Đ
ến thứ Tư, như đã hứa, Reeves gọi đến cửa hàng của Jonathan. Anh bận rộn một cách lạ thường và đã phải bảo anh ta gọi lại sau trưa.
Reeves gọi lại thật và sau vài lời hỏi han xã giao thường ngày, anh ta hỏi Jonathan ngày mai có thể đến Munich không.
“Anh biết đấy, ở Munich cũng có vài bác sĩ rất giỏi. Tôi đã nghĩ tới một người, bác sĩ Max Schroeder. Theo tôi tìm hiểu thì ông ta có thể khám cho anh vào sáng sớm ngày thứ Sáu, tầm tám giờ. Tất cả những gì tôi phải làm là xác nhận lịch hẹn. Nếu anh...”
“Được rồi,” anh nói, cũng đã dự kiến cuộc trò chuyện sẽ đi đúng theo hướng này. “Tuyệt quá, Reeves. Tôi sẽ tự lo liệu vé máy bay...”
“Một chiều nhé, Jonathan. À thì, chuyện đó tùy anh.”
Jonathan biết rõ. “Khi nào tìm hiểu được giờ bay, tôi sẽ gọi lại cho anh.”
“Tôi biết giờ bay đây. Có một chuyến rời khỏi sân bay Orly lúc một giờ mười lăm phút chiều, bay thẳng tới Munich, nếu anh có thể xoay xở để đi kịp.”
“Được. Tôi sẽ nhắm đến chuyến bay đó.”
“Nếu không nhận được tin gì từ anh thì tôi sẽ mặc định là anh đã lên máy bay. Tôi sẽ gặp anh ở nhà ga thành phố như lần trước.”
Lơ đễnh, Jonathan tiến về phía bồn rửa, dùng cả hai tay vuốt tóc rồi vươn tay lấy áo mưa của mình. Trời mưa nhẹ và khá buốt. Ngày hôm qua anh đã ra quyết định. Anh sẽ lặp lại chuỗi hành động đó một lần nữa, có điều lần này anh sẽ đi khám bác sĩ ở Munich và sẽ lên tàu. Phần khiến Jonathan nghi ngại là tinh thần của anh. Anh đủ sức làm đến mức nào? Anh ra khỏi cửa hàng và khóa cửa lại.
Jonathan va vào một cái thùng rác trên vỉa hè, và nhận ra anh đang lê từng bước một thay vì đi bộ. Anh khẽ ngẩng đầu lên. Anh sẽ đòi được cấp súng cùng với thòng lọng, và nếu anh ngần ngại không dám dùng thòng lọng vì mất can đảm (điều mà Jonathan lường trước là sẽ xảy ra) và chuyển sang dùng súng, thì phải chịu thôi. Jonathan sẽ thỏa thuận với Reeves: nếu anh dùng súng, nếu hiển nhiên anh sẽ bị bắt, thì anh sẽ dùng một, hai viên đạn tiếp theo cho chính mình. Như thế thì anh không đời nào có khả năng phản bội Reeves và những người khác mà anh ta có quan hệ. Để đáp lại, Reeves sẽ trả số tiền còn lại cho Simone. Jonathan nhận ra là xác anh không thể nhầm thành người Ý, nhưng có khả năng băng Di Stefano sẽ thuê một sát thủ không phải là người Ý lắm chứ.
Jonathan nói với Simone, “Sáng nay anh đã nhận được điện thoại từ bác sĩ ở Hamburg. Ông ta muốn anh tới Munich vào ngày mai.”
“Ôi? Sớm thế cơ à?”
Jonathan nhớ đã bảo với Simone rằng chắc chỉ tầm hai tuần nữa là bác sĩ muốn gặp lại anh. Anh đã nói rằng bác sĩ Wentzel kê cho anh vài loại thuốc mà ông ta muốn theo dõi kết quả. Thực tế thì anh và bác sĩ Wentzel cũng đã nói chuyện về thuốc thang – dù không liên quan nhiều tới bệnh bạch cầu trừ việc cố gắng giảm nhẹ bệnh bằng thuốc – nhưng bác sĩ Wentzel không hề kê một đơn thuốc nào cho anh hết. Jonathan chắc chắn ông ta sẽ kê đơn cho anh nếu có dịp gặp lại nhau lần hai. “Có một bác sĩ nữa ở Munich – một người tên là Schroeder – mà bác sĩ Wentzel muốn anh đến khám thử.”
“Munich ở đâu ạ?” Georges hỏi.
“Ở Đức,” Jonathan nói.
“Anh sẽ đi bao lâu?” Simone hỏi.
“Chắc là – tới sáng Chủ nhật,” Jonathan nói, đang thầm nghĩ rằng có khi tối thứ Sáu tàu sẽ về rất muộn nên sẽ không còn tàu từ Paris đi Fontainebleau.
“Thế còn cửa hàng thì sao? Sáng mai anh có muốn em đến trông hàng không? Còn thứ Sáu nữa? Ngày mai anh phải đi lúc mấy giờ?”
“Có một chuyến bay lúc một giờ mười lăm. Em yêu, em đến trông cửa hàng vào sáng mai và sáng thứ Sáu được thì tốt quá – dù chỉ trong một tiếng đồng hồ thôi. Sẽ có vài người đến lấy tranh.” Jonathan nhẹ nhàng chọc dao vào miếng phô mai Camembert mà anh đã lấy nhưng không muốn ăn.
“Anh có lo không, Jon?”
“Không hẳn. Không, ngược lại là đằng khác, dù anh có nhận được tin gì đi nữa thì cũng chỉ là tin tốt mà thôi.” Tỏ ra tươi vui xã giao, Jonathan nghĩ, toàn câu nhảm nhí. Bác sĩ chẳng thể làm gì chống lại được thời gian. Anh liếc nhìn cậu con trai trông có vẻ ngơ ngác nhưng không muốn hỏi thêm câu gì nữa, và Jonathan nhận ra rằng Georges đã nghe các cuộc trò chuyện như thế này từ khi có thể hiểu được. Thằng bé đã được nghe rằng, “Cha con mang một mầm bệnh. Như bệnh cúm. Thỉnh thoảng nó khiến cha mệt mỏi. Nhưng con không thể bắt được nó. Không ai bắt được nó hết, nên nó sẽ không làm con đau đâu.”
“Anh sẽ ngủ lại bệnh viện à?” Simone hỏi.
Mới đầu Jonathan không hiểu cô nói gì. “Không. Bác sĩ Wentzel – thư ký của ông ta nói rằng họ sẽ đặt khách sạn cho anh.”
Sáng hôm sau Jonathan ra khỏi nhà lúc chín giờ hơn để bắt kịp chuyến tàu lúc chín giờ bốn mươi hai phút tới Paris, vì chuyến sau đó sẽ khiến anh tới Orly quá muộn. Anh đã mua vé máy bay một chiều vào hôm qua và anh cũng bỏ thêm một nghìn franc vào tài khoản ở ngân hàng Societe Generale, và năm trăm franc cất ví, tức là còn lại hai nghìn năm trăm franc ở trong ngăn kéo cửa hàng. Anh cũng đã lấy quyển Tử thần ra khỏi tủ và nhét nó vào vali để mang trả cho Reeves.
Năm giờ kém, Jonathan xuống chiếc xe buýt đã đưa anh tới ga trung tâm Munich. Hôm đó là một ngày nắng ráo, dễ chịu. Có vài người đàn ông trung niên vạm vỡ mặc quần đùi da và áo khoác xanh chơi đàn thùng trên vỉa hè. Anh thấy Reeves lao về phía mình.
“Tôi đến hơi muộn, xin lỗi!” Reeves nói. “Anh khỏe không, Jonathan?”
“Vẫn tốt, cảm ơn anh,” Jonathan nói, mỉm cười.
“Tôi đã thuê một phòng khách sạn cho anh. Bây giờ chúng ta sẽ đi taxi. Tôi ở khách sạn khác nhưng tôi sẽ lên phòng với anh và chúng ta sẽ nói chuyện.”
Họ bắt taxi. Reeves tán gẫu về Munich. Trông anh ta có vẻ biết tường tận thành phố này và rất thích nó chứ không phải đang nói chuyện chỉ vì bồn chồn. Reeves có một tấm bản đồ và chỉ địa điểm “Vườn Anh” mà taxi của họ chuẩn bị đi qua và khu vực đó giáp sông Isar, nơi anh ta báo là anh sẽ đến đó khám lúc tám giờ sáng mai. Cả hai khách sạn của họ đều nằm ở khu trung tâm, theo lời Reeves. Taxi dừng lại ở một khách sạn và một cậu bé mặc đồng phục màu đỏ sậm mở cửa xe.
Jonathan đăng ký. Sảnh khách sạn có rất nhiều tấm kính màu hiện đại tái hiện các hiệp sĩ Đức và người hát rong. Anh thoải mái nhận ra rằng mình cảm thấy khỏe khoắn một cách bất thường, do đó cũng vui vẻ hơn. Đấy có phải là khúc dạo đầu cho một tin tức khủng khiếp vào ngày mai, một thảm họa kinh hoàng nào đó sắp đến? Jonathan chợt ý thức được rằng thật điên rồ khi cảm thấy vui vẻ và anh cẩn trọng kiềm chế lại, như thể anh đang trên đà uống quá nhiều rượu.
Reeves đi theo anh lên phòng. Người khuân vác hành lý ra khỏi cửa sau khi đã đặt vali vào phòng. Jonathan móc áo khoác lên một cái giá treo đồ trong hành lang, hệt như anh hay làm ở nhà.
“Sáng mai – thậm chí là ngay trong chiều nay chúng ta có thể mua cho anh một chiếc áo khoác mới,” Reeves nói, biểu cảm có phần nhăn nhó khi nhìn áo khoác của Jonathan.
“À?” Anh cũng phải thừa nhận là áo khoác của mình khá xoàng xĩnh. Anh cười nhẹ, không hề thấy bực bội. Ít nhất thì anh đã mang theo bộ vest đẹp và đôi giày đen khá mới. Anh treo bộ vest xanh lên.
“Sau tất cả, anh sẽ ngồi khoang hạng nhất trên tàu,” Reeves nói. Anh ta đi ra cửa và kéo khóa trượt, khiến cho bất kỳ ai ở bên ngoài đều không thể vào trong được. “Tôi có một khẩu súng. Một khẩu súng Ý khác, hơi khác. Tôi không thể kiếm một bộ giảm thanh nhưng tôi nghĩ – nói thật với anh – có giảm thanh cũng chẳng có gì khác biệt.”
Jonathan hiểu. Anh nhìn khẩu súng nhỏ mà Reeves vừa rút ra khỏi túi, trong khoảnh khắc bỗng cảm thấy trống rỗng, ngu độn. Muốn nổ súng có nghĩa là ngay lập tức sau đó anh cũng phải tự tử. Đó là ý nghĩa duy nhất mà khẩu súng này mang lại cho anh.
“Và tất nhiên, cả cái này nữa” Reeves nói, kéo thòng lọng ra khỏi túi.
Dưới ánh sáng Munich rực rỡ, sợi dây có màu như màu da người.
“Thử dùng với... lưng ghế kia đi,” Reeves nói.
Jonathan cầm sợi dây và thả thòng lọng qua một bóng hình tưởng tượng ngồi ở trên ghế. Anh thờ ơ kéo dây cho tới khi nó thắt chặt lại. Giờ anh thậm chí còn chẳng cảm thấy ghê tởm, chỉ thấy trống rỗng. Anh tự hỏi liệu người bình thường khi nhìn thấy sợi dây này trong túi áo hoặc ở đâu đó trên người anh thì có ngay lập tức biết nó là gì không? Chắc là không, Jonathan nghĩ.
“Tất nhiên, anh phải giật mạnh một cái,” Reeves nói một cách nghiêm túc, “và giữ thật chặt.”
Đột nhiên Jonathan cảm thấy bực bội, dợm muốn cáu kỉnh nói gì đó nhưng rồi kiềm chế được. Anh đang tháo sợi dây ra khỏi ghế và chuẩn bị thả nó xuống giường thì Reeves lên tiếng:
“Hãy cất nó trong túi áo của anh. Túi của bất kỳ bộ đồ nào mà anh định mặc ngày mai.”
Jonathan cất nó vào túi quần anh đang mặc, nhưng rồi lại đi cất nó vào túi quần bộ vest xanh.
“Và tôi muốn cho anh xem hai bức ảnh.” Reeves rút một phong bì ra khỏi túi áo trong. Phong bì trắng tinh chứa hai bức ảnh, một bức bóng loáng có kích cỡ tương tự một tấm bưu thiếp, bức còn lại là ảnh trên báo được gấp đôi gọn gàng. “Vito Marcangelo.”
Jonathan nhìn tấm ảnh bóng, vài chỗ bị nứt. Trong hình là một người đàn ông mặt tròn trịa, môi dày mập mạp, mái tóc đen lượn sóng. Hai bên thái dương điểm xám mang lại cảm giác khói đang bốc ra từ hai bên đầu ông ta.
“Ông ta tầm năm sáu,” Reeves nói. “Mái tóc ông ta điểm xám ở chỗ đó, ông ta không nhuộm lại. Và đây là ảnh ông ta đang tiệc tùng.”
Ảnh trên báo chụp ba người đàn ông và hai người phụ nữ đứng sau một bàn ăn. Một mũi tên bằng mực chỉ vào người đàn ông lùn, đang cười đùa với hai chỏm tóc xám bên thái dương. Tiêu đề viết bằng tiếng Đức.
Reeves lấy lại hai bức ảnh. “Xuống nhà mua áo khoác đã. Phải có cửa hàng mở chứ. Tiện thể thì chốt an toàn của khẩu súng này có cùng nguyên lý hoạt động như khẩu lần trước. Nó đã được nạp sẵn sáu viên đạn. Tôi sẽ cất nó vào đây, được chứ?” Anh ta cầm khẩu súng từ dưới chân giường và đặt nó vào góc vali của Jonathan. “Briennerstrasse rất thích hợp để mua sắm đấy,” Reeves nói khi họ đi thang máy xuống nhà.
Họ đi bộ. Jonathan đã bỏ áo khoác lại phòng.
Anh chọn một chiếc áo bằng vải tweed màu xanh lục sậm. Ai sẽ trả tiền cho nó? Điều đó có vẻ không mấy quan trọng. Jonathan cũng nghĩ rằng có thể anh chỉ còn khoảng hai mươi tư tiếng để mặc nó. Reeves khăng khăng đòi trả tiền áo, dù Jonathan nói rằng anh có thể trả tiền lại cho anh ta sau khi đổi franc sang mác.
“Không, không, tôi coi đó làm niềm vui mà,” Reeves nói, hất đầu nhẹ, thỉnh thoảng nó thay thế hành động mỉm cười của anh ta.
Jonathan mặc áo khoác ra khỏi cửa hàng. Reeves chỉ trỏ giới thiệu cho anh trong khi họ đi bộ – quảng trường Odeonsplatz, điểm đầu của đại lộ Ludwigstrasse, chỗ mà Reeves nói rằng sẽ dẫn thẳng tới quận Schwabing, nơi Thomas Mann1 sống. Họ đi tới vườn Anh, sau đó đón taxi tới một quán bia. Jonathan thích uống trà hơn. Anh nhận ra rằng Reeves đang cố gắng giúp anh thả lỏng. Anh cảm thấy mình đã buông lỏng lắm rồi và thậm chí còn chẳng lo lắng về chẩn đoán của bác sĩ Max Schroeder vào sáng mai. Hay phải nghĩ, dù bác sĩ Schroeder có nói gì đi nữa thì đơn giản cũng chẳng phải chuyện quá quan trọng.
1 Paul Thomas Mann là nhà văn Đức đã đoạt giải Nobel Văn học năm 1929 và giải Goethe năm 1949. Ông được coi là nhà văn lớn nhất của Đức thế kỷ 20.
Họ ăn tối trong một nhà hàng ồn ào ở Schwabing và Reeves thông báo rằng hầu như tất cả mọi người ở nơi đó đều là “nghệ sĩ hoặc nhà văn”. Jonathan thấy thích thú với Reeves. Đầu anh hơi chuếnh choáng do bia và giờ họ đang ngồi uống ở Gumpoldsdinger.
Gần nửa đêm, Jonathan đã mặc pyjama đứng trong phòng khách sạn của mình. Anh vừa tắm xong. Điện thoại sẽ reo lúc bảy giờ mười lăm phút sáng mai, theo sau đó là một bữa ăn sáng kiểu lục địa1. Jonathan ngồi xuống bàn viết, lấy giấy nhớ từ ngăn kéo ra và ghi địa chỉ trên phong bì thư cho Simone. Sau đó anh mới nhớ ra là ngày kia hoặc thậm chí đêm mai là anh đã về nhà rồi. Anh vo tròn phong bì thư và quẳng nó vào thùng rác. Tối nay trong bữa ăn tối anh đã hỏi Reeves, “Anh có biết một người đàn ông tên là Tom Ripley không?” Anh ta ngơ ngác hỏi lại, “Không. Sao thế?” Jonathan vào giường và ấn một công tắc có thể tắt phụt mọi bóng đèn trong phòng một cách thuận tiện, kể cả đèn phòng tắm. Tối nay anh đã uống thuốc chưa nhỉ? Rồi. Ngay trước khi tắm. Anh đã cất hộp thuốc vào túi áo khoác để ngày mai có thể đưa cho bác sĩ Schroeder xem, phòng trường hợp ông ta hỏi.
1 Continental breakfast: một bữa ăn sáng kiểu Tây mà khách sạn sẽ phục vụ du khách, chủ yếu là khách quốc tế, những người luôn muốn đơn giản hóa bữa ăn sáng trong ngày. Các món ăn cụ thể tùy thuộc vào nơi phục vụ, thường gồm có cà phê, bánh mì và mứt.
Reeves đã hỏi, “Ngân hàng Thụy Sĩ đã báo gì cho anh chưa?” Họ chưa, nhưng có thể sáng nay bức thư của họ sẽ đến cửa hàng của anh, Jonathan nghĩ. Simone có mở nó ra không nhỉ? Khả năng là năm mươi năm mươi, anh nghĩ, còn tùy xem cô bận rộn đến mức nào trong cửa hàng. Bức thư từ ngân hàng Thụy Sĩ sẽ xác nhận một khoản tiền gửi trị giá tám mươi nghìn mác, và chắc sẽ có một cái thẻ cho anh ký mẫu. Jonathan đoán là phong bì thư sẽ có không có địa chỉ hoàn trả hay bất kỳ cái gì cho biết nó đến từ ngân hàng. Vì thứ Bảy này anh sẽ về đến nhà, Simone có thể sẽ để nguyên các bức thư không mở ra. Năm mươi – năm mươi, anh lại nghĩ như vậy và êm ái chìm dần vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau trong bệnh viện, không khí có vẻ có trật tự nghiêm ngặt nhưng kỳ lạ thay cũng rất thoải mái. Reeves có mặt suốt thời gian khám bệnh và Jonathan thấy, dù toàn bộ cuộc đối thoại diễn ra bằng tiếng Đức, Reeves không hề kể cho bác sĩ Schroeder về buổi xét nghiệm lần trước ở Hamburg. Kết quả xét nghiệm đó giờ thuộc quyền xử lý của bác sĩ Perrier ở Fontainebleau, người mà hẳn đến giờ đã gửi nó cho phòng xét nghiệm Ebberle-Valent như ông ta đã hứa.
Một lần nữa y tá nói tiếng Anh rất thành thạo. Bác sĩ Max Schroeder tầm năm mươi tuổi, mái tóc đen dài đến cổ áo hết sức tân thời.
“Ông ấy nói rằng,” Reeves thuật lại với Jonathan, “đây là một bệnh án kinh điển với… không nhiều dự báo vui vẻ cho tương lai.”
Không, chẳng có gì mới với Jonathan hết. Kể cả thông báo kết quả xét nghiệm sẽ có vào sáng mai.
Khi anh và Reeves đi ra khỏi bệnh viện là đã gần mười một giờ trưa. Họ đi dọc bờ sông Isar, xung quanh có những đứa trẻ ngồi xe đẩy, những tòa chung cư bằng đá, một hiệu thuốc, một cửa hàng tạp hóa, tất cả những yếu tố của sự sống mà buổi sáng hôm ấy Jonathan không mảy may cảm thấy anh cũng thuộc về. Anh thậm chí còn phải nhớ hít thở. Anh nghĩ chắc hôm nay sẽ là một ngày đầy thất bại. Anh muốn đâm đầu xuống sông và chết đuối quách đi cho rồi, hoặc không thì trở thành một con cá cũng được. Sự hiện diện và những câu nói rời rạc của Reeves khiến anh bực bội. Cuối cùng anh cũng làm thế nào đó mà chặn lời Reeves ngoài tai hoàn toàn. Jonathan cảm thấy rằng hôm nay anh sẽ không giết ai hết, dù là bằng sợi dây trong túi hay bằng súng.
“Không phải tôi nên nghĩ tới việc đi lấy vali,” Jonathan ngắt lời anh ta, “nếu tàu xuất phát vào tầm hai giờ à?”
Họ tìm được một chiếc taxi.
Gần sát khách sạn có một ô cửa sổ cửa hàng trưng bày những món đồ lấp lánh, sáng lóa lên với các bóng đèn vàng và bạc trông như một cây thông Giáng sinh Đức. Anh tiến lại gần đó. Chủ yếu là các món đồ nữ trang rẻ tiền để bán cho du khách, anh thất vọng nhận ra, nhưng rồi chú ý đến một con quay hồi chuyển nằm nghiêng trong chiếc hộp vuông.
“Tôi muốn mua quà cho con trai,” Jonathan nói và vào cửa hàng. Anh chỉ vào món đồ và nói, “Bitte1,” và mua con quay hồi chuyển mà không thèm để ý giá. Sáng nay anh đã đổi hai trăm franc ở khách sạn.
1Tiếng Đức: xin lỗi.
Jonathan đã thu dọn hành lý xong xuôi nên tất cả những gì phải làm chỉ là đóng vali lại. Anh tự mang hành lý xuống. Reeves nhét một tờ tiền một trăm mác vào tay Jonathan và bảo anh đi trả tiền khách sạn, vì nếu anh ta trả sẽ rất kỳ lạ. Tiền đã không còn là vấn đề nữa đối với anh.
Họ đến ga sớm. Trong quầy giải khát ở ga, Joanthan không muốn ăn gì hết, chỉ uống cà phê.
Vậy nên Reeves gọi cà phê. “Tôi nhận ra rằng anh phải tự tạo ra cơ hội cho mình, Jon. Tôi biết mọi chuyện có thể không thuận lợi, nhưng chúng tôi muốn giết gã này… Hãy ở gần toa ăn. Hút một điếu thuốc lá, đứng ở cuối toa tàu gần toa ăn, chẳng hạn thế…”
Anh uống cốc cà phê thứ hai. Reeves mua một tờ Daily Telegraph và một quyển sách bìa mềm cho Jonathan mang theo.
Sau đó tàu vào ga, tàu tốc hành Mozart màu xám và xanh dương bóng lộn, đẹp đẽ lăn bánh trên đường ray. Reeves đang tìm Marcangelo, người đáng nhẽ phải bắt đầu lên tàu cùng ít nhất hai tay bảo vệ. Áng chừng có sáu mươi người đang chuẩn bị lên tàu trong ga, và cũng có từng đấy người xuống tàu. Reeves nắm lấy cánh tay của Jonathan và chỉ tay. Anh đang đứng xách vali cạnh toa tàu mà mình phải lên, theo vé. Jonathan nhìn thấy – có chắc không nhỉ? – nhóm ba người đàn ông mà Reeves nhắc đến, ba gã lùn tịt đội mũ trèo lên bậc thang của một toa tàu cách chỗ anh ngồi hai toa và ở gần đầu tàu hơn.
“Gã đấy. Tôi thậm chí còn nhìn thấy cả màu xám trên tóc gã,” Reeves nói. “Giờ thì toa ăn đâu rồi?” Anh ta lùi lại để quan sát rõ hơn, lao về phía đầu tàu rồi quay lại. “Nó là toa trước toa của Marcangelo đấy.”
Giờ thì người ta đang thông báo việc tàu sắp rời ga bằng tiếng Pháp.
“Anh để súng trong túi rồi chứ?” Reeves hỏi.
Jonathan gật đầu. Khi anh lên phòng lấy vali, anh ta đã nhắc anh đút súng vào túi. “Hãy bảo đảm vợ tôi nhận được tiền, bất kể chuyện gì xảy ra với tôi nhé.”
“Tôi hứa.” Reeves vỗ cánh tay anh.
Còi tàu thổi lần thứ hai và cửa đóng sập lại. Jonathan lên tàu và không quay lại nhìn Reeves nữa, dù biết anh ta sẽ dõi mắt theo. Anh tìm ghế ngồi của mình. Chỉ có hai người nữa trong khoang, khoang dành cho tám hành khách. Ghế bằng vải nhung lông màu đỏ sẫm. Jonathan cất vali lên một cái giá trên đầu, sau đó đến chiếc áo khoác mới được lộn lại. Một chàng trai vào khoang và nhoài người ra khỏi cửa sổ, nói chuyện với ai đó bằng tiếng Đức. Những người bạn đồng hành còn lại của anh là một người đàn ông trung niên có vẻ đang chìm đắm vào giấy tờ công việc, một phụ nữ nhỏ con, gọn gàng, đội mũ nhỏ và đọc tiểu thuyết. Ghế ngồi của Jonathan nằm ngay cạnh vị doanh nhân, ông ta ngồi cạnh cửa sổ theo chiều tàu chạy. Anh lật tờ Telegraph của mình ra.
Lúc đó là hai giờ mười một phút chiều.
Jonathan ngắm nhìn vùng ngoại ô Munich trôi vụt qua, những tòa văn phòng có mái vòm trông như củ hành tây. Đối diện anh có ba bức tranh lồng khung – một tòa lâu đài ở đâu đó, một cái hồ với đôi thiên nga và một đỉnh núi tuyết phủ trên dãy Alp. Tàu cà bánh trên đường ray phẳng lì và lắc nhẹ. Jonathan nhắm hờ mắt. Khi lồng các ngón tay vào nhau còn cẳng tay thì đặt trên tay vịn, anh gần như có thể ngủ gà ngủ gật. Vẫn còn thời gian để đưa ra quyết định, để đổi ý, để rút lui. Marcangelo cũng tới Paris giống anh, và phải tới mười một giờ bảy phút đêm nay tàu mới đến nơi. Anh nhớ Reeves nói tàu sẽ dừng nghỉ ở Strassburg vào tầm sáu rưỡi tối. Vài phút sau, Jonathan choàng tỉnh và nhận ra có một nhóm người nhỏ nhưng đều đặn tiến lại gần hành lang sau toa có cửa kính. Một người đàn ông đẩy xe đựng sandwich, vài chai bia và rượu vang vào toa. Chàng trai trẻ mua một chai bia. Một người đàn ông vạm vỡ đứng hút tẩu trong hành lang, thỉnh thoảng lại nép vào cửa sổ để cho người khác đi qua.
Tản bộ qua toa của Marcangelo chẳng có hại gì, cứ vờ như đang trên đường tới toa ăn, anh nghĩ, chỉ để xem xét tình huống một chút, nhưng Jonathan phải mất vài phút để tập trung đầu óc, trong khoảng thời gian đó anh hút một điếu Gitane. Anh vẩy tàn thuốc vào hộp đựng tháo ra được lắp dưới bệ cửa sổ, cẩn thận không làm rơi vào đầu gối của người đàn ông đang đọc giấy tờ công việc.
Cuối cùng Jonathan đứng dậy và tiến về phía trước. Cửa ở cuối toa quá nhớp nháp khó mở. Phải đi qua thêm hai cánh cửa nữa anh mới tới được toa của Marcangelo. Jonathan bước đi chậm rãi, trụ vững cơ thể trước chuyển động lắc lư nhè nhẹ nhưng thất thường của tàu, liếc nhìn quanh mỗi toa. Anh nhận ra toa của Marcangelo ngay lập tức, vì gã ngồi ngay giữa toa trước mặt Jonathan, đang say ngủ với hai bàn tay gấp lại trên bụng, hàm dưới gục vào cổ áo, hai túm tóc xám ở hai bên thái dương bay ra sau rồi dựng lên. Anh thoáng thấy hai gã người Ý còn lại dựa gần nhau, nói chuyện và khoa tay múa chân. Không còn ai khác trong toa này, Jonathan nghĩ. Anh tiếp tục đi tới cuối toa và đến khoảng tiếp giáp giữa hai toa, nơi anh châm một điếu thuốc lá và đứng nhìn ra ngoài cửa sổ. Cuối toa có một nhà vệ sinh, giờ ổ khóa tròn của nó hiện màu đỏ, cho biết có người bên trong. Một người đàn ông khác, đầu trọc và gầy nhẳng, đứng cạnh ô cửa sổ đối diện, chắc đang chờ đi vệ sinh. Ý tưởng cố gắng giết một người tại đây thật là ngớ ngẩn, vì nhất định sẽ có nhân chứng. Hoặc cho dù chỉ có sát thủ và nạn nhân ở trên ga đi nữa thì không phải vẫn có khả năng cao là sẽ có người mau chóng xuất hiện trong vài giây à? Tàu hoàn toàn không ồn và nếu có người thét lên, dù thòng lọng đã tròng quanh cổ, thì không phải người trong toa đầu tiên đều sẽ nghe thấy tiếng à?
Một người đàn ông và một phụ nữ bước ra khỏi toa ăn và đi vào hành lang của toa hành khách, không thèm đóng cửa, dù ngay lập tức đã có một nhân viên phục vụ mặc áo khoác trắng làm điều này.
Jonathan đi ngược về hướng toa xe của mình và liếc nhìn vào toa của Marcangelo một lần nữa, nhưng chỉ thoáng qua. Gã đang hút huốc lá, cúi gập về phía trước, tán gẫu.
Nếu tiến hành thì phải hoàn thành trước khi đến Strassburg, Jonathan nghĩ. Anh cho rằng sẽ có rất nhiều người lên tàu ở đó để tới Paris. Nhưng có thể về vấn đề này anh đã sai. Anh nghĩ trong khoảng nửa tiếng nữa, anh phải mặc áo khoác, đến đứng ở chỗ nối hai toa cuối toa tàu của Marcangelo và chờ đợi. Giả sử gã dùng phòng vệ sinh ở đầu toa bên kia thì sao? Cả hai đầu đều có nhà vệ sinh. Giả sử gã không thèm đi vệ sinh thì sao? Chuyện đó có khả năng xảy ra chứ, dù không cao lắm. Giả sử mấy gã Ý này cũng không muốn đến toa ăn thì sao? Không, về mặt logic thì chúng sẽ đến toa ăn thôi, nhưng tất cả sẽ đi cùng nhau. Nếu anh không thể làm được gì thì Reeves đơn giản sẽ phải lên một kế hoạch khác, một kế hoạch tốt hơn thế này, Jonathan nghĩ. Nhưng Marcangelo, hoặc một người đồng cấp, sẽ phải bị giết, bởi anh, nếu anh muốn lấy thêm tiền.
Tầm bốn giờ chiều, Jonathan ép mình phải đứng dậy, cẩn thận kéo áo khoác xuống. Ra hành lang, anh mặc áo vào, túi bên phải nặng trĩu, và mang theo quyển sách tới đứng ở cuối toa của Marcangelo, chỗ tiếp giáp hai toa tàu.