R
eeves gọi điện đến khách sạn cho Jonathan vào chín giờ hơn sáng hôm sau. Karl sẽ tới lúc mười giờ bốn mươi để chở anh tới bệnh viện. Rudolf sẽ đi cùng. Jonathan chắc chắn về điều đó.
“Chúc may mắn,” Reeves nói. “Tôi sẽ gặp anh sau.”
Jonathan đi xuống sảnh tầng một, đang đọc dở tờ Times thì Rudolf đến, sớm vài phút. Anh ta nở nụ cười e dè, trông giống Kafka1 hơn bao giờ hết.
1 Franz Kafka là một nhà văn lớn chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, được giới phê bình đánh giá như một trong những tác giả có tầm ảnh hưởng nhất thế kỉ 20.
“Xin chào buổi sáng, anh Trevanny!” Anh ta nói.
Rudolf và Jonathan bước vào chiếc xe ô tô to.
“Chúc may mắn với kết quả xét nghiệm nhé!” Anh ta vui vẻ nói.
“Tôi cũng định hỏi chuyện bác sĩ,” Jonathan nói cũng vui vẻ như vậy.
Anh chắc chắn Rudolf hiểu, nhưng trông anh ta lại có vẻ hơi bối rối và nói, “Chúng ta sẽ cố gắng…”
Jonathan đi cùng Rudolf vào bệnh viện, dù anh ta đã nói là có thể lấy kết quả và tìm hiểu xem bác sĩ có thời gian không. Karl đã giúp dịch lại, nên Jonathan hiểu hoàn toàn. Karl, trên thực tế, có vẻ hết sức tự nhiên, anh nghĩ, và có lẽ anh ta cảm thấy như thế thật. Dẫu vậy đối với Jonathan bầu không khí vẫn có vẻ kỳ lạ, như thể có người đang diễn kịch, diễn rất dở, kể cả anh. Rudolf nói chuyện với một y tá ở bàn tiếp đón trong sảnh, và yêu cầu lấy kết quả xét nghiệm của anh Trevanny.
Ngay lập tức y tá tìm kiếm trong một hộp đựng các phong bì được niêm phong đủ loại kích cỡ rồi rút một phong bì cỡ A4 có tên Jonathan ở trên.
“Còn bác sĩ Wentzel thì sao? Có thể gặp ông ấy không?” Anh hỏi y tá.
“Bác sĩ Wentzel à?” Cô ta xem xét một quyển sổ cái có các khe bằng mica, ấn nút và nhấc điện thoại lên. Sau đó cô ta nói tiếng Đức một lúc, dập điện thoại xuống và trả lời Jonathan bằng tiếng Anh, “Hôm nay bác sĩ Wentzel bận cả ngày rồi, theo lời y tá của ông ấy. Anh có muốn đặt lịch hẹn lúc mười rưỡi sáng mai không?”
“Có,” Jonathan nói.
“Được thôi, tôi sẽ đặt lịch. Nhưng y tá của ông ấy nói rằng anh sẽ tìm hiểu được rất nhiều thông tin trong bản kết quả xét nghiệm đấy.”
Sau đó Jonathan và Rudolf đi bộ về xe. Anh nghĩ anh ta hơi thất vọng, hay chỉ là do anh tưởng tượng ra nhỉ? Dẫu sao đi nữa thì anh đã cầm được phong bì dày trong tay, kết quả xét nghiệm thật.
Vào đến xe, Jonathan nói, “Thứ lỗi nhé,” với Rudolf, và mở phong bì ra. Trong có ba trang đánh máy, và chỉ liếc qua anh cũng thấy rất nhiều thuật ngữ tương tự trong tiếng Pháp và tiếng Anh mà anh đã quen thuộc. Dẫu vậy, trang cuối cùng có hai đoạn văn dài bằng tiếng Đức. Vẫn có cái từ dài dằng dặc chỉ tủy vàng. Chỉ số bạch cầu của Jonathan là 210,000, cao hơn con số trong kết quả xét nghiệm mới nhất ở Pháp và cao hơn bao giờ hết. Anh không cố gắng đọc hiểu trang cuối đó nữa. Khi anh gấp các tờ giấy lại, Rudolf nói gì đó với giọng lịch sự, chìa tay ra, và Jonathan đưa kết quả xét nghiệm cho anh ta, căm ghét phải làm vậy, nhưng anh còn có thể làm gì nữa, mà có gì quan trọng sao?
Rudolf bảo Karl cứ lái tiếp.
Jonathan nhìn ra ngoài cửa sổ. Anh không có ý định nhờ Rudolf giải thích bất kỳ cái gì hết. Anh thà tự dịch bằng từ điển còn hơn, hoặc không thì hỏi Reeves cũng được. Tai Jonathan bắt đầu kêu ong ong, và anh ngả ra sau, cố gắng hít sâu. Rudolf liếc nhìn anh và lập tức hạ kính cửa sổ xuống.
Karl nói qua vai, “Thưa hai anh, anh Minot muốn cả hai qua ăn trưa. Sau đó có thể sẽ đi vườn thú.”
Rudolf bật cười rồi trả lời bằng tiếng Đức.
Jonathan nghĩ xem có nên yêu cầu được chở về khách sạn hay không. Nhưng để làm gì mới được? Hành xác với kết quả xét nghiệm nhưng chẳng hiểu nổi một từ à? Rudolf muốn được thả xuống ở đâu đó. Karl thả anh ta xuống cạnh một kênh đào và Rudolf chìa tay ra với Jonathan, bắt tay anh thật chặt. Sau đó Karl lái xe tới nhà của Reeves Minot. Ánh nắng chiếu sáng lấp lánh trên mặt hồ Alster. Những con thuyền nhỏ vui vẻ bập bềnh cạnh mỏ neo, và hai đến ba chiếc khác đang bơi lòng vòng, đơn giản và sạch sẽ như những món đồ chơi mới toanh.
Bà Gaby mở cửa cho Jonathan. Reeves đang nghe điện thoại nhưng nhanh chóng kết thúc.
“Xin chào, Jonathan! Kết quả thế nào?”
“Không quá tốt,” anh nói, chớp mắt. Ánh nắng trong căn phòng trắng xóa làm anh chói mắt.
“Còn kết quả xét nghiệm thì sao? Tôi có thể xem được không? Anh hiểu tất cả chứ?”
“Không – không phải tất cả.” Jonathan đưa phong bì trên tay cho Reeves.
“Anh gặp bác sĩ chưa?”
“Ông ấy bận.”
“Ngồi xuống đi, Jonathan. Có khi anh cần một cốc rượu.” Reeves đi lấy một chai rượu trên giá sách của anh ta.
Jonathan ngồi xuống sôpha và ngửa đầu ra sau. Anh cảm thấy trống rỗng và nản chí, nhưng ít nhất thì chưa ngất xỉu ngay lúc đó.
“Kết quả xấu hơn so với những gì anh nhận được ở Pháp à?” Reeves mang rượu scotch và nước quay lại.
“Đúng là thế,” Jonathan nói.
Anh ta đọc trang cuối cùng, hai đoạn văn dài ngoằng. “Anh phải cẩn thận tránh các vết thương nhỏ. Thú vị nhỉ.”
Vậy là chẳng có gì mới hết, anh nghĩ. Anh rất dễ chảy máu. Jonathan chờ bình luận của Reeves, trên thực tế là chờ anh ta dịch lại.
“Rudolf đã dịch cái này cho anh chưa?”
“Chưa. Nhưng vì tôi không nhờ cậu ta.”
“Không thể xác định tình trạng này có cho thấy việc bệnh chuyển biến xấu hơn hay không, không nhìn thấy trước – chẩn đoán… tương đối nguy hiểm trong thời gian dài – vân vân. Tôi sẽ dịch từng từ một, nếu anh muốn,” Reeves nói. “Có một vài từ tôi cần tra từ điển, mấy từ ghép, nhưng tôi đã nắm được đại ý rồi.”
“Vậy cứ nói đại ý cho tôi nghe là được.”
“Tôi phải nói là đáng nhẽ họ có thể viết chẩn đoán cho anh bằng tiếng Anh mới đúng,” Reeves nói rồi lại đọc lướt qua trang giấy. “Tế bào kết hột tương đối đáng kể cũng như có – vật chất – vàng. Vì anh đã được xạ trị nên biện pháp này không được khuyên dùng tiếp ở thời điểm hiện tại, vì các tế bào bạch cầu có thể trở nên miễn dịch…”
Reeves tiếp tục ra rả một lúc. Jonathan để ý thấy không hề có dự đoán còn lại bao nhiêu thời gian, không có manh mối đâu mới là hạn chót.
“Vì hôm nay anh không thể gặp bác sĩ Wentzel, anh có muốn tôi đặt lịch hẹn cho anh vào ngày mai không?” Anh ta có vẻ thật lòng quan tâm.
“Cảm ơn, nhưng tôi đã đặt lịch hẹn vào sáng mai rồi. Mười rưỡi.”
“Tốt. Và anh nói là y tá của ông ta biết tiếng Anh, nên anh không cần Rudolf. Sao anh không duỗi người vài phút nhỉ?” Reeves đẩy một cái gối vào góc sôpha.
Jonathan nằm ngửa ra sau, một chân đặt trên sàn, chân còn lại vắt vẻo trên mép ghế. Anh cảm thấy yếu ớt và ngái ngủ, như kiểu có thể ngủ vài tiếng liên tục. Reeves tiến về phía ô cửa sổ đầy nắng, nói chuyện về sở thú. Anh ta nhắc đến một loài động vật quý hiếm – tên của nó trôi tuột khỏi đầu Jonathan ngay sau khi nghe xong – mới được chở về đây từ Nam Mỹ. Một cặp. Reeves nói rằng họ nhất định phải tới xem cặp thú đấy. Anh nghĩ đến cảnh Georges kéo xe sỏi của thằng bé. Cailloux. Jonathan biết là mình sẽ không còn sống để nhìn thấy Georges trưởng thành, chẳng bao giờ có thể nhìn thấy thằng bé lớn lên, nghe thằng bé vỡ giọng. Anh đột ngột ngồi bật dậy, nghiến răng, cố gắng bắt sức mạnh quay lại với mình.
Bà Gaby mang một cái khay to vào.
“Tôi đã nhờ bà Gaby làm bữa trưa lạnh để chúng ta có thể ăn bất kỳ khi nào anh cảm thấy đủ sức,” Reeves nói.
Họ ăn cá hồi lạnh với mayonnaise. Jonathan không ăn được nhiều, nhưng bánh mỳ đen, bơ và rượu vang rất ngon. Reeves trò chuyện về Salvatore Bianca, mối liên hệ của mafia với mại dâm, thói quen thuê gái điếm vào làm trong các sòng bạc, rồi lấy đi chín mươi phần trăm thu nhập của các cô nàng. “Moi tiền,” anh ta nói. “Tiền là mục tiêu của chúng – nỗi sợ là phương pháp của chúng. Cứ nhìn Las Vegas mà xem! Nhưng ở đây, Hamburg chúng tôi không muốn gái mại dâm,” Reeves nói với vẻ đạo đức. “Có phụ nữ, vài người, làm việc ở quầy bar chẳng hạn. Có thể họ sẵn sàng bán mình, nhưng không phải trong chỗ chúng tôi, chắc chắn là như vậy.” Jonathan cũng chẳng để tâm nghe, chắc chắn cũng không cân nhắc những gì Reeves đang nói. Anh chọc đồ ăn của mình, cảm giác máu đã dồn lên má, và đấu tranh nội tâm trong thầm lặng. Anh sẽ thử phi vụ bắn người. Không phải vì anh nghĩ trong vài ngày hay vài tuần nữa mình đằng nào chả chết, mà chỉ đơn giản là vì khoản tiền ấy có ích, vì anh muốn cho Simone và Georges số tiền ấy. Bốn mươi nghìn bảng, hay chín mươi sáu nghìn đô la hay – Jonathan đoán – dù chỉ một nửa số tiền đó, nếu không cần phải bắn thêm một người nữa, hoặc nếu anh bị tóm ngay lần nổ súng đầu tiên.
“Nhưng anh vẫn sẽ nhận, phải không?” Reeves hỏi, dùng một chiếc khăn trắng cứng lau môi. Anh ta nói đến phi vụ nổ súng tối nay.
“Nếu có việc gì xảy ra với tôi,” Jonathan nói, “anh có thể đảm bảo vợ tôi vẫn nhận được tiền chứ?”
“Nhưng…” Vết sẹo của Reeves rúm lại theo nụ cười của anh ta. “Chuyện gì có thể xảy ra được chứ? Mà nhất định tôi sẽ đảm bảo vợ anh nhận được tiền.”
“Nhưng nếu có gì xảy ra – nếu chỉ nổ một phát súng…”
Reeves mím chặt môi lại như thể không thích trả lời. “Vậy thì chỉ nửa khoản tiền thôi. Nhưng nhiều khả năng sẽ có hai phi vụ, nói thật là vậy. Trả toàn bộ tiền sau phi vụ thứ hai. Thật tuyệt vời!” Anh ta mỉm cười, và đây là lần đầu tiên Jonathan thấy một nụ cười chân thật ở con người này. “Tối nay anh sẽ thấy mọi việc dễ dàng đến mức nào. Và sau đó chúng ta sẽ ăn mừng – nếu anh có hứng.” Anh ta vỗ hai tay trên đầu, anh tưởng đó là một động tác thể hiện sự hân hoan, nhưng đó chỉ là để ra hiệu cho bà Gaby.
Bà ta bước vào và dọn đồ đi.
Hai mươi nghìn bảng, Jonathan nghĩ. Không ấn tượng bằng con số ban đầu, nhưng vẫn tốt chán so với một người chết cần chi trả tiền tang lễ.
Cà phê. Rồi đi sở thú. Hai con thú mà Reeves muốn anh xem là hai sinh vật nhỏ trông như con gấu màu caramel. Có một đám đông nhỏ đứng trước mặt chúng và Jonathan không thể nhìn rõ. Anh cũng chẳng có hứng. Anh được nhìn rõ vài con sư tử đi lại tự do. Reeves rất để ý việc Jonathan không bị mệt. Đã gần bốn giờ chiều.
Về nhà Reeves, anh ta khăng khăng đòi cho anh uống một viên thuốc màu trắng nhỏ xíu mà anh ta bảo là “thuốc an thần nhẹ”.
“Nhưng tôi không cần thuốc an thần,” Jonathan nói. Anh cảm thấy khá bình tĩnh, trên thực tế là khá khỏe.
“Thế là tốt nhất. Xin hãy tin lời tôi.”
Jonathan nuốt viên thuốc xuống. Reeves bảo anh nằm nghỉ trong phòng khách một lát. Anh không ngủ, và đến năm giờ chiều anh ta bước vào để thông báo rằng Karl chuẩn bị tới đón anh về khách sạn. Áo khoác nằm ở khách sạn của Jonathan. Reeves đưa cho anh một cốc trà pha đường, vị cũng được, và anh cho rằng trong đó chẳng có gì ngoài trà. Anh ta cũng đưa súng cho anh và dạy lại cách mở chốt an toàn. Jonathan cất súng vào túi quần.
“Gặp lại anh tối nay nhé!” Reeves hân hoan nói.
Karl lái xe chở anh tới khách sạn, thông báo rằng anh ta sẽ đợi. Jonathan đoán chừng mình có năm đến mười phút. Anh đánh răng – dùng xà phòng, vì anh đã để kem đánh răng ở nhà cho Simone và Georges và chưa mua mới – sau đó châm một điếu thuốc lá Gitane và đứng nhìn ra ngoài cửa sổ cho tới khi anh nhận ra mình không thật sự nhìn gì cả, thậm chí cũng không nghĩ gì cả, sau đó anh đi tới tủ quần áo và lấy chiếc áo rộng ra. Chiếc áo đã được sử dụng, nhưng không nhiều. Nó từng thuộc về ai? Một câu hỏi phù hợp, Jonathan nghĩ, vì anh có thể vờ đang diễn, mặc đồ của người khác, vờ khẩu súng là súng không đạn trong một vở diễn. Nhưng Jonathan biết rằng anh vẫn tường tận những gì mình đang làm. Với gã mafia mà anh chuẩn bị giết (hy vọng vậy) anh không hề có chút thương xót nào. Và Jonathan nhận ra anh cũng chẳng dành chút thương hại nào cho bản thân. Chết là chết. Vì những lý do khác nhau, tính mạng của cả Bianca lẫn anh đều đã mất giá trị. Chi tiết thú vị duy nhất là Jonathan được trả tiền cho hành động giết Bianca. Anh cất khẩu súng vào túi áo vest và quần tất trong cùng một túi. Anh phát hiện ra mình có thể lồng găng vào tay bằng chính các ngón của bàn tay ấy. Run rẩy lo lắng, anh lau sạch cả dấu vân tay thật lẫn tưởng tượng bằng các ngón đeo găng. Anh sẽ phải kéo nhẹ áo sang một bên khi nổ súng, không thì áo sẽ bị thủng một lỗ. Anh không có mũ. Kỳ lạ thay khi Reeves lại không nghĩ đến mũ. Giờ thì đã quá muộn để lo lắng về chuyện đó.
Jonathan ra khỏi phòng và đóng chặt cửa lại.
Karl đang đứng cạnh ô tô trên vỉa hè. Anh ta mở cửa cho anh. Jonathan băn khoăn không biết anh ta biết bao nhiêu chuyện, anh ta có biết tất cả mọi thứ không? Anh đang rướn người về phía trước trong ghế sau, định yêu cầu Karl lái xe tới trạm U-bahn Rathaus, thì anh ta nói qua vai:
“Anh chuẩn bị tới gặp Fritz ở trạm Rathaus. Đúng không?”
“Đúng vậy,” Jonathan trả lời, nhẹ nhõm. Anh ngồi lùi vào góc và nhẹ nhàng sờ tay trên khẩu súng nhỏ. Anh đóng rồi mở chốt an toàn, nhớ là đẩy lên là đóng.
“Anh Minot gợi ý là anh đứng đây. Lối vào nằm ở bên kia đường.” Karl mở cửa nhưng không ra ngoài, vì đường phố đông đúc cả xe cộ lẫn người. “Anh Minot nói rằng tôi sẽ đến khách sạn đón anh lúc bảy rưỡi,” anh ta nói.
“Cảm ơn anh.” Trong giây lát Jonathan cảm thấy lạc lối, nghe tiếng cửa xe đóng sầm lại. Anh nhìn quanh tìm Fritz. Anh đang đứng ở một giao lộ lớn giữa Gr. Johannesstrasse và Rathausstrasse. Cũng giống như ở Luân Đôn, đường Piccadilly chẳng hạn, dường như có ít nhất bốn lối vào U-bahn ở đây vì có quá nhiều giao lộ. Jonathan nhìn một vòng tìm bóng dáng nhỏ con của Fritz với mũ đội trên đầu. Một nhóm đàn ông, trông như một đội bóng mặc áo choàng, lao xuống các bậc thang của U-bahn, để lộ ra Fritz đang bình tĩnh đứng cạnh một tay vịn bằng thép, và tim Jonathan đập thình thịch như thể anh đi gặp người tình ở một chỗ hẹn kín đáo. Fritz ra dấu về phía cầu thang rồi một mình đi xuống.
Anh vẫn dán chặt mắt vào nhìn mũ của Fritz, dù giờ giữa họ phải có đến mười lăm người hoặc hơn. Fritz di chuyển ra ngoài rìa đám đông. Rõ ràng là Bianca chưa đến nơi, và họ sẽ phải đợi. Một đám đông người Đức ồn ào vây quanh Jonathan, phá ra cười, một người hét lên, “Gặp lại sau, Max!”
Fritz đứng tựa vào một bức tường cách đó khoảng ba mét, và anh di chuyển về phía ông ta nhưng vẫn giữ khoảng cách an toàn. Trước khi Jonathan đến chỗ tường, Fritz gật đầu và đi chéo về phía cổng vé. Anh mua vé. Fritz len vào giữa đám đông. Vé được bấm lỗ. Jonathan biết rằng ông ta đã nhìn thấy Bianca, nhưng anh chưa thấy gã đâu.
Một con tàu đang đứng đợi. Khi Fritz lao thẳng tới chỗ một toa xe, Jonathan cũng lao theo. Trong toa, cũng không quá đông, Fritz vẫn đứng nguyên, nắm lấy một cây cột nhôm. Ông ta rút một tờ báo ra khỏi túi. Fritz hất đầu về phía trước, không nhìn Jonathan.
Đến lúc ấy Jonathan mới nhìn thấy gã người Ý, gần anh hơn Fritz – một người da ngăm, mặt vuông, mặc áo khoác xám thanh lịch, khuy áo bằng da nâu, đội mũ mềm màu xám, đang giận dữ nhìn chằm chằm về phía trước như thể đang chìm trong dòng suy nghĩ. Jonathan lại nhìn Fritz đang giả vờ đọc báo, khi mắt anh chạm mắt ông ta, Fritz gật đầu và cười nhẹ xác nhận.
Đến trạm tiếp theo, Messberg, Fritz xuống tàu. Jonathan lại nhìn vào gã người Ý, chỉ thoáng qua, mặc dù có vẻ ánh mắt của anh cũng không làm gã ta xao lãng việc nhìn chằm chằm vô định vào khoảng không. Giả như Bianca không xuống ở trạm tiếp theo và đi mãi đi mãi tới một trạm hẻo lánh hầu như không có ai xuống tàu thì sao?
Nhưng Bianca đi về phía cửa khi tàu chậm lại. Steinstrasse. Jonathan phải cố gắng lắm để bám sát gã ta mà không va vào ai. Có một cầu thang ngắn đi lên. Đám đông, có lẽ tầm tám mươi tới một trăm người, bám chặt lấy nhau trên cầu thang, và bắt đầu nhích dần lên trên. Chiếc áo khoác xám của Bianca ở ngay trước mặt Jonathan và vẫn còn vài mét nữa mới tới cầu thang. Anh có thể nhìn thấy vài sợi tóc xám giữa mái tóc đen ở gáy gã ta, nhìn thấy một vết nham nhở như sẹo rỗ trên da gã ta.
Jonathan đã rút súng khỏi túi áo, cầm súng trong tay phải. Anh tháo chốt an toàn. Anh gạt áo khoác sang một bên và nhằm vào chính giữa áo khoác của người đàn ông.
Súng phát ra tiếng “bùm” gầm ghè.
Jonathan thả súng xuống. Anh đã dừng lại, và giờ anh rúm người lại, lùi sang trái, khi đám đông đồng thanh kêu “Ối – á!” Jonathan có thể là một trong số ít người không thốt ra một tiếng kêu nào.
Bianca đã gục xuống.
Khu vực xung quanh Bianca trở nên trống trải.
“Súng…”
“Bắn…!”
Khẩu súng nằm trên nền xi măng, có người dợm nhặt nó lên nhưng bị ít nhất ba người cản lại không cho chạm vào. Rất nhiều người, không đủ hứng thú hoặc đang vội, vẫn lao lên cầu thang. Jonathan nhích sang bên trái của nhóm người đang bao vây Bianca. Anh đến cầu thang. Một người đàn ông hét lên “Cảnh sát!” Jonathan sải bước vội vã, nhưng không đi nhanh hơn những người khác đang leo lên vỉa hè.
Anh lên đến đường và cứ thế bước thẳng về phía trước, không quan tâm mình đang đi đâu. Anh đi với tốc độ vừa phải như thể biết rõ nơi đến, dù thực tế là không. Anh nhìn thấy một ga xe lửa khổng lồ bên tay phải. Reeves đã đề cập tới chỗ này. Không có tiếng bước chân sau lưng anh, không có tiếng truy đuổi. Dùng các ngón tay bên phải, anh ngọ nguậy tháo găng ra, nhưng không muốn thả nó quá gần ga tàu điện ngầm.
“Taxi!” Jonathan đã nhìn thấy một chiếc xe trống, đang lao đến ga tàu điện ngầm. Nó dừng lại và anh chui vào. Jonathan báo tên đường khách sạn của anh.
Anh ngả lưng ra sau nhưng phát hiện ra mình cứ liên tục liếc trái liếc phải qua cửa sổ xe, như thể đang chuẩn bị tinh thần có thể gặp phải một cảnh sát quơ tay, ra hiệu cho xe taxi dừng lại. Lố bịch! Anh toàn hoàn trong sạch.
Vậy nhưng cảm giác ấy lại đến khi anh đặt chân vào khách sạn Victoria – như thể bằng cách nào đó luật pháp đã tìm được địa chỉ của anh và đã chờ sẵn trong sảnh để gặp anh. Nhưng không. Jonathan lặng lẽ đi về phòng mình và đóng cửa lại. Anh sờ túi áo, túi áo khoác, tìm găng tay. Nó đã mất, hẳn đã rơi đâu đó.
Bảy giờ hai mươi phút tối. Jonathan cởi áo khoác, thả nó vào ghế bành, đi tìm thuốc lá, anh đã quên mang nó theo. Anh hít hà khói thuốc lá Gitane dễ chịu. Anh đặt điếu thuốc lên mép bồn rửa trong phòng tắm, rửa mặt rửa tay, rồi cởi áo ra và dùng khăn mặt và nước nóng lau người.
Khi anh đang tròng áo len vào, điện thoại reo.
“Anh Karl đợi anh bên dưới.”
Jonathan đi xuống. Anh vắt áo khoác qua tay. Anh muốn trả nó cho Reeves, không muốn nhìn thấy nó nữa.
“Chào ngài!” Karl nói, cười toe toét, như thể anh ta đã nhận được tin và cho rằng đó là tin tốt.
Vào xe, Jonathan châm một điếu thuốc lá nữa. Hôm nay là tối thứ Tư. Anh đã bảo Simone là có thể tối nay anh sẽ về đến nhà, nhưng chắc phải mai cô mới nhận được bức thư ấy. Anh nghĩ tới hai quyển sách đến hạn trả vào thứ Bảy ở thư viện cạnh nhà thờ ở Fontainebleau.
Một lần nữa Jonathan lại đặt chân vào căn hộ dễ chịu của Reeves. Anh trả áo khoác cho anh ta thay vì đưa cho bà Gaby. Anh cảm thấy lúng túng.
“Anh thế nào, Jonathan?” Anh ta hỏi, căng thẳng và quan tâm. “Nó diễn ra thế nào?”
Bà Gaby đã ra ngoài. Jonathan và Reeevs đang đứng trong phòng khách.
“Vẫn ổn,” anh nói. “Tôi nghĩ vậy.”
Reeves cười nhẹ - kể cả vậy thì khuôn mặt anh ta trông vẫn bừng sáng. “Tốt lắm. Được rồi! Anh biết không, tôi chưa nhận được tin gì cả. Tôi có thể mời anh sâmpanh chứ, Jonathan? Hay scotch? Ngồi xuống đi!”
“Scotch đi.”
Reeves cúi xuống tìm rượu. Anh ta dùng giọng nhẹ nhàng hỏi, “Nổ súng mấy lần thế Jonathan?”
“Một.” Thế nếu gã ta không chết thì sao, đột nhiên anh nghĩ tới. Không phải điều đó có phần bất khả thi sao? Jonathan nhận scotch từ tay Reeves.
Anh ta cầm một ly sâmpanh, và nâng lên với anh rồi uống. “Không khó khăn gì chứ? Fritz làm tốt chứ?”
Jonathan gật đầu và liếc nhìn ra cửa nơi bà Gaby sẽ xuất hiện nếu bà ta quay vào. “Hãy hy vọng gã ta đã chết. Tôi vừa mới nghĩ ra là – có thể gã ta chưa chết.”
“À, dù gã không chết cũng chẳng sao. Anh đã nhìn thấy gã ta ngã xuống chứ?”
“Có.” Jonathan thở dài và nhận ra suốt mấy phút vừa qua anh đã gần như nín thở.
“Chắc tin tức đã truyền đến Milan rồi,” Reeves vui vẻ nói. “Một viên đạn Ý. Không phải lúc nào mafia cũng dùng súng Ý, nhưng đó là một điểm nhấn nhá dễ thương, tôi nghĩ vậy. Gã ta là thành viên băng Di Stefano. Hiện giờ ở Hamburg cũng có hai, ba gã thuộc băng Genotti, và chúng tôi hy vọng hai băng này sẽ sớm bắn nhau.”
Lúc trước Reeves đã nói chuyện này rồi. Jonathan ngồi xuống sôpha. Anh ta đi đi lại lại với vẻ thỏa mãn rạng rỡ.
“Nếu anh muốn thì chúng ta sẽ có một buổi tối yên tĩnh ở đây,” Reeves nói. “Nếu có người gọi điện thì bà Gaby sẽ báo là tôi đã ra ngoài rồi.”
“Karl hoặc bà Gaby – Họ biết nhiều không?”
“Bà Gaby – không biết gì hết. Karl dù có biết hay không cũng chẳng ảnh hưởng gì. Đơn giản vì anh ta không quan tâm. Ngoài tôi ra anh ta còn làm việc cho vài người nữa, và anh ta được trả công hậu hĩnh. Không biết gì là tốt nhất cho anh ta, anh hiểu ý tôi chứ.”
Jonathan hiểu. Nhưng thông tin của Reeves không khiến anh cảm thấy dễ chịu hơn chút nào. “Tiện thể… ngày mai tôi muốn quay về Pháp.” Điều này mang hai ý nghĩa, một là anh ta có thể trả tiền cho anh hoặc sắp xếp trả tiền cho anh ngay tối nay, và hai là nhiệm vụ còn lại cần được thảo luận ngay tối nay. Jonathan định từ chối mọi nhiệm vụ khác, bất kể thỏa thuận tiền bạc là bao nhiêu đi nữa, nhưng anh nghĩ mình đáng được nhận một nửa số tiền bốn mươi nghìn bảng với những gì đã làm.
“Sao lại không chứ, nếu anh muốn,” Reeves nói. “Đừng quên sáng mai anh còn phải đi khám.”
Nhưng Jonathan không muốn gặp lại bác sĩ Wentzel nữa. Anh liếm môi. Kết quả xét nghiệm của anh rất xấu, và tình trạng của anh đã xấu đi. Ngoài ra còn có một yếu tố khác: Bác sĩ Wentzel và bộ ria mép rậm rạp của ông ta phần nào đó đại diện cho “nhà chức trách”, và Jonathan cảm thấy mình sẽ đưa bản thân vào tình thế nguy hiểm khi gặp lại bác sĩ Wentzel. Anh biết là suy nghĩ này không được logic nhưng đấy vẫn là cảm giác của anh. “Tôi không thấy có lý do gì để gặp lại bác sĩ cả – vì tôi không còn ở lại Hamburg làm gì nữa. Sáng sớm mai tôi sẽ hủy hẹn. Ông ta có địa chỉ của tôi ở Fontainebleau để gửi hóa đơn rồi.”
“Anh không thể gửi franc ra khỏi nước Pháp,” Reeevs mỉm cười nói. “Hãy gửi hóa đơn cho tôi khi anh nhận được nó. Đừng lo lắng về chuyện đó.”
Jonathan cho qua. Dẫu vậy, chắc chắn là anh không muốn có tên Reeves trên một tờ séc trả cho bác sĩ Wentzel. Anh thầm nhủ hãy nói vào điểm chính, tức là khoản tiền anh được anh ta trả. Thay vào đó, anh lại ngả lưng dựa vào sôpha và hỏi khá thoải mái, “Anh làm gì ở đây thế – ý tôi là làm việc gì?”
“Làm việc…” Reeves ngập ngừng, nhưng trông hoàn toàn không có vẻ khó chịu với câu hỏi này. “Nhiều việc khác nhau. Chẳng hạn tôi tìm đồ hộ các nhà môi giới nghệ thuật. Tất cả những quyển sách ở đằng kia…” Anh ta ra dấu về hàng sách cuối cùng trên giá. “Chúng đều là sách nghệ thuật, chủ yếu là nghệ thuật Đức, có tên tuổi địa chỉ của các cá nhân sở hữu. New York có nhu cầu cao với các họa sĩ Đức. Ngoài ra, tất nhiên, tôi tìm kiếm các họa sĩ trẻ ở đây, giới thiệu họ với các phòng tranh và người mua ở Mỹ. Texas mua nhiều tranh lắm. Anh sẽ ngạc nhiên cho xem.”
Jonathan thấy ngạc nhiên. Reeves Minot – nếu những gì anh ta nói là sự thật – hẳn đang đánh giá tranh với sự lạnh lùng của bộ đếm Geiger1. Liệu Reeves có khả năng là một nhà thẩm định tài ba không? Anh nhận ra bức tranh treo trên lò sưởi, một bức hồng rực với một chiếc giường có một người nằm trên – nam hay nữ vậy nhỉ? – rõ ràng là sắp chết, thật sự là tranh Derwatt. Nó hẳn phải cực kỳ giá trị, Jonathan nghĩ, và hiển nhiên là Reeves sở hữu bức tranh ấy.
1 Bộ đếm Geiger là phát minh của hai nhà vật lý người Đức Hans Geiger và Walther Müller. Đây là một thiết bị rất hữu ích, bởi nó giúp các nhà khoa học phát hiện ra tia gamma, hạt alpha, hạt beta và các dạng khác của bức xạ ion hóa.
“Mới mua gần đây,” anh ta nói khi thấy anh nhìn tranh của mình. “Một món quà – từ một người bạn đáng mến, có thể nói vậy.” Anh ta có vẻ muốn nói thêm nhưng nghĩ là không nên.
Trong bữa tối, Jonathan muốn khơi lại chủ đề tiền nong, nhưng không thể, Reeves nói sang chủ đề khác. Trượt băng ở Alster vào mùa đông, thuyền băng lao như gió và thỉnh thoảng lại đâm nhau. Rồi tầm một tiếng sau, khi họ đã ngồi trên sôpha uống cà phê, anh ta mới nói:
“Tối nay tôi không thể đưa cho anh hơn năm nghìn franc, điều đó thật lố bịch. Chẳng qua chỉ là tiền tiêu vặt.” Reeves đi về bàn và mở một ngăn kéo ra. “Nhưng ít nhất thì đó là tiền franc.” Anh ta cầm tiền quay về chỗ. “Tôi cũng có thể đưa thêm cho anh một số tiền tương đương bằng đồng mác trong tối nay.”
Jonathan không muốn nhận mác, không muốn phải đổi tiền ở Pháp. Theo anh thấy thì tập tiền franc gồm các tờ bạc một trăm được ghim lại thành từng xấp mười tờ một, như ngân hàng Pháp phát hành ra. Reeves đặt năm chồng tiền lên bàn cà phê, nhưng Jonathan không chạm vào.
“Anh thấy đấy, tôi không thể đưa thêm cho tới khi những người còn lại đã đóng góp. Bốn đến năm người,” Anh ta nói. “Nhưng tôi nhất định có thể gom đủ tiền mác.”
Anh thầm nghĩ, có phần mơ hồ, vì bản thân cũng chẳng phải một người giỏi mặc cả, thấy Reeves rơi vào thế yếu khi đòi những người khác tiền cho một công việc đã được thực hiện. Không phải đồng bọn của anh ta nên gom tiền trước, đặt trong một quỹ đảm bảo nào đó, hay ít nhất cũng nên góp nhiều tiền hơn con số này sao? “Tôi không muốn nhận tiền mác, cảm ơn,” Jonathan nói.
“Không à, tất nhiên rồi. Tôi hiểu chứ. Một việc nữa này, tiền của anh nên được chuyển vào một tài khoản bí mật ở Thụy Sĩ, anh có nghĩ thế không? Anh không muốn khoản tiền ấy xuất hiện trên tài khoản của mình ở Pháp, hoặc anh cũng không muốn đút nó vào trong tất như người Pháp vẫn làm, đúng không?”
“Cũng đúng. Khi nào thì anh có thể nhận nửa còn lại?” Jonathan hỏi, như thể anh chắc chắn nó sẽ đến.
“Trong vòng một tuần. Đừng quên rằng có thể còn một phi vụ thứ hai – để đảm bảo phi vụ đầu tiên mang lại hiệu quả. Chúng ta phải xem xem thế nào.”
Anh thấy khó chịu và cố gắng che giấu điều đó. “Khi nào thì anh mới biết chắc chắn?”
“Cũng trong vòng một tuần. Thậm chí có thể là bốn ngày. Tôi sẽ giữ liên lạc.”
“Nhưng – nói thật – tôi nghĩ mình đáng được nhận nhiều tiền hơn thế này mới công bằng, anh không nghĩ thế sao? Ý tôi là vào thời điểm này.” Jonathan cảm thấy mặt mình nóng lên.
“Tôi cũng vậy. Đó là lý do tôi xin lỗi vì khoản tiền nhỏ mọn này. Nói cho anh nghe này. Tôi sẽ cố hết sức và tin tiếp theo mà anh nhận được từ tôi – qua tôi – sẽ là tin tốt về một tài khoản ngân hàng Thụy Sĩ và số tiền mà anh có trong đó.”
Nghe tốt hơn rồi đấy. “Khi nào?” Anh hỏi.
“Trong vòng một tuần. Lời hứa danh dự của tôi đấy.”
“Tức là – một nửa chứ gì?” Jonathan nói.
“Tôi không dám chắc mình có thể lấy đủ một nửa trước khi – Anh biết đấy, tôi đã giải thích cho anh rồi mà Jonathan, đây là một thỏa thuận gồm hai phần. Những kẻ trả khoản tiền này muốn có một kết quả chính xác.” Reeves nhìn anh.
Jonathan có thể thấy Reeves đang ngầm hỏi anh có định nhận việc nổ súng lần hai hay không? Nếu anh không định làm thì hãy nói luôn bây giờ. “Tôi hiểu,” Jonathan nói. Thêm một ít, chỉ cần một phần ba số tiền đó thôi đã không tồi rồi, anh nghĩ. Tầm mười bốn nghìn bảng. Với những gì anh đã làm thì đó là một khoản sung túc. Jonathan quyết định ngồi im và không tranh luận thêm trong tối nay.
Hôm sau anh bay về Paris trong một chuyến bay giữa ngày. Reeves đã nói rằng anh ta sẽ hủy hẹn với bác sĩ Wentzel hộ anh và Jonathan đã để anh ta giúp. Reeves cũng nói rằng anh ta sẽ gọi tới cửa hàng của anh vào thứ Bảy, tức là ngày kia. Reeves đã đưa Jonathan ra tận sân bay, cho anh xem tờ báo sáng có hình Bianca nằm trên sàn ga tàu điện ngầm. Anh ta mang vẻ đắc chí ngầm: không có một manh mối nào ngoài khẩu súng Ý, và người ta hoài nghi một sát thủ mafia. Sáng hôm đó khi ra ngoài mua thuốc lá, Jonathan đã nhìn thấy trang đầu của tờ báo trên quầy, nhưng anh không muốn mua báo làm gì. Giờ đã lên máy bay, anh được tiếp viên hàng không tươi cười trao tờ báo. Jonathan bỏ tờ báo gấp lại trong lòng, nhắm mắt lại.
Gần bảy giờ tối anh mới về đến nhà, đi tàu và taxi, và anh tự lấy chìa khóa mở cửa vào nhà.
“Jon!” Simone đi ra hành lang để chào anh.
Anh vòng tay ôm lấy cô. “Chào em yêu!”
“Em đang chờ anh về đấy!” Cô nói, tươi cười. “Không hiểu sao. Vừa xong em đã nghĩ anh sắp về. Có tin gì mới không? Cởi áo ra đã. Sáng nay em mới nhận được bức thư anh báo có thể về nhà từ tối qua. Anh mất trí rồi à?”
Jonathan treo áo khoác lên móc và bế bổng Georges lên, thằng bé vừa lao vào chân anh. “Sâu con bé bỏng của cha thế nào rồi? Cailloux thế nào rồi?” Anh hôn má của Georges. Jonathan đã mua cho thằng bé một chiếc xe tải nhấc được thùng lên và nó đang nằm trong túi nhựa cùng một chai whiskey, nhưng anh nghĩ rằng có thể khoe xe tải sau, và anh rút chai rượu ra.
“A, hàng xa xỉ!” Simone nói. “Chúng ta có nên khui nó luôn không?”
“Nhất định rồi!” Jonathan trả lời.
Họ vào bếp. Cô thích uống scotch với đá còn anh thì thấy thế nào cũng được.
“Kể cho em nghe xem bác sĩ nói gì đi.” Cô mang khay đá về phía bồn rửa.
“À – họ nói hệt như các bác sĩ ở đây. Nhưng họ muốn cho anh thử vài loại thuốc. Họ sẽ báo tin sau.” Trên máy bay, Jonathan đã quyết định nói với Simone như thế. Như vậy mới có cơ quay lại Đức. Vả lại việc kể cho cô biết rằng mọi thứ tồi tệ hơn một xíu, hoặc trông có vẻ tệ hơn đâu có ích lợi thực tế gì? Cô có thể làm gì ngoài lo lắng thêm một chút? Sự lạc quan của anh đã dâng lên trên máy bay: nếu anh đã thành công vượt qua cửa ải đầu tiên thì nhiều khả năng anh cũng có thể thuận lợi qua cửa thứ hai chứ.
“Ý anh là anh sẽ phải quay lại à?” Cô hỏi.
“Có khả năng đó.” Jonathan nhìn cô rót hai cốc đầy scotch. “Nhưng họ nói là sẵn lòng trả tiền cho anh.”
“Thật á?” Simone nói, ngạc nhiên.
“Đó là rượu scotch ạ? Con được uống gì?” Georges hỏi bằng tiếng Anh, giọng rõ ràng đến mức Jonathan phá ra cười.
“Có muốn một ít không? Nhấp thử đi,” anh nói, giơ cốc rượu của mình ra.
Cô kìm tay anh lại. “Có nước cam đấy Georgie!” Cô rót nước cam cho thằng bé. “Ý anh là họ đang thử nghiệm một phương pháp điều trị à?”
Jonathan cau mày nhưng vẫn cảm thấy đang làm chủ tình thế. “Em yêu, không có cách điều trị nào đâu. Họ đang… đang thử rất nhiều loại thuốc mới. Đó là tất cả những gì anh biết đấy. Ăn mừng nào!” Anh cảm thấy đôi chút phấn khích. Anh đang có năm nghìn franc ở túi áo trong. Tại khoảnh khắc này, anh an toàn, an toàn giữa vòng tay đùm bọc của gia đình. Nếu tất cả diễn ra tốt đẹp thì năm nghìn chỉ là tiền tiêu vặt, như Reeves Minot đã nói.
Simone dựa vào lưng ghế. “Họ sẽ trả tiền cho anh quay lại đó à? Có phải nghĩa là có nguy hiểm không?”
“Không. Anh nghĩ là – có chút bất tiện thôi. Quay lại Đức. Ý anh là họ chỉ trả tiền đi lại thôi.” Jonathan chưa nghĩ xong: anh có thể nói rằng bác sĩ Perrier sẽ tiêm và cấp thuốc. Nhưng vào thời điểm này thì anh nghĩ mình đã nói điều phù hợp.
“Ý anh là – họ nghĩ anh là một trường hợp đặc biệt à?”
“Phải. Theo một cách nào đó. Tất nhiên là anh không đặc biệt đâu,” anh nói, mỉm cười. Anh không đặc biệt và Simone cũng biết điều đó. “Có thể họ chỉ muốn thử vài xét nghiệm thôi. Anh chưa biết rõ nữa, em yêu.”
“Dẫu sao thì trông anh cũng vui chết đi được. Em mừng lắm, anh yêu.”
“Tối nay ra ngoài ăn tối nhé. Nhà hàng ở góc phố. Chúng ta có thể đưa Georges đi theo,” anh át đi tiếng phản đối của cô. “Thôi nào, chúng ta có khả năng chi trả mà.”