Trong những năm gần đây, đã có nhiều báo cáo cho thấy sự gia tăng của việc công chúng mất kiên nhẫn với lĩnh vực tâm thần học (nghiên cứu và điều trị các bệnh tâm thần), với hiệu quả điều trị có vẻ kém lâu bền của nó, với chi phí đắt đỏ, các kết quả gây tranh cãi và với các thuật ngữ mơ hồ, bí hiểm của lĩnh vực này. Đối với nhiều người, ngành tâm thần học giống như một người mù ở trong căn phòng tối, lùng sục một con mèo đen vốn không có mặt ở đó. Các tạp chí và các hiệp hội về sức khỏe tâm thần nói rằng trị liệu tâm thần là một điều hữu ích, nhưng nó thực chất là gì hoặc nó thực hiện những việc gì thì chưa hề được làm rõ. Mặc dù hằng năm đều có hàng trăm ngàn kiểu chữ nghĩa về tâm thần học được công chúng ngấu nghiến, song có rất ít dữ kiện có sức thuyết phục để một người đang có nhu cầu được điều trị vượt qua được bức biếm họa về các bác sĩ tâm thần cùng những chiếc trường kỷ huyền bí của họ.
Sự mất kiên nhẫn được thể hiện qua việc gia tăng những quan ngại không chỉ ở các bệnh nhân và công chúng nói chung, mà còn ở chính các bác sĩ tâm thần. Tôi là một trong các bác sĩ tâm thần đó!
Quyển sách này là sản phẩm của một cuộc nghiên cứu nhằm tìm ra câu trả lời cho những ai đang tìm kiếm những dữ kiện khó nhằn trong việc giải đáp câu hỏi tâm trí vận hành như thế nào, tại sao chúng ta làm điều chúng ta làm và làm thế nào chúng ta có thể ngưng làm điều ta đang làm, nếu muốn. Đáp án được dựa trên điều mà tôi cảm nhận sẽ là một trong những đột phá đầy hứa hẹn của ngành tâm thần học trong nhiều năm tới. Nó được gọi là Thuyết Phân tích Tương giao (Transactional Analysis). Học thuyết này trao hy vọng cho những ai đã nản lòng với những mơ hồ, huyền hoặc của các phương thức trị liệu tâm lý truyền thống. Nó mang đến một đáp án mới cho những ai muốn thay đổi chứ không phải muốn thích nghi, cho những ai muốn sự chuyển hóa chứ không phải sự thích ứng. Nó thực tế ở chỗ trình bày trước bệnh nhân sự thật rằng anh ta phải chịu trách nhiệm với mọi thứ xảy ra với bản thân trong tương lai, bất kể điều gì đã xảy ra với anh ta trong quá khứ. Hơn thế nữa, nó cho phép các cá nhân thay đổi, thiết lập sự tự kiểm soát, tự định hướng và khám phá được thực tế về tự do lựa chọn.
Đối với sự phát triển của phương pháp này, chúng tôi rất biết ơn bác sĩ Eric Berne, người mà trong quá trình phát triển khái niệm Phân tích Tương giao đã tạo ra một hệ thống hợp nhất tâm thần học cá nhân và xã hội, một hệ thống vừa toàn diện ở cấp độ lý thuyết vừa hiệu quả ở cấp độ ứng dụng. Được nghiên cứu, học hỏi từ Berne trong mười năm qua và được góp mặt trong những buổi thảo luận tại hội thảo cấp cao ở San Francisco do ông tổ chức là một đặc ân đối với tôi.
Lần đầu tôi biết tới phương pháp điều trị mới của Berne là thông qua một bài luận mà ông trình bày tại Hội nghị miền Tây của Hiệp hội Tâm lý Trị liệu nhóm tại Los Angeles vào tháng Mười một năm 1957. Bài luận nhan đề “Phân tích Tương giao: Một phương pháp tân tiến và hiệu quả cho trị liệu theo nhóm”. Tôi đã bị thuyết phục rằng đây không phải “chỉ là một bài luận”, mà là một bản thiết kế chi tiết về tâm trí con người, điều mà trước giờ chưa có ai xây dựng, được trình bày bằng một nguồn từ vựng chính xác mà ai cũng có thể hiểu được để nhận diện từng phần của bản thiết kế. Nguồn từ vựng này được chọn lựa để giúp ai cũng có thể thảo luận về các hành vi và biết chúng có ý nghĩa gì.
Một trở ngại của nhiều ngôn ngữ thuộc phân tâm học là chúng không có cùng một ý nghĩa với ý nghĩa thông thường được mọi người sử dụng. Chẳng hạn, từ Cái Tôi (ego) có nhiều ý nghĩa khác nhau với nhiều người khác nhau. Freud có một định nghĩa phức tạp hơn, như hầu hết các nhà phân tâm từ thời ông đều có; nhưng những giải thích phức tạp, dài dòng này không đặc biệt hữu ích đối với một bệnh nhân đang cố gắng hiểu tại sao anh ta chẳng bao giờ giữ nổi một công việc nào, đặc biệt là nếu một trong những vấn đề của anh ta là không có khả năng đọc đủ tốt để theo được các hướng dẫn. Thậm chí không có sự đồng thuận giữa các nhà lý luận về ý nghĩa của từ Cái Tôi. Những ý nghĩa mơ hồ và các lý thuyết phức tạp gây cản trở nhiều hơn là giúp ích cho tiến trình trị liệu. Herman Melville1 đã nhận xét rằng: “Một con người của khoa học đích thực rất ít sử dụng từ ngữ khó hiểu và chỉ sử dụng chúng trong trường hợp những từ ngữ khác không diễn đạt được ý của anh ta; trái lại những người có kiến thức khoa học nông cạn cho rằng bằng việc ra rả những từ ngữ khó hiểu nghĩa là anh ta hiểu được những điều phức tạp”. Từ vựng của thuyết Phân tích Tương giao là công cụ trị liệu đúng đắn bởi vì: bằng một kiểu ngôn ngữ mà ai cũng có thể hiểu được, nó nhận diện ra mọi thứ như chúng thật sự là, với thực tế về những trải nghiệm thật sự xảy ra, trong cuộc sống của những người thật sự tồn tại.
1 Herman Melville (1819 – 1891) là tiểu thuyết gia nổi tiếng người Mỹ.
Tương tự, về mặt phương pháp – vốn được đặc biệt xây dựng phù hợp với điều trị nhóm – cũng cho thấy sự khác biệt lớn giữa nhu cầu điều trị và những người được đào tạo để thực hiện công việc này. Trong suốt 25 năm qua, mà khởi đầu là những xúc cảm mãnh liệt đặc thù của những năm ngay sau Thế chiến thứ hai, sự phổ biến của ngành tâm thần học dường như đã tạo ra một sự kỳ vọng vượt quá khả năng mà chúng tôi có thể đáp ứng. Sự lan tỏa không ngừng của văn chương tâm lý, dù được in trong các tạp chí tâm thần học hay trên Reader’s Digest2, đã khiến sự kỳ vọng này tăng mỗi năm một nhiều hơn, mà khoảng cách giữa kỳ vọng ấy và khả năng chữa trị dường như ngày một nới rộng. Câu hỏi luôn được đặt ra là làm thế nào đưa được Freud “ra khỏi chiếc trường kỷ” để đến gần với công chúng.
2 Một tờ tạp chí nổi tiếng ở Mỹ, ra đời từ năm 1922.
Thách thức của ngành tâm thần học trong việc đáp ứng nhu cầu này được trình bày bởi Mike Gorman, Giám đốc điều hành của Ủy ban Phòng chống Bệnh Tâm thần Quốc gia, trong một cuộc họp thường niên của Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ tại New York, vào tháng Năm năm 1965:
Khi đã leo thang từ một nhóm nhỏ với khoảng 3.000 bác sĩ tâm thần vào năm 1945, lên thành một tổ chức chuyên môn lớn, với 14.000 thành viên vào năm 1965, chúng ta nhận được sự đòi hỏi ngày càng gắt gao là phải tham gia vào các vấn đề trọng yếu trong thời đại của mình. Ta không thể tiếp tục lẩn trốn trong sự bất an của văn phòng cá nhân, nơi được trang bị vừa khít một bộ trường kỷ bọc dày và một bức chân dung Freud đang đến thăm thành phố Worcester, Massachusetts vào năm 1909.
Tôi trân trọng đệ trình rằng lĩnh vực tâm thần học phải phát triển một ngôn ngữ “đại chúng”, được làm sạch những biệt ngữ mang tính kỹ thuật và phải phù hợp cho những thảo luận về các vấn đề phổ quát của xã hội chúng ta. Tôi thấy rõ đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, nó có nghĩa là phải thoát khỏi những từ ngữ quen thuộc, an toàn và được bảo vệ trong chuyên ngành này để điều chỉnh chúng thành cuộc hội thoại linh hoạt hơn của công luận. Với khó khăn mà nhiệm vụ mang lại, nó chỉ được hoàn thành nếu ngành tâm thần học được lắng nghe trong các cơ quan hành chính dân sự của đất nước.
Tôi lấy làm phấn khởi với những bài viết gần đây của một số những bác sĩ tâm thần trẻ tuổi, những người bày tỏ một sự miễn cưỡng lành mạnh trong việc dành nghề nghiệp trọn đời để điều trị cho mười đến hai mươi bệnh nhân trong một năm.
Bình luận của bác sĩ tâm thần Melvin Sabshin là một điển hình: “Một câu hỏi đơn giản là liệu ngành tâm thần học có thể đảm đương được những chức năng hay vai trò mới này bằng cách vận dụng các kỹ năng truyền thống, các phương pháp tiêu chuẩn và các phương thức thực hành hiện tại của nó hay không. Câu trả lời của riêng tôi là không thể. Tôi tin rằng những thứ đó không cung cấp một nền tảng tương xứng để thực hiện được các chức năng và thể thức mới”.
Ngành tâm thần học phải đối mặt với thực tế là nó không thể khởi đầu việc đáp ứng những đòi hỏi trợ giúp tâm lý và xã hội từ người nghèo, từ những học sinh yếu kém trong các trường học, từ những công nhân đang ngập tràn thất vọng, từ những cư dân mang nỗi ám ảnh bị bủa vây trong các thành phố đông đúc và từ vô tận các trường hợp khác nữa.
Nhiều nhà lãnh đạo suy nghĩ thấu đáo nhất của ngành này đang nghĩ nhiều đến vai trò mới mà tâm thần học phải đảm đương trong vài thập niên tới, không chỉ mở rộng việc đào tạo trong lĩnh vực riêng mình, mà còn phải liên kết với những môn học về hành vi khác, trên cơ sở bình đẳng trong việc thiết lập các chương trình đào tạo cho hàng ngàn nhân viên mới trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần mà chúng ta sẽ cần đến nếu dự định đạt được những mục tiêu mà Tổng thống Kennedy tuyên bố trong thông điệp lịch sử về sức khỏe tâm thần năm 1963 của ông3.
3 M. Gorman, bài viết “Psychiatry and Public Policy” đăng trên tạp chí bình duyệt The American Journal of Psychiatry, Vol. 122, No. 1 (tháng Bảy năm 1965).
Các chương trình đào tạo cho hàng ngàn nhân viên chăm sóc sức khỏe tâm thần bằng “một ngôn ngữ ‘đại chúng’, được làm sạch các biệt ngữ mang tính kỹ thuật và phù hợp cho những thảo luận về các vấn đề phổ quát của xã hội chúng ta” ngày nay đã được hiện thực hóa với thuyết Phân tích Tương giao. Hơn 1.000 nhân viên chuyên nghiệp đã được đào tạo với phương pháp này tại bang California, phương pháp cũng đã lan nhanh ra nhiều bang khác trong cả nước và sang nhiều nước khác nữa. Khoảng một nửa số chuyên gia này là bác sĩ tâm thần, một nửa còn lại bao gồm các bác sĩ y khoa thuộc nhiều chuyên khoa khác (khoa sản, khoa nhi, khoa nội, bác sĩ đa khoa), các nhà tâm lý học, chuyên viên công tác xã hội, nhân viên văn phòng tập sự, y tá, giáo viên, những nhà quản lý cá nhân, các tu sĩ và cả thẩm phán. Phân tích Tương giao hiện được sử dụng trong điều trị nhóm tại nhiều bệnh viện, nhà tù và các Cơ quanThanh thiếu niên tại California. Nó được áp dụng ngày càng nhiều bởi các nhà trị liệu trong lĩnh vực tham vấn hôn nhân, điều trị thanh thiếu niên, tham vấn mục vụ và chăm sóc sản khoa tại gia đình, và tối thiểu là trong một viện về chậm phát triển tâm thần, thuộc Laurel Hills, thành phố Sacramento.
Cơ sở lập luận chủ yếu giúp thuyết Phân tích Tương giao đưa ra cam kết bù đắp khoảng cách giữa nhu cầu và việc đáp ứng trị liệu là bởi nó hoạt động tốt nhất theo hình thức nhóm. Nó là một công cụ giảng dạy và học tập chứ không phải là một cuộc xưng tội hay một cuộc tìm tòi mang tính khảo cổ học của những nhà tâm linh. Trong quá trình hành nghề tâm thần học của cá nhân tôi, nó đã giúp đáp ứng nhu cầu điều trị gấp bốn lần so với trước đây. Suốt 25 năm qua, trong công việc của tôi với vai trò một bác sĩ tâm thần – điều trị bệnh nhân và quản lý các chương trình thể chế lớn – không có gì làm tôi phấn khích như những gì hiện đang xảy ra trong phòng khám của mình. Một trong những đóng góp quan trọng nhất của thuyết Phân tích Tương giao là nó đã cho bệnh nhân một công cụ mà họ có thể sử dụng. Mục đích của quyển sách này là để làm rõ công cụ này. Bất kỳ ai cũng có thể sử dụng nó. Mọi người không cần phải “bị bệnh” thì mới hưởng lợi từ công cụ này.
Với tôi, khi nhìn thấy mọi người bắt đầu thay đổi từ giờ điều trị đầu tiên, bắt đầu khỏe hơn, phát triển hơn và thoát khỏi sự bạo hành của quá khứ quả thật là một trải nghiệm sâu sắc và bõ công. Chúng tôi đặt niềm hy vọng lớn hơn của mình vào sự khẳng định rằng những gì đã từng xảy ra có thể lại xảy ra lần nữa. Nếu mối quan hệ giữa hai con người có thể mang đến sự sáng tạo, mãn nguyện và thoát khỏi mọi sợ hãi, thì điều tương tự cũng có thể xảy ra với hai mối quan hệ, hoặc ba hoặc một trăm hoặc với các mối quan hệ ảnh hưởng đến toàn bộ các nhóm xã hội, thậm chí đến tầm cỡ quốc gia. Các vấn đề của thế giới – được ghi chép hằng ngày với những tiêu đề đầy bạo lực và tuyệt vọng – chủ yếu lại là vấn đề của những cá nhân. Nếu cá nhân có thể thay đổi, thì tiến trình của thế giới có thể thay đổi. Đây là một hy vọng đáng gìn giữ.
Tôi muốn gửi lời cảm ơn đến rất nhiều người vì sự hỗ trợ, đóng góp và các nỗ lực của họ trong sự ra đời của quyển sách này. Trên tất cả, tôi mang ơn vợ tôi, Amy, người có kỹ năng viết và phương pháp tư duy phi thường, đã giúp đưa vào phiên bản cuối cùng này nội dung các bài giảng, nghiên cứu, các bài viết cũ, những quan sát và công thức của tôi – mà rất nhiều trong số đó chúng tôi đã thực hiện cùng nhau. Những bằng chứng từ các nghiên cứu triết học, thần học và văn học của bà ấy nằm rải rác khắp quyển sách, và chương sách về các giá trị đạo đức trong quyển sách này là đóng góp nguyên bản của bà. Tôi cũng bày tỏ lòng cảm kích đến những thư ký của tôi, Beverly Fleming và Connie Drewry, những người đã chuẩn bị bản đánh máy, đã chăm chút bản thảo từ lúc sơ khai; đến Alice Billings, Merrill Heidig, Jean Lee, Margery Marshall và Jan Root vì sự trợ giúp có giá trị của họ; đến các con tôi vì những đóng góp thú vị của chúng.
Đến các đồng nghiệp của tôi, những người đã cùng tôi thành lập Viện Nghiên cứu Phân tích Tương giao: Tiến sĩ Gordon Haiberg, Tiến sĩ Erwin Eichhorn, Tiến sĩ Bruce Marshall, Đức ngài Weaver Weaver và John R. Saldine; đến các giám đốc tham gia với chúng tôi khi Hội đồng Viện được mở rộng: Tiến sĩ David Applegate, Laverne Crites, Tiến sĩ Donis Eichhorn, Tiến sĩ Ronald Fong, Tiến sĩ Alvyn Freed, David Hill, Tiến sĩ Dennis Marks, Larry Mart, Tiến sĩ John Mitchell, Richard Nicholson, Đức ngài Russell Osnes, Tiến sĩ Warren Prentice, Berton Root, Barry Rumbles, Frank Summers, Linh mục Ira Tanner, Leroy Wolter và Dr. ZO Young.
Tiến sĩ Robert R. Ferguson, mục sư cao cấp của Nhà thờ Presbyterian Sacramento và cố vấn trong lĩnh vực giáo dục tại Trường dòng Princeton Theological; đến Dr. John M. Campbell, Chủ nhiệm của Khoa Nhân loại học tại Đại học New Mexico; James J. Brown của Bee Sacramento, Eric Bjork vì sự khôn ngoan và nhận xét hào phóng của ông; đến Tiến sĩ Ford Lewis, Giám mục của Giáo hội Nhất thể đầu tiên của Sacramento, bằng lòng tận tụy với sự thật và lòng trắc ẩn đã là nguồn động viên quý giá.
Đến Tiến sĩ Elton Trueblood, Giáo sư Triết học tại Earlham College, vì những dữ liệu quan trọng mới mà ông đã cung cấp cho tôi; đến Đức Giám mục James Pike, Nhà Thần học Công dân tại Trung tâm nghiên cứu các định chế dân chủ ở Santa Barbara, vì sự nhiệt tình lan tỏa và sự trợ giúp hào phóng; đến hai người đặc biệt đã từng huấn luyện và khuyến khích tôi trong lần đầu tiên tôi nghe nói về thuật ngữ “các tương giao giữa các cá nhân” – Tiến sĩ Freida Fromm Reichmann và Tiến sĩ Harry Stack Sullivan.
Và cuối cùng là đến các bệnh nhân của tôi, những người với tư duy sáng tạo và mang tính giải phóng đã cung cấp nhiều nội dung cho quyển sách. Chính từ lời yêu cầu của họ mà tôi đã viết nên quyển sách này.
T.A.H. Sacramento, California, Tháng Sáu, năm 1968