T
iếng cười khúc khích tắt dần, nhưng nó khiến Gibson rùng mình ớn lạnh. Anh hẳn đã nghe thấy tiếng cười như thế trong những cơn ác mộng của mình – thấp giọng, không chút niềm vui và điên loạn. Sinh vật ngồi trên ghế giơ một bàn tay ra, rồi cứ khép mở bàn tay đó như một đứa trẻ sơ sinh đòi thứ gì đấy mà không thể nói thành lời. Gã muốn những tấm hình. Gibson đưa chúng cho gã và gã ôm chúng vào ngực.
“Ở yên đó,” Gibson nói, tạo cho anh một ảo tưởng nhiều hơn mong đợi là gã đàn ông sẽ nghe lời.
Cuộc tìm kiếm phòng khách cho kết quả là một chiếc ví với mười bảy đô-la, một thẻ tín dụng, một thẻ tập thể hình ở Manhattan và một bằng lái xe đã hết hạn của Martin Yardas, hai mươi sáu tuổi, cư trú tại Montclair, New Jersey. Không có mảnh giấy nào ghi tên người dùng hay mật khẩu, nhưng bức ảnh trên bằng lái xác nhận nhân thân người ngồi trên ghế… nếu Gibson nheo mắt lại và tưởng tượng. Tay Martin Yardas trong bức ảnh này là một thằng nhóc mập mạp, mặt mũi hồng hào. Có hai loại người trên thế giới: những người cười khi chụp hình thẻ và những người không cười. Martin Yardas thuộc loại đầu. Ít ra thì gã thuộc loại đó vào sáu năm trước. Sự tương phản giữa con người hốc hác trên ghế – mặt nhăn nhúm và đen đúa, răng vàng như những vết ố ở nách chiếc áo phông cũ – với bức hình trên tấm bằng lái xe và bức ảnh chụp các thực tập sinh tạo thành một lời cảnh báo sống động, rõ ràng về sự hủy hoại khủng khiếp của thuốc kích thích với cơ thể.
Các bức ảnh đó còn kể câu chuyện gì nữa? Tại sao Charles Merrick lại đặt Marty Yardas năm hai tuổi trên đùi gã? Phải chăng Merrick có một đứa con riêng mà gã che giấu suốt ngần ấy năm trời? Nhóm pháp lý của vợ cũ của gã đã bới móc toàn bộ cuộc đời Merrick trong cuộc ly dị và cô ta hẳn không ngần ngại sử dụng điều gì đó kinh khủng thế này nếu phát hiện ra. Rốt cuộc, Martin Yardas có lẽ bằng tuổi với Lea, đồng nghĩa Merrick đã lang chạ khi Veronica Merrick đang mang thai. Làm được điều đó phải là một kiểu người đặc biệt và Charles Merrick chắc chắn là đặc biệt.
Nhưng có vẻ như Merrick vẫn can dự vào cuộc đời cậu con trai… ở một mức độ nào đó. Gã đã đến chơi và còn chụp ảnh với Martin, ít ra là một lần và sắp xếp để cậu ta tập sự ở Merrick Capital. Liệu bấy nhiêu có đủ để thao túng một chàng trai mười tám tuổi trở thành đồng phạm? Để thuyết phục một đứa trẻ làm tay sai cho mình trong khi gã thụ án tám năm tù? Gibson biết câu trả lời. Sẽ là như thế nếu cậu con trai tôn thờ gã. Nếu cậu con trai khát khao sự chấp thuận và tôn trọng từ gã. Một cậu con trai như thế sẽ chấp nhận bất cứ rủi ro nào. Và từ góc nhìn của Charles Merrick, như thế thật thuận tiện và ác độc – còn có thể gọi vậy. Ai mà Merrick có thể tin tưởng giao tiền nữa? Còn ai ngoài một thằng con trai trẻ tuổi, bị xa lánh đang tuyệt vọng muốn được người cha chấp nhận? Gibson liếc nhìn những gì còn lại của Martin Yardas đầy thương cảm.
Xem xem sự trung thành đã mang tới gì cho cậu, anh nghĩ.
“CharlesMerrick119070&,” Yardas thì thầm.
Gibson gần như nhảy dựng lên. Không hề chủ tâm, anh tưởng mình chỉ có một mình trong phòng.
“Anh vừa nói gì?”
Yardas lặp lại chuỗi ký tự.
Gibson gõ nó vào chỗ tên người dùng và nhìn Yardas đầy mong đợi. “Mật khẩu là gì?”
Martin Yardas nhăn nhó nhìn qua anh vào màn hình; môi gã động đậy. Thật nhẹ nhàng, Gibson hỏi gã mật khẩu, nhưng Yardas không nói gì nữa.
Vậy thì cho tôi một nửa làm chi? Đang đùa tôi à?
Gibson không nghĩ thế. Yardas muốn nói với anh, nhưng gã cần sự cho phép.
“Tôi sẽ không nói với ông ấy là anh nói với tôi đâu. Tôi hứa. Đây sẽ là bí mật của chúng ta.”
“Bí mật của chúng ta hả?” Yardas nhắc lại.
“Đó không phải tiền của ông ấy. Anh biết mà.”
Những tiếng cười khúc khích phát ra từ Martin Yardas như thể Gibson đã vô tình kể một câu chuyện cười sâu sắc. Gibson nhìn thấy nước mắt chảy xuống hai gò má gã.
“Sao anh không nói cho tôi biết?” Gibson hỏi. “Mật khẩu là gì?”
Tiếng cười khúc khích chìm vào im lặng và Gibson theo dõi Yardas nặng nề đứng lên. Gã không khỏe, nhưng cũng không yếu như vẻ ngoài. Gã loạng choạng bước về phía cái máy tính, nghiêng qua vai Gibson, cản tầm nhìn của anh và nhanh tay gõ một loạt ký tự. Yardas ấn phím “enter” và lùi lại cho Gibson xem.
Gã lại vừa cười vừa khóc.
***
Đó hẳn phải là một cảnh tượng lạ lùng: đoàn xe rách rưới rồng rắn chậm rãi qua Tây Virginia. Lực lượng an ninh được thuê của cha cô ở trước, theo sau là những kẻ nào chỉ có Chúa mới biết. Nếu ta có thể gọi đó là một cuộc rượt đuổi. Tất cả đều lái xe đầy trách nhiệm dưới mức tốc độ cho phép, tuân thủ mọi tín hiệu giao thông – không muốn rắc rối với cảnh sát. Nó tạo ra một ảo giác về sự yên bình mà Lea muốn tin một cách vô vọng, nhưng khi ngồi quay mặt về phía sau trong ánh chạng vạng, cô vẫn có thể thấy hàng dài những chiếc xe ở đây là để báo thù. Hôm nay không phải là một ngày bình yên.
Không phải mọi chiếc xe từ nhà tù đều đi theo họ lúc này – một số chiếc rõ ràng là đã đánh giá lại cuộc cạnh tranh, tính toán xác suất và quyết định rằng cái chết là một giá quá đắt để lấy mạng Merrick. Lea cũng phần nào muốn rằng mình là một trong số đó, vì theo những gì cô thấy ở cửa sổ phía sau, vẫn còn rất nhiều kẻ quyết tâm theo đuổi vụ này đến cùng. Chẳng phải chiếc xe tang luôn đi đầu trong một đám rước đó sao? Cảm giác lúc này là như thế – đám tang của Charles Merrick. Vì dù họ có đi đâu, những chiếc xe đang bám theo vẫn tìm cách chôn sống ông ta.
Lea ngồi ép chặt giữa hai gã đàn ông. Bên trái cô là một gã da trắng, râu ria rập rạp, dữ tợn trông càng đáng sợ hơn với đai quân đội đeo trước ngực và một khẩu súng trường dựng giữa hai chân. Gã có bộ râu kiểu sẽ làm thức ăn biến mất trong đó, không bao giờ thấy lại tới khi những con kiến lôi nó ra. Gã không nói năng gì hay chào hỏi ai cả, sự chú ý tập trung cả vào tiếng rì rầm trong tai nghe. Bên phải cô, một gã da đen trầm ngâm tư lự với biểu cảm khó chịu ngồi nghịch điện thoại di động, cứ vài giây lại kiểm tra giờ. Lea sợ là gã có thể thấy khẩu Walther giấu giữa hai chân cô; cô bắt chéo chân tránh xa gã.
Trong khi đó, cha mẹ cô ngồi thoải mái cạnh nhau ở băng sau chiếc limo và có vẻ hoàn toàn không để ý tới tình hình. Họ làm như thể đây là Công viên Trung tâm và dòng xe cộ đông đúc ở lối vào hầm đường Sáu Lăm đang khiến họ không tới được Nhà hát Opera Metropolitan. Lea nheo mắt về phía mặt trời đang lặn và nhìn kỹ cặp vợ chồng cũ. Charles Merrick chắc chắn không giống một kẻ vừa ra tù và tám năm trong đó không làm vầng hào quang quanh ông ta mờ đi chút nào. Nhưng thời gian thì lại không đối tốt với mẹ cô như thế và Lea nổi giận vì thấy bà ở cạnh ông ta. Bà đã luôn là một phụ nữ mảnh khảnh, nhưng giờ bà gần như là hốc hác, gân guốc. Những đường nét của bà từ chỗ sắc sảo chuyển sang gồ ghề, làn da căng lên không còn là dấu hiệu của tuổi trẻ, mà của ý chí. Veronica Merrick chưa bao giờ thiếu điều đó.
Lea cũng thấy bồn chồn không yên vì cảm giác quen thuộc lúc này: ngồi trong một chiếc limo trong khi cha mẹ cô gầm gừ với nhau dù chưa cãi cọ. Tám năm cách biệt, họ không lỡ một giây nào để nối lại cuộc chiến tranh lạnh căng thẳng vốn đã định hình cuộc hôn nhân của họ. Điều đó làm Lea trải qua cảm giác ảo giác ký ức đầy cảm xúc khiến cô không thể nào giữ được vỏ bọc của mình, rằng cô là cô con gái ngọt ngào, ngây thơ, vui mừng vì được đoàn tụ với cha. Cô cảm thấy nụ cười điệu bộ vờ vĩnh trên mặt mình đang rơi xuống.
“Nó ổn không?” Cha cô hỏi mẹ cô.
“Nó rất buồn,” Veronica nói.
“Ồ, cô nghĩ vậy sao?” Merrick nói ráo hoảnh. “Con bé tội nghiệp rõ ràng đang sốc. Chúng ta lẽ ra phải nói với nó lâu rồi.”
“Nói gì với con ạ?” Lea ngắt lời dù không ai nghe.
“Anh biết là chúng ta không thể.”
“Nó đã ở đâu suốt thời gian đó?” Charles hỏi.
“Thực sự tôi không biết.”
“Hẳn là cô không biết.”
“Nói gì với con cơ?” Lea lại hỏi.
Cô thà đặt cược vào việc cả bốn người trong ban Beatles sẽ tái hợp chứ không phải việc cha mẹ cô hợp tác bất cứ chuyện gì. Charles và Veronica Merrick khinh bỉ nhau. Đó là nền tảng mà Lea dựng xây thế giới quan của cô. Cơ sở cho mọi quyết định của cô. Cuộc ly dị của cha mẹ cô đã thiêu rụi tất cả và hủy hoại bất cứ sự vờ vĩnh lịch sự nào giữa họ. Cha cô đã phản bội vợ mình, làm ô nhục gia đình và bỏ lại họ trong cơ cực. Điều đó khỏi phải nói – là lý do Lea tới Niobe để trả thù cho mẹ cô, để lấy lại công bằng và chứng kiến cha cô bị trừng phạt. Vậy mà giờ họ ở đây, đang thảo luận về cô như thể cô không có mặt. Một suy nghĩ kinh khủng thoáng qua trong cô.
“Hai người vẫn… ở với nhau sao?”
Cha mẹ cô nhìn cô trừng trừng như thể cô vừa chui từ dưới đất lên. Khuôn mặt mẹ cô nheo lại thành một nụ cười kẻ cả quen thuộc của bà, mà ta có thể coi như đang cười lớn.
“Ôi, con yêu, không. Tuyệt đối không. Cha con là một nỗi hổ thẹn.”
“Cảm ơn, Veronica,” Charles nói và quay sang Lea. “Mẹ con và ta có sắp xếp một việc.”
“Việc gì ạ? Và những người này là ai?”
“Ôi, phép lịch sự của ta ở đâu nhỉ? Những quý ông đây là các tay súng đánh thuê. Ta không chắc tên họ là gì. Xin lỗi?”
Gã râu ria nhìn về phía Merrick.
“Phải. Tên anh là gì?”
“Smith.”
“Tên anh ta là Smith,” Merrick nói. “Anh ta thuộc về đội hộ tống cha thuê để đưa chúng ta ra khỏi đất nước này.”
“Anh thuê sao?” Veronica hỏi, lông mày nhíu lại. “À, tôi trả tiền mà, nhớ không?”
Veronica không phản bác.
Merrick chỉ về phía gã đàn ông trầm tư thích nghịch điện thoại. “Và đây là Damon Ogden ở Cục Tình báo Trung ương.”
Lần đầu tiên, tay lính đánh thuê tỏ ra quan tâm tới cuộc đối thoại và nhìn Ogden từ trên xuống dưới.
Damon Ogden nhìn Charles Merrick trừng trừng. “Anh mất trí rồi sao?”
“Sao chứ? Nó là con gái tôi.”
“Chắc chắn đây là cuộc đoàn tụ gia đình lạ lùng nhất mọi thời.” Ogden nghiêng về phía Lea để nói chuyện với Smith. “Còn bao lâu nữa thì tới sân bay?”
“Hai dặm125,” Smith đáp.
125 Khoảng 3,2 km.
“Anh ta làm gì ở đây?” Lea hỏi, chỉ Ogden.
“À, Damon là trung tâm trong sự sắp xếp của chúng ta. Anh ta kiểu như một người quan sát khách quan… trong một vai trò không chính thức. Ta e rằng mình không thể nói nhiều hơn thế.”
Lea không hiểu. “Cha thỏa thuận với CIA sao?” “Mọi chuyện rất phức tạp.”
“Đó là lý do chúng ta không thể nói với nó,” Veronica nói. “Nó không có góc nhìn đa chiều.”
“Câu đó thậm chí có nghĩa gì không?” Charles hỏi. “Chẳng gì cả.”
“Ba mươi giây,” tay lính đánh thuê nói.
“Không. Câu đó có nghĩa gì?” Merrick hỏi dồn, không nao núng.
Gã từ CIA hắng giọng và ra lệnh cho cả hai người bọn họ, một cách rành mạch, ngậm miệng lại. Đổi lại là lúc khác, Lea hẳn sẽ thưởng thức sự sửng sốt của cha mẹ cô khi bị yêu cầu một cách thô lỗ như thế, nhưng cô đang phân tâm vì bàn tay của Smith vừa lãnh đạm gạt chốt bảo vệ cò khẩu súng trường của gã xuống. Chỉ là một chuyện nhỏ, nhưng nó khiến tất cả phải chú ý. Bên ngoài cửa sổ, màn đêm đã buông xuống; một tấm biển gỗ lướt qua với dòng chữ “Sân bay Dule Tree.”
Họ rẽ gấp, chiếc limo không hề chạy chậm lại khi rời con đường chính và rồi Lea cảm nhận sự tăng tốc đột ngột đẩy cô về phía trước trên ghế ngồi của mình. Họ leo lên con đường đất tối tăm thêm một hay hai dặm126 nữa, leo dốc suốt quãng thời gian đó cho tới khi cuối cùng, con đường bằng phẳng trở lại và họ đi qua một cánh cổng mở và sân bay hiện ra phía trước họ.
126 Khoảng 1,6 hay 3,2 km.
Trông nó không có vẻ gì là một sân bay – chỉ là một khoảng không gian mở trên một đỉnh đồi rộng, bằng phẳng, đã được vạt sạch từ cánh rừng. Nó chỉ có một đường băng, một văn phòng tường ván và một nhà chứa máy bay để mở nơi vài chiếc máy bay một cánh quạt – hiệu Piper và Cessna – đang đậu đằng sau hàng rào dây thép. Lea không thấy thứ gì giống như một đài không lưu, hay ánh sáng phát ra từ bất kỳ tòa nhà nào. Tất cả mọi người đã về nhà sau ngày làm việc. Ánh sáng duy nhất cô thấy tới từ hai chiếc máy bay đậu cạnh nhau ở cuối đường băng. Chiếc limo rời con đường và đi thẳng tới chỗ hai chiếc máy bay. Lea nhận ra đó là những chiếc Gulfstream G450, cũng là mẫu máy bay một thời từng chở cha mẹ cô vòng quanh thế giới khi họ còn ở đỉnh cao quyền lực.
“Tại sao lại có hai chiếc?” Lea hỏi.
“Mỗi người chúng ta một chiếc,” mẹ cô trả lời. “Tất nhiên, một khi chúng ta đã làm xong việc của mình.”
Chiếc limo dừng lại đột ngột đằng sau hai chiếc máy bay và ba chiếc SUV trong đoàn xe nhỏ của họ tạo thành một hình bán nguyệt khép kín giữa chiếc limo và lối vào sân bay. Những cánh cửa đồng loạt mở ra và một đội lính nhỏ được triển khai, tỏa ra dọc theo chu vi phòng ngự do mấy chiếc SUV tạo ra. Lea chứng kiến một nhóm hai người dựng lên một khẩu súng máy. Đây là vùng chiến sự… hay sắp sửa là thế.
Smith gõ tay vào cửa sổ trước khi bước ra. “Đây là kính chống đạn. Khả năng là không thứ gì xuyên thủng được, nhưng hãy cúi đầu xuống nếu có tiếng động lớn.”
Gã đóng sầm cửa và lao ra gia nhập nhóm của gã. Lea thấy điều đó khó chịu hơn nhiều so với ý định của gã. Bốn người họ ngồi trong im lặng, nhìn nhau trừng trừng.
Họ đã có được một khởi đầu thuận lợi nhờ màn leo dốc tốc độ cao, nhưng giờ Lea thấy một, rồi hàng loạt ánh đèn pha ngang dọc xuất hiện. Chiếc xe dẫn đầu, một chiếc SUV, ra khỏi con đường rải sỏi và lao thẳng về phía họ, càng tăng tốc hơn khi tới gần. Lea nghe vài tiếng nổ khàn khàn, xa xôi. Kính trước của chiếc SUV đang lao đến biến thành màu trắng lốm đốm và cô nhìn chiếc xe chao đảo lao vào hàng rào vây quanh nhà chứa máy bay. Những chiếc xe khác theo sau nhận ra tình hình và rẽ hướng khác, dừng cách đó vài trăm yard. Ngày càng nhiều xe tới hơn, trải ra khắp đồng cỏ. Đèn pha đã tắt và Lea thấy rất nhiều hoạt động bên ngoài những chiếc xe, nhưng không còn tiếng súng nữa, ít ra là lúc này.
Cửa chiếc limo lại mở ra. Bo Huntley vào trong với họ. Gã đưa một cái máy tính xách tay màu xanh lá cây ngụy trang cho Merrick. Chiếc hộp máy tính được gia cố nhìn như thể dù có bị rơi từ tầng năm một toà nhà xuống cũng không hề hấn gì.
“Được rồi, thưa ông, chỉ cần ông thực hiện một giao dịch nhỏ và chúng tôi có thể để ông đi. Ông có nghĩ tới điểm đến nào chưa?”
“Tôi sẽ báo với phi công một khi chúng tôi ở trên trời.”
“Rõ rồi. Vợ ông có số số tài khoản của chúng tôi.”
“Cô ta không phải vợ tôi.”
“Cảm ơn Chúa.” Veronica mở một tập giấy ra và hắng giọng, sẵn sàng đọc số cho gã.
“Tôi không có sóng,” Ogden nói, giơ điện thoại di động của anh lên.
“Không vấn đề. Chiếc limo có điện thoại vệ tinh,” Huntley nói. “Vậy là… CIA hả?” Tin đồn đã lan nhanh.
Ogden nhìn trừng mắt về phía Merrick. Về phần gã, Merrick liếc qua chiếc máy tính xách tay nhìn Lea và mỉm cười trấn an cô. Lea không hiểu sao cũng cười đáp lại. Thật trớ trêu, cô có vẻ đã dễ dàng giành được lòng tin của cha cô – đó gần như là một sự sỉ nhục – nhưng nhìn thấy ông ta ngồi cạnh mẹ cô lúc này khiến cô nghi ngờ không biết cô định đạt được điều gì ở đây. Phải chăng cha mẹ cô đã âm mưu với nhau ngay từ đầu? Nếu thế, cô và cả thế giới này đã bị lừa. Nhưng sự “sắp xếp” của họ còn có thể là gì nữa? Cô muốn hét lên.
Có thể không phải là góc nhìn đa chiều, nhưng cô sẽ có được vài câu trả lời.