đến trước thần tiên, anh ta sẽ trở thành bậc thầy gọi hồn của trấn Dã Mã.

Quả nhiên, Thanh Quả sau khi lấy nước bôi lên mắt, huýt ra một hơi dài, rồi vừa đi vừa hát:

Thần phía tây đi ra

Thần phía đông đi ra

Thần phía nam đi ra

Thần phía bắc đi ra

Thần phía tây đi ra

Thần phía đông đi ra

Thần phía nam đi ra

Thần phía bắc đi ra

…

Thanh Quả vừa hát vừa đi đến trước tranh thần, ngồi xuống, quẹt một que diêm, châm đèn dầu lên, sau đó lấy một nắm hương châm trên đèn. Khói nhẹ từ đạm trở nên nồng, trong phòng mù mịt. Mã Vạn Lương ho. Anh ta bị viêm họng mãn tính, cứ ngửi thấy mùi kích thích là ho. Anh ôm lấy ngực, giống như một người bệnh. Lưu Nhất Mai không để ý đến anh ta, chị phải chờ hương trong tay Thanh Quả. Chị phải cắm chỗ hương đó vào trước nhà sau nhà, trên bếp và trong chuồng lợn. Đương nhiên, quan trọng nhất là cắm trước mặt tranh thần, bức tranh thần có diện mạo giống như Mậu Lâm này, bây giờ trở thành một tổ tông nào đó trong nhà Mã Vạn Lương, chờ khi kinh văn được chính thức hát lên từ miệng Thanh Quả, anh ta sẽ nhập làm một với linh hồn sắp bay đến.

Hương quá ẩm, phải châm rất lâu hương mới cháy, khiến Thanh Quả chảy nước mắt. Khi Lưu Nhất Mai đi cắm hương. Thanh Quả mới nghĩ đến còn phải có một người nữa giúp anh ta gõ nhạc. Anh không gọi Mã Vạn Lương, bởi vì hôm nay chủ yếu hỏi việc của anh ta, nhà anh ta có rất nhiều người có thể gọi, ví dụ như Mã Tiến, anh nói với Mã Tiến: “Cháu đến giúp bác cái này, gõ như thế này.” Anh ta gõ mấy cái theo tiết tấu trên vung nồi nhà Mã Vạn Lương. Mã Tiến cảm thấy rất thú vị, liền cầm lấy gậy. Thanh Quả nghĩ, chỉ cần hôm nay gọi hồn thành công, ngày mai anh sẽ đi tìm thợ rèn Lao Gia Quốc đánh một cái nắp đồng.

Chuẩn bị sắp xếp xong, bắt đầu gọi hồn.

Thanh Quả nhảy lên mấy cái ở nhà Mã Vạn Lương. Vừa hát vừa nhảy. Động tác của anh ta trông rất ngốc, miệng cũng không linh hoạt, hát một lúc lại phải nhìn kinh văn trong tay, không bằng ngay cả đồ đệ Bạch Tùng trước kia của cha anh ta, Bạch Tùng thuộc làu kinh văn, chỉ là động tác làm không đủ tốt, Thanh Quả bây giờ không chỉ không thuộc kinh văn, mà động tác cũng không phù hợp với yêu cầu gọi hồn, biểu hiện như vậy đừng nói tổ tông nhà Mã Vạn Lương, mà ngay cả một con quỷ hoang cũng chẳng thèm mò đến. Nhưng mấy đứa trẻ lại rất vui, chúng cười rúc rích, nếu không phải Lưu Nhất Mai ngăn lại, chúng có thể phá lên cười thoải mái, buổi tối hôm nay, chúng được xem một vở kịch diễn hỏng có một không hai, không có gì buồn cười hơn một vở kịch diễn hỏng. Nhịp gõ của Mã Tiến luôn không theo kịp tiết tấu của Thanh Quả, điều này không trách nó, ai bảo Thanh Quả chốc chốc lại dừng lại, làm cho nó không biết gõ thế nào mới phải. Thanh Quả rất lo lắng, nghĩ phải làm thế nào mới tốt. Càng nghĩ càng thấy gay go, cuối cùng liền nhìn từng chữ từng chữ cuốn kinh văn mà vẫn không biết nên hát thế nào mới phải, âm luật gọi hồn trong đầu anh ta đã biến mất hoàn toàn. Đầu anh là một vùng trống rỗng.

Lưu Nhất Mai nói: “Thanh Quả, đừng lo lắng, anh bình tĩnh nghĩ. Nghĩ ra rồi làm lại, chúng tôi có hương và nến, chỉ cần hương không tắt, hỏi đến khi nào cũng được.”

Lưu Nhất Mai không nói như vậy thì tốt hơn, sau khi nói như vậy, Thanh Quả liền cảm thấy mình không được nữa. Trước khi đến anh tưởng rằng mình có thể, bây giờ cảm thấy mình không thể. Anh ta không nói gì, đột nhiên đi ra cửa, khiến người nhà Mã Vạn Lương đều há miệng trợn mắt ngây ra. Thanh Quả để lại bãi chiến trường gọi hồn, mặt nhợt nhạt bước ra khỏi nhà Mã Vạn Lương.

Sau lưng anh ta là hương nến đang bùng bùng và bức tranh thần cực giống với bố anh ta.

Trở về nhà, đóng cửa lại, anh ta hức lên một tiếng rồi bật khóc. Ngồi xuống đất, anh gào “bố ơi, bố ơi!”. Hai tay đập xuống đất. Nước mắt rớt xuống chân.

Vợ Khâu Đại Muội của anh nhìn thấy, vội vã chạy lại. Đang muốn nổi giận, nhưng thấy Thanh Quả khóc thương tâm như vậy, trong lòng chị liền bớt giận. Không kể bớt giận, mà còn cảm thấy chồng mình rất đáng thương, liền đi tới ôm lấy đầu anh.

Thanh Quả vẫn đang gọi: “Bố ơi”. Gọi rất thê lương, Khâu Đại Muội cũng khóc theo.

Khâu Đại Muội nói: “Đừng lo, đừng lo, anh còn biết thiến gà mà.”

Tiếng khóc của Thanh Quả liền hạ bớt.

Từ đó về sau, không có ai ở trấn Dã Mã nghĩ tới việc gọi hồn thần kỳ này nữa. Thanh Quả bày một sạp hàng nhỏ bên hàng gà, chuyên thiến gà, ba xu một con. Những con gà bị thiến, ông đem về nhà, nướng ăn, hầm ăn, ăn đến mặt mũi hồng hào, người đầy sức sống.