E
mma lao vào thư phòng, trên tay cầm một lá thư. Vì cô hiếm khi quấy rầy Harry khi anh đang sáng tác, nên anh biết chuyện này hẳn phải quan trọng. Anh đặt bút xuống.
“Xin lỗi, anh yêu,” cô nói trong khi kéo một cái ghế lại gần, “nhưng em vừa nhận được một tin quan trọng mà em thấy cần tới chia sẻ với anh ngay.”
Harry mỉm cười với người phụ nữ anh tôn thờ. Quan niệm của cô về quan trọng có thể trải rộng từ việc bé Seb(1) đổ nước lên con mèo cho tới việc văn phòng Đại chưởng ấn gọi tới, và họ muốn nói chuyện gấp với anh. Anh ngả lưng tựa vào ghế và đợi xem lần này tin tức sẽ rơi vào loại nào.
(1) Sebastian, con trai Harry.
“Em vừa nhận được một lá thư của bà trẻ Phyllis,” cô nói.
“Người tất cả chúng ta đều kính nể,” Harry đùa.
“Đừng có giễu cợt, cậu nhóc,” Emma nói. “Bà nêu ra một điểm rất có thể sẽ giúp chúng ta chứng minh rằng bố em không phải là bố anh.”
Harry không còn đùa nữa.
“Chúng ta đều biết nhóm máu của anh và mẹ anh đều là Rh âm tính,” Emma nói tiếp. “Nếu bố em có nhóm máu Rh dương tính, ông ấy không thể là bố của anh.”
“Chúng ta từng bàn về chuyện này rất nhiều lần rồi,” Harry nhắc cô.
“Nhưng nếu chúng mình có thể chứng minh nhóm máu của bố em không giống của anh, chúng mình có thể làm đám cưới. Tất nhiên là nếu anh vẫn còn muốn cưới em.”
“Sáng nay thì không, em yêu,” Harry nói, làm bộ buồn chán. ”Em thấy đấy, anh đang chuẩn bị gây ra một vụ án mạng.” Anh mỉm cười. “Mà dù gì thì chúng ta cũng không thể biết bố em thuộc nhóm máu nào, vì bất chấp áp lực đáng kể từ mẹ em và Sir Walter, ông ấy vẫn luôn từ chối xét nghiệm. Vì thế có lẽ em sẽ phải viết thư cho bà trẻ, giải thích rằng điều đó sẽ vẫn là một bí ẩn.”
“Không nhất thiết,” Emma nói, không chịu bỏ cuộc. “Vì bà trẻ Phyllis đã theo dõi vụ tranh chấp rất sát sao, và bà nghĩ có thể bà đã tìm ra một giải pháp chưa ai trong chúng ta từng nghĩ đến.”
“Sáng nào bà cũng mua một tờ Bristol Evening News từ sạp báo góc đường sáu mươi tư, đúng vậy không?”
“Không, nhưng bà có đọc The Times,” Emma nói, vẫn không sờn lòng, “cho dù bị chậm mất một tuần.”
“Và?” Harry nói, nóng lòng muốn quay lại với vụ án mạng của anh.
“Bà nói hiện tại các nhà khoa học đã có thể xác định nhóm máu một người rất lâu sau khi người đó đã chết.”
“Em đang nghĩ đến chuyện thuê Burke và Hare khai quật tử thi lên đúng không em yêu?”
“Không, em không định làm thế,” Emma nói, “nhưng bà cũng chỉ ra rằng khi bố em bị giết có một động mạch bị cắt đứt, vì thế chắc chắn một lượng máu lớn đã phun ra thảm và quần áo ông ấy mặc lúc đó.”
Harry đứng dậy, bước qua sang phía bên kia phòng và nhấc điện thoại lên.
“Anh đang gọi ai vậy?” Emma hỏi.
“Thám tử chánh thanh tra Blakemore, người phụ trách cuộc điều tra. Có thể chúng ta không tìm được gì, nhưng anh xin thề anh sẽ không bao giờ giễu cợt em hay bà trẻ Phyllis của em nữa.”
-o-
“Ngài không phiền nếu tôi hút thuốc chứ, Sir Harry?”
“Không hề, thưa chánh thanh tra.”
Blakemore châm một điếu thuốc và rít một hơi thật sâu. “Một thói quen thật tệ hại,” ông này nói. ”Và tôi quy trách nhiệm này cho Sir Walter.”
“Sir Walter ư?” Harry hỏi.
“Raleigh(1), không phải Barrington, ngài biết đấy.”
(1) Sir Walter Raleigh (1554 - 1618): nhà thám hiểm, triều thần Anh, người đã phổ biến thói quen hút thuốc vào nước Anh.
Harry bật cười trong khi anh ngồi xuống chiếc ghế đối diện với vị thám tử.
“Vậy tôi có thể giúp gì cho ngài đây, Sir Harry?”
“Tôi thích được gọi là ông Clifton hơn.”
“Như ngài muốn thôi, thưa ngài.”
“Tôi hy vọng ông có thể cung cấp cho tôi một số thông tin liên quan tới cái chết của Hugo Barrington.”
“Tôi e rằng điều đó sẽ phụ thuộc vào việc tôi đang nói chuyện với ai, vì tôi có thể trao đổi chuyện đó với Sir Harry Barrington, nhưng với ông Harry Clifton thì không.”
“Tại sao với ông Clifton lại không được?”
“Vì tôi chỉ trao đổi các chi tiết của một vụ án như thế này với một thành viên trong gia đình.”
“Vậy thì lần này tôi sẽ trở thành Sir Harry.”
“Liệu tôi có thể giúp ngài như thế nào, Sir Harry?”
“Khi Barrington bị sát hại…”
“Ông ta không bị sát hại,” người chánh thanh tra nói.
“Nhưng những gì được đăng trên báo đã làm tôi tin rằng…”
“Đó là vì những gì báo chí đăng lại không phải những tình tiết quan trọng. Nhưng nói cho công bằng, họ đã không được nghiên cứu hiện trường vụ án. Nếu họ có cơ hội làm điều đó,” Blakemore nói trước khi Harry kịp đưa ra câu hỏi tiếp theo, “hẳn họ đã phát hiện ra góc độ con dao mở bì thư đâm vào cổ Sir Hugo và cắt đứt động mạnh của ông ta.”
“Sao điều đó lại quan trọng vậy?”
“Khi tôi khám nghiệm thi thể, tôi nhận thấy mũi con dao đang chĩa lên trên chứ không phải xuống dưới. Nếu tôi muốn sát hại ai đó,” Blakemore nói tiếp, đứng dậy và cầm một cái thước kẻ lên, “và tôi lại cao hơn và nặng hơn kẻ đó, tôi sẽ vung tay lên và đâm thẳng xuống cổ hắn, như thế này. Nhưng nếu tôi thấp nhỏ và nhẹ cân hơn hắn, và quan trọng hơn, nếu tôi đang tự vệ,” - Blakemore quỳ gối xuống trước mặt Harry và ngước lên nhìn anh, chĩa thước kẻ về phía cổ anh - “điều đó sẽ giải thích cho góc độ lưỡi dao đâm vào cổ Sir Hugo. Từ góc độ đó, thậm chí còn có thể là ông ta đã ngã xuống lưỡi dao, điều này đưa tôi tới kết luận là nhiều khả năng ông ta bị giết vì một hành động tự vệ hơn là bị sát hại.”
Harry suy nghĩ về những lời nói của ông chánh thanh tra trước khi anh lên tiếng, “Ông có nói đến các từ “thấp nhỏ và nhẹ cân hơn”, ông chánh thanh tra, và “tự vệ”. Có phải ông cho rằng có thể một phụ nữ đã gây ra cái chết của Barrington?”
“Ngài có thể trở thành một thám tử thứ thiệt,” Blakemore nói.
“Và ông biết người phụ nữ đó là ai?” Harry hỏi.
“Tôi có nghi vấn của mình,” Blakemore thừa nhận.
“Vậy tại sao ông không bắt giữ cô ta?”
“Vì thật khó bắt được ai đó đã gieo mình xuống trước đoàn tàu tốc hành London.”
“Ôi Chúa ơi,” Harry thốt lên. “Tôi chưa bao giờ nghĩ tới bất cứ mối liên hệ nào giữa hai sự kiện đó.”
“Sao ngài lại phải nghĩ thế chứ? Thậm chí lúc đó ngài còn không có mặt tại Anh.”
“Đúng thế, nhưng sau khi được ra viện, tôi đã đọc đi đọc lại tất cả những tờ báo có nhắc đến cái chết của Sir Hugo. Ông có tìm ra danh tính người phụ nữ đó không?”
“Không, thi thể đó ở tình trạng không thể nhận diện được nữa. Tuy vậy, một đồng nghiệp của tôi ở Scotland Yard đang điều tra một vụ án khác vào cùng thời gian đó có cho tôi biết Sir Hugo từng sống cùng với một phụ nữ ở London trong hơn một năm, và cô này đã sinh một bé gái không lâu sau khi ông ta quay về Bristol.”
“Có phải đó là đứa trẻ được tìm thấy trong phòng làm việc của Barrington không?”
“Chính là nó,” Blakemore nói.
“Và bây giờ đứa bé đó đang ở đâu?”
“Tôi không biết.”
“Ông có thể ít nhất cho tôi biết tên người phụ nữ mà Barrington từng sống cùng chứ?”
“Không, tôi không được quyền làm điều đó,” Blakemore nói, dụi điếu thuốc vào một cái gạt tàn đầy đầu mẩu. “Tuy nhiên, cũng không ai là không biết chuyện Sir Hugo thuê một thám tử tư, ông ta hiện đang thất nghiệp và có thể sẽ sẵn sàng mở miệng để đổi lấy một khoản tiền khiêm tốn.”
“Người đàn ông đi tập tễnh,” Harry nói.
“Derek Mitchell, một cảnh sát rất có năng lực, cho tới khi phải rời khỏi ngành vì thương tật.”
“Nhưng có một câu hỏi Mitchell sẽ không thể trả lời, trong khi tôi nghĩ ông có thể. Ông nói con dao mở bì thư đã cắt đứt động mạch, vậy thì hẳn phải có rất nhiều máu chảy ra?”
“Đúng vậy, thưa ngài,” ông chánh thanh tra đáp. “Khi tôi đến nơi, Sir Hugo đang nằm giữa một vũng máu.”
“Ông có biết điều gì đã xảy đến với quần áo Sir Hugo mặc lúc đó, hay với tấm thảm không?”
“Không, thưa ngài. Sau khi một cuộc điều tra án mạng khép lại, tất cả tư trang của người quá cố sẽ được trả lại cho thân nhân. Còn về phần tấm thảm, nó vẫn ở trong phòng làm việc khi tôi kết thúc cuộc điều tra của mình.”
“Tất cả những thông tin này rất hữu ích, thưa chánh thanh tra. Tôi rất biết ơn ông.”
“Tôi rất hân hạnh, Sir Harry.” Blakemore đứng dậy tiễn Harry tới tận cửa. “Cho phép tôi được nói với ngài tôi rất thích Nhật ký một tù nhân, và cho dù bình thường tôi không mấy để tâm tới tin đồn, tôi được biết có thể ngài đang viết một tiểu thuyết trinh thám. Sau cuộc trò chuyện giữa hai chúng ta hôm nay, tôi sẽ rất trông đợi được đọc nó.”
“Ông có muốn xem qua bản thảo sơ bộ và cho tôi ý kiến của một người chuyên nghiệp không?”
“Trong quá khứ, Sir Harry, gia đình ngài đã không mấy bận tâm tới quan điểm chuyên môn của tôi.”
“Xin cho phép tôi cam đoan với ông, thưa chánh thanh tra, riêng ông Clifton thì có đấy,” Harry đáp.
-o-
Từ đồn cảnh sát ra về, Harry lái xe tới Manor House để báo tin cho Emma. Emma chăm chú lắng nghe, và khi anh kể xong, cô làm anh ngạc nhiên với câu hỏi đầu tiên của mình.
“Thanh tra Blakemore có cho anh biết bé gái sau đó như thế nào không?”
“Không, ông ấy dường như không mấy quan tâm, và thực ra tại sao ông ấy lại phải quan tâm chứ?”
“Vì cô bé nhiều khả năng mang trong mình dòng máu Barrington, và như thế cũng có nghĩa cô bé là em cùng bố khác mẹ với em!”
“Anh thật vô ý làm sao,” Harry thốt lên, ôm lấy Emma trong vòng tay. “Anh chưa bao giờ nghĩ tới điều này.”
“Sao anh lại phải nghĩ tới chuyện đó chứ?” Emma hỏi. “Anh đã có quá đủ để lo lắng rồi. Sao anh không gọi điện cho ông ngoại em hỏi xem ông có biết chuyện gì đã xảy đến với tấm thảm không, và để em lo chuyện cô bé.”
“Anh là một gã rất may mắn, em biết đấy,” Harry nói trong khi miễn cưỡng buông cô ra.
“Anh đi gọi cho ông đi,” Emma nói.
Khi Harry gọi điện thoại cho Lord Harvey để hỏi ông về tấm thảm, thêm một lần nữa anh lại phải ngạc nhiên.
“Ta đã thay tấm thảm mới chỉ vài ngày sau khi cảnh sát kết thúc cuộc điều tra.”
“Vậy tấm thảm cũ thì sao ạ?” Harry hỏi.
“Chính tay ta đã ném nó vào một trong những lò đốt ở khu bến tàu và nhìn nó cháy thành than,” Lord Harvey nói với không ít cảm xúc.
Harry chỉ muốn thốt lên “chết tiệt”, nhưng kịp kìm lại.
Khi anh tới dùng bữa trưa cùng Emma, Harry hỏi bà Barrington liệu bà có biết chuyện gì đã xảy đến với quần áo của Sir Hugo hay không. Elizabeth cho Harry biết bà đã hướng dẫn cảnh sát xử lý chúng theo bất cứ cách nào họ thấy phù hợp.
Sau bữa trưa, Harry quay về Barrington Hall và gọi tới đồn cảnh sát địa phương. Anh hỏi viên thượng sĩ trực ban xem anh này có nhớ được quần áo của Sir Hugo Barrington được xử lý thế nào sau khi cuộc điều tra khép lại không.
“Mọi thứ đều được ghi vào sổ lưu trữ tại thời điểm đó, Sir Harry. Nếu ngài cho tôi chút thời gian, tôi sẽ kiểm tra.”
Hóa ra cũng phải mất kha khá thời gian trước khi viên thượng sĩ quay lại đường dây. “Thời gian trôi nhanh quá,” anh ta nói. “Tôi đã quên mất vụ đó xảy ra đã được bao lâu. Nhưng tôi đã lần được những chi tiết ông muốn.” Harry nín thở. “Chúng tôi đã vứt áo sơ mi, đồ lót và tất đi, nhưng chúng tôi đã đem một chiếc áo khoác ngoài màu xám, một chiếc mũ phớt nâu, một bộ vét vải tuýt màu xanh lục pha vàng, và một đôi giày da nâu cho cô Penhaligon, người phân phát tất cả những món đồ vô thừa nhận nhân danh Sally Army(1). Cũng không phải người phụ nữ dễ tính nhất trên đời,” viên thượng sĩ nói thêm mà không giải thích gì hơn.
(1) Tên một tổ chức từ thiện.
-o-
Tấm biển trên quầy ghi dòng chữ “Cô Penhaligon.”
“Chuyện này thật không đúng quy cách, Sir Harry,” người phụ nữ đứng sau biển tên nói. “Rất không đúng.”
Harry lấy làm mừng vì anh đã đưa Emma đi cùng. “Nhưng điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với cả hai chúng tôi,” anh nói và nắm lấy tay Emma.
“Tôi không hề nghi ngờ điều đó, Sir Harry, nhưng dù sao cũng vẫn thật không đúng quy cách. Tôi không thể hình dung nổi cấp trên của tôi sẽ nhìn nhận chuyện này thế nào nữa.”
Harry không thể hình dung nổi cô Penhaligon lại có cấp trên. Bà ta quay lưng lại với hai người và bắt đầu xem xét một dãy những thùng đựng tài liệu xếp ngăn nắp trên một cái giá sạch như li như lau không một hạt bụi. Cuối cùng, bà ta lôi ra một cặp có đánh dấu 1943 và để lên mặt quầy. Bà ta mở cặp ra, và phải lật vài trang trước khi tìm được thứ cần tìm.
“Có vẻ như không có ai muốn cái mũ phớt nâu,” bà tuyên bố. “Trên thực tế, ghi chép của tôi cho thấy nó vẫn còn ở trong kho. Chiếc áo khoác được phân cho một ông Stephenson, bộ vét cho một người được gọi bằng cái tên Joey Già và đôi giày da nâu thuộc về một ông Watson.”
“Bà có biết chúng tôi có thể tìm được bất kỳ ai đó trong số họ ở đâu không?” Emma hỏi.
“Bọn họ hiếm khi tách rời nhau,” cô Penhaligon nói. “Vào mùa hè, họ không mấy khi đi quá xa khỏi công viên thành phố, còn vào mùa đông chúng tôi sắp xếp cho họ ở trong nhà từ thiện của chúng tôi. Tôi tin vào thời gian này hai vị sẽ tìm thấy họ trong công viên.”
“Cảm ơn cô Penhaligon,” Harry nói, dành cho bà ta một nụ cười ấm áp. “Cô thực sự vô cùng hữu ích.”
Cô Penhaligon tỏ ra hân hoan thấy rõ. “Là hân hạnh của tôi, Sir Harry.”
“Anh có thể quen với việc được gọi là Sir Harry đấy,” anh nói trong khi hai người bước ra khỏi tòa nhà.
“Không đâu, nếu anh vẫn hy vọng được cưới em,” cô nói, “vì em không hề muốn trở thành phu nhân Barrington.”
-o-
Harry phát hiện ra ông ta đang nằm trên một băng ghế, quay lưng về phía họ. Ông ta khoác trên người một chiếc áo khoác xám.
“Tôi xin lỗi phải làm phiền ông, ông Stephenson,” Harry nói và khẽ đập tay lên vai người đàn ông, “nhưng chúng tôi cần ông giúp đỡ.”
Một bàn tay cáu bẩn thò ra, nhưng ông ta không quay lại. Harry để một đồng nửa crown(1) lên lòng bàn tay chìa ra. Ông Stephenson cắn đồng xu trước khi ngóc đầu lên nhìn Harry chăm chú hơn. “Cậu muốn gì?” ông ta hỏi.
(1) Tương đương 1/8 bảng hay 30 penny.
“Chúng tôi đang tìm Joey Già,” Emma khẽ nói.
“Ông hạ sĩ giành được băng ghế số một, do tuổi tác và cấp bậc của ông ấy. Đây là băng ghế số hai, và tôi sẽ tiếp nhận băng ghế số một khi Joey Già chết, mà chuyện đó cũng không còn mấy chốc nữa. Ông Watson hiện đang có băng ghế số ba, như thế ông ta sẽ được tiếp nhận số hai khi tôi lên số một. Song tôi đã cảnh báo trước ông ta là sẽ phải đợi lâu đấy.”
“Và ông có tình cờ biết liệu Joey Già còn giữ một bộ vét vải tuýt màu xanh lục không?” Harry hỏi.
“Chưa bao giờ cởi nó ra,” ông Stephenson nói. “Có thể nói cứ như ông ta dính chặt vào nó vậy,” ông ta nói thêm kèm một cái tặc lưỡi khe khẽ. “Ông ấy được bộ vét, tôi được cái áo khoác và Watson được đôi giày. Ông ấy bảo chúng hơi chật một chút, song ông ấy cũng không phàn nàn. Không ai trong chúng tôi muốn cái mũ.”
“Vậy chúng tôi có thể tìm thấy băng ghế số một ở đâu?” Emma hỏi.
“Nơi nó vẫn luôn ở đó, ở chỗ bục sân khấu ấy, dưới mái che. Joey gọi đó là cung điện của ông ấy. Nhưng đầu óc ông ấy có phần hơi mụ mị vì ông ấy vẫn bị hành hạ bởi cú sốc do sức ép của trái phá.” Ông Stephenson quay lưng lại với họ, coi như đã trả công xong đồng nửa crown.
Harry và Emma chẳng mấy khó khăn để tìm được chỗ bục sân khấu, hay Joey Già, trên thực tế là cư dân duy nhất ở chỗ đó. Ông lão đang ngồi thẳng lưng giữa băng ghế số một như thể ngự trên một ngai vàng. Emma không cần phải nhìn thấy những vết ố màu nâu đã phai để nhận ra bộ vét cũ bằng vải tuýt của bố cô, nhưng làm cách nào họ có thể khiến ông lão chia tay với nó được đây, cô thầm tự nhủ.
“Các vị muốn gì?” Joey Già hỏi đầy ngờ vực khi hai người bước lên các bậc cấp tiến vào vương quốc của ông ta. “Nếu hai vị muốn băng ghế của tôi, thì có thể quên đi, vì quyền sở hữu là chín phần mười pháp luật, như tôi vẫn nhắc nhở ông Stephenson.”
“Không,” Emma dịu dàng nói, “chúng cháu không muốn băng ghế của cụ, Joey Già, nhưng chúng cháu muốn biết liệu cụ có thích có một bộ vét mới không.”
“Không, cảm ơn tiểu thư, tôi rất hạnh phúc với thứ tôi đang có. Nó giữ tôi ấm, vì thế tôi không cần bộ nào khác nữa.”
“Nhưng chúng cháu sẽ tặng cụ một bộ cũng ấm như thế,” Harry nói.
“Joey Già không làm gì sai hết,” ông lão nói, quay lại đối diện với Harry.
Harry tròn mắt nhìn dãy huân chương trên ngực ông lão: Ngôi Sao 1914(1), huân chương thâm niên phục vụ và Huân chương Chiến thắng, cùng một vạch cấp bậc duy nhất được khâu lên tay áo ông. ”Tôi cần sự giúp đỡ của ông, hạ sĩ.”
(1) Huân chương dành cho binh sĩ Anh tham gia chiến dịch 1914 trong Thế chiến thứ nhất.
Joey Già bật dậy đứng nghiêm, giơ tay chào và nói, “Đã lắp lê xong, thưa ngài, chỉ cần ra lệnh là các chàng trai sẵn sàng xong lên.”
Harry cảm thấy xấu hổ.
Hôm sau, Emma và Harry quay lại với một chiếc áo khoác hoạ tiết xương cá, một bộ vét bằng vải tuýt mới và một đôi giày cho Joey Già. Ông Stephenson dạo quanh công viên trong chiếc áo khoác mới của mình cùng cái quần vải flannel xám, trong khi ông Watson, chủ nhân băng ghế số ba, hân hoan trong chiếc áo vét thể thao cài khuy chéo và quần cưỡi ngựa, nhưng vì không cần đến một đôi giày nữa, ông ta đề nghị Emma đưa giày cho ông Stephenson. Cô trao toàn bộ phần còn lại tủ quần áo của Sir Hugo cho cô Penhaligon, người đón nhận chúng với lòng biết ơn.
Harry rời khỏi công viên mang theo bộ vét vải tuýt màu xanh lục pha vàng có dính máu của Sir Hugo Barrington.
-o-
Giáo sư Inchcape quan sát vết máu dưới kính hiển vi một hồi lâu trước khi đưa ra một nhận định.
“Tôi cần tiến hành thêm một vài xét nghiệm nữa trước khi đưa ra đánh giá cuối cùng, nhưng qua kiểm tra sơ bộ, tôi cảm thấy tương đối tự tin là tôi sẽ có thể cho các vị biết mẫu máu này thuộc về nhóm máu nào.”
“Thật nhẹ lòng,” Harry nói. “Nhưng sẽ mất bao lâu trước khi ông biết được kết quả?”
“Tôi đoán là hai ngày,” ông giáo sư nói, “nhiều nhất là ba. Tôi sẽ gọi điện cho ngài ngay khi tôi tìm ra, Sir Harry.”
“Hãy hy vọng là ông sẽ phải gọi điện đến cho ông Clifton.”
-o-
“Ta đã gọi điện đến văn phòng Đại chưởng ấn,” Lord Harvey nói, “và cho họ biết các xét nghiệm mẫu máu đang được tiến hành trên trang phục của Hugo. Nếu nhóm máu là Rh dương tính, ta tin chắc ông ấy sẽ yêu cầu Hội đồng Tư pháp xem xét lại phán quyết của họ tính đến bằng chứng mới này.”
“Nhưng nếu chúng ta không có được kết quả chúng ta hy vọng,” Harry nói, “thì sẽ thế nào ạ?”
“Ngài Đại chưởng ấn sẽ xếp lịch một phiên tranh tụng trên lịch làm việc của Nghị viện không lâu sau khi Thượng viện được triệu tập trở lại sau cuộc tổng tuyển cử. Nhưng hãy hy vọng những gì giáo sư Inchcape tìm thấy sẽ làm chuyện này không còn cần thiết nữa. Nhân tiện đây, Giles có biết cháu đang làm gì không?”
“Không, thưa ngài, nhưng vì chiều nay cháu sẽ gặp cậu ấy, cháu sẽ có cơ hội cập nhật cho Giles biết.”
“Đừng có nói với ta là nó đang thuyết phục cháu tham gia vận động tranh cử đấy nhé?”
“Cháu e là vậy, dù cậu ấy biết quá rõ cháu sẽ bỏ phiếu cho phe Tory(1) trong cuộc bầu cử. Nhưng cháu đã trấn an cậu ấy là cả mẹ cháu lẫn bác Stan sẽ ủng hộ cậu ấy.”
(1) Tức đảng Bảo thủ.
“Đừng để đám nhà báo đánh hơi được là cháu không định bỏ phiếu cho nó, vì bọn họ sẽ moi móc bất cứ cơ hội nào để đâm bị thóc chọc bị gạo. Việc cháu và nó là những người bạn thân không hề có trong lịch phát hành của bọn họ.”
“Thêm một lý do nữa để hy vọng ông giáo sư tìm thấy kết quả mong muốn và tất cả chúng ta thoát được khỏi tình cảnh khó xử hiện tại.”
“Cầu Chúa được như vậy,” Lord Harvey nói.
-o-
William Warwick sắp sửa tìm ra lời giải cho vụ án thì điện thoại đổ chuông. Harry vẫn còn đang lăm lăm súng trong tay khi anh bước qua thư viện tới nhấc điện thoại lên.
“Tôi là giáo sư Inchcape. Tôi có thể trao đổi vài lời với Sir Harry được không?”
Hư cấu bị thay thế bởi thực tại trong một khoảnh khắc tàn nhẫn. Harry không cần được thông báo để biết kết quả xét nghiệm máu. “Mời ông cứ nói,” anh nói.
“Tôi e rằng tin tôi báo không phải là điều ngài hy vọng,” giáo sư nói. “Nhóm máu của Sir Hugo cũng là Rh âm tính, vì thế khả năng ông ấy là bố ngài không thể được loại trừ dựa trên kết quả này.”
Harry gọi điện tới Ashcombe Hall.
“Harvey đây,”giọng nói quá quen thuộc với anh vang lên.
“Cháu Harry đây, thưa ông. Cháu sợ rằng ông sẽ phải gọi điện cho Đại thần Tư pháp để báo với ông ấy rằng cuộc tranh tụng sẽ được tiến hành.”