Sau cuộc đảo chính giết anh em Diệm-Nhu, tình hình chính trị nội bộ giới cầm quyền ở Sài Gòn rối loạn kéo dài. Giới tướng lĩnh Lầu Năm Góc đều cho rằng quá trình thực hiện chính sách của Mỹ ở Việt Nam đang suy giảm một cách nhanh chóng. Nếu Mỹ không mở rộng vai trò của mình, thì các lực lượng do cộng sản lãnh đạo sẽ nắm quyền kiểm soát miền Nam chỉ trong vòng vài tháng.
Sau một thời gian “giả vờ ôn hòa” để chuẩn bị cho cuộc bầu cử, bước sang mùa xuân năm 1965, Johnson trở lại nguyên hình là một tổng thống chủ chiến. Từ đây (đầu năm 1965) ra đời một chiến lược cơ bản, được Hoa Kỳ theo đuổi suốt cuộc chiến, đó là chính sách leo thang từng bước bằng các cuộc tiến công vào quân cộng sản ở miền Nam, đồng thời dùng không quân đánh vào các căn cứ hậu cần và sở chỉ huy ở miền Bắc.
Tình hình chiến sự từ mùa xuân 1965 càng ngày càng xấu đối với Mỹ. Ngày 20/4/1965, tổng thống Johnson ra lệnh nâng lực lượng trên bộ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam từ 35.000 lên hơn 80.000, đồng thời chấp nhận đề nghị của Hội đồng tham mưu liên quân mở rộng các chiến dịch không kích miền Bắc trong vòng ít nhất nửa năm.
Từ ngày 25 đến ngày 27/3/1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị (đặc biệt) lần thứ 11, bàn về tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt của cách mạng miền Nam. Hội nghị nhận định: Cuộc "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ ở miền Nam đã được đẩy tới mức độ cao, bao gồm một số yếu tố của "chiến tranh cục bộ". Chiến tranh đã vượt khỏi phạm vi miền Nam, lan ra miền Bắc. Nhiệm vụ cơ bản lúc này là tích cực kiềm chế và thắng địch trong cuộc "chiến tranh đặc biệt" ở mức cao nhất ở miền Nam, chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam nếu địch gây ra. Đồng thời kiên quyết bảo vệ miền Bắc, ra sức động viên lực lượng của miền Bắc chi viện cho miền Nam và ra sức giúp đỡ cách mạng nước bạn Lào.
Bước sang năm 1965, đúng như dự đoán của ta, địch điều động hàng trăm máy bay chiến đấu các loại để triển khai chiến tranh phá hoại. Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp cùng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đã cùng bàn bạc và quyết định việc tổ chức, triển khai lực lượng phòng không-không quân sẵn sàng đối phó với âm mưu địch mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc.
Về kế hoạch tác chiến mùa khô 1965-1966 trên toàn chiến trường miền Nam, Thường trực Quân ủy Trung ương cho rằng chiến trường chính để tiêu diệt địch là Tây Nguyên, vùng rừng núi Khu 7, Khu 6 và Hạ Lào. Phương châm hoạt động của chủ lực là đánh tập trung quy mô trung đoàn, nếu có điều kiện đánh lớn thì tập trung nhiều trung đoàn.
Sau những thắng lợi về mặt quân sự của ta, Mỹ phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan. Một mặt, chúng không chấp nhận thất bại và không chịu "mất" miền Nam Việt Nam vì sẽ tác động đến thuyết domino ở Đông Nam Á, uy tín và vị thế của Mỹ cũng sẽ bị ảnh hưởng lớn. Nhưng mặt khác, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc cũng không muốn tăng cường thêm lực lượng, điều đó sẽ khiến Mỹ gặp thêm khó khăn cả về quân sự và chính trị, nhất là chính trị nội bộ. Tuy nhiên, theo Cục tình báo, có nhiều khả năng địch sẽ tìm mọi cách mở rộng chiến tranh với tham vọng giữ cho được miền Nam.
Ngày 17/7/1965, Tổng thống Johnson thông báo quyết định đưa 44 tiểu đoàn quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam và chấp nhận chiến lược "tìm diệt" của Tổng chỉ huy Westmoreland. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị họp trong ba ngày (từ ngày 27 đến ngày 29/9/1965), nhận định tình hình và xác định chủ trương, nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong điều kiện mới.
Từ ngày 21 đến ngày 26/12/1965, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 12 diễn ra. Tại đây, Ban Chấp hành Trung ương nhất trí với nhiệm vụ cách mạng chung của cả nước như Nghị quyết của Bộ Chính trị đã khẳng định là: Động viên lực lượng cả nước kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước.